Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp luật việt nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối qua...

Tài liệu Pháp luật việt nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư

.PDF
103
12
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ ANH ĐỨC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NHÀ ĐẦU TƯ LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ LÊ ANH ĐỨC PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NHÀ ĐẦU TƯ Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 62.38.50 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lê Anh Đức 1 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan ............................................................................................ 01 Mục lục ..................................................................................................... 02 Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ...................................................... 03 MỞ ĐẦU .................................................................................................. 04 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NĐT VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CTCK TRÊN TTCK 1.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán 08 1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán với việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư ................................................. 29 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẠT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NĐT 2.1. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh môi giới của Công ty chứng khoán với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư ..................... 45 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động tư vấn đầu tư của Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ nhà đầu tư ...................................................... 50 2.3. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động tự doanh trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư....................................................... 52 2.4. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư .............................................. 55 2.5. Xử lý hành vi phạm của Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư .......................................................................................................... 57 2.6. Phá sản Công ty chứng khoán và vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư ... 70 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CTCK ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH CỦA NĐT 3.1. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư ............................................... 76 3.2. Giải pháp hoàn thiện cụ thể ........................................................................ 79 2 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ STT KÝ HIỆU, VIẾT TẮT 1 Thị trường chứng khoán TTCK 2 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN 3 Sở giao dịch chứng khoán SGDCK 4 Công ty Chứng khoán CTCK 5 Công ty quản lý quỹ CTQLQ 6 Chứng khoán CK 7 Nhà đầu tư NĐT 8 Trung tâm lưu ký TTLK 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Mới chỉ ra đời chưa đầy 9 năm, TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn hiệu quả cho doanh nghiệp nói riêng, cho thị trường vốn nói chung. Nửa cuối năm 2006, đầu năm 2007, TTCK đã có bước phát triển nhảy vọt, kéo theo sự ra đời của hàng loạt các thiết chế trung gian trên thị trường, trong đó có các CTCK. CTCK ra đời đã kịp thời đáp ứng được đòi hỏi cấp bách của thị trường, gia tăng tính minh bạch, bình đẳng, công bằng giữa các chủ thể tham gia thị trường. Tuy nhiện, sự ra đời ồ ạt của hàng loạt các CTCK cũng gây ra những hậu quả tiêu cực cho thị trường, ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân các công ty này và lợi ích của các NĐT tham gia thị trường. Hệ quả đưa lại sau khoảng thời gian “chạy đua” xin cấp giấy phép thành lập CTCK là tình trạng các công ty này phải “vật lộn” trước bài toán duy trì hoạt động trước áp lực cạnh tranh giữa các CTCK với nhau, đặc biệt là trong giai đoạn thị trường tài chính thế giới và trong nước đang có những biến cố bất lợi. Mặt khác, do có những lợi thế nhất định nên dễ dẫn đến khả năng CTCK xâm phạm đến quyền lợi của khách hàng (NĐT).Vì vậy, tác giả chọn đề tài nêu trên để triển khai nghiên cứu vì những lý do sau: Một là, mặc dù Luật CK và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định khá cụ thể về trách nhiệm của CTCK khi tiến hành thành lập, hoạt động kinh doanh nhưng sau một khoảng thời gian áp dụng, những quy định này đã bộc lộ những lỗ hổng lớn có khả năng gây phương hại đến các chủ thể khách cùng tham gia thị trường trong đó có các NĐT – là chủ thể chính quyết định sự tồn tại, ổn định và phát triển của thị trường; Hai là, pháp luật dường như mới chỉ tính đến tình huống CTCK thành lập mà chưa có những dự liệu cần thiết cho tình huống các công ty này lâm vào tình trạng giải thể, phá sản. Đặc thù hoạt động của CTCK là có khả năng ảnh hưởng, tác động đến nhiều chủ thể khác nhau. Hoạt động kinh doanh CK của CTCK là hoạt động kinhh doanh có điều kiện. Mặt khác, trong nhiều trường hợp, tài sản, quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể trong mối quan hệ với CTCK rất khó xác định. Vì vậy, nếu chỉ đơn thuần dựa vào các quy định của luật phá sản doanh nghiệp sẽ không thể xử 4 lý thấu đáo và đôi khi không tìm ra giải pháp hợp lý, tối ưu các vấn đề pháp lý phát sinh; Ba là, trong mối tương quan với khách hàng, CTCK là chủ thể có nhiều ưu thế hơn trong quá trình đầu tư. CTCK không chỉ có thế mạnh, khả năng về năng lực tài chính mà còn có lợi thế lớn về nhân lực và kỹ thuật. Trong khi đó, trong những trường hợp nhất định, CTCK và khách hàng đều là những NĐT có mục tiêu hướng tới là lợi nhuận. Trên TTCK tập trung, tất cả các lệnh của khách hàng phải thực hiện thông qua CTCK, do vậy, rất dễ dẫn đến khả năng xung đột lợi ích giữa hai chủ thể này. Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT sẽ góp phần đóng góp ý kiến, đề xuất cho các nhà làm luật hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK nhằm đem lại sự phát triển ổn định, lành mạnh của thị trường và bảo vệ tối ưu quyền lợi hợp pháp, chính đáng của NĐT. 2. Tình hình nghiên cứu và ý nghĩa lý luận của đề tài Qua tra cứu cho thấy, ở nước ta, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài báo và tạp chí đề cập đến khía cạnh pháp lý của hai chủ thể: CTCK và NĐT. Có thể kể đến một số công trình như: Đoàn Quốc Hùng, Pháp luật về hoạt động kinh doanh CK của CTCK – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002; Nguyễn Bảo Giang, CTCK theo pháp luật Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005; Hoàng Thị Quỳnh Chi, Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK tập trung ở Việt Nam, năm 2008; Vũ Nhất Tâm, Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT cá nhân trên TTCK ở Việt Nam, năm 2008. Các công trình này đề cập đến các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK và các vấn đề pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT. Tuy nhiên, một số công trình được nghiên cứu vào thời điểm những năm trước khi Luật CK được ban hành nên chưa giải quyết được các vấn đề pháp lý cơ bản đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, hầu hết các công trình này mới chỉ nghiên cứu một cách độc lập vấn đề cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động và các vấn đề khác của CTCK mà chưa đề cập và giải quyết mối tương qua giữa hoạt động kinh doanh của CTCK với việc đảm bảo quyền lợi của NĐT. Thêm vào đó, trước 5 bối cảnh TTCK trong nước và thế giới đang có những biến động lớn như hiện nay, hàng loạt các CTCK lâm vào tình trạng khó khăn, thua lỗ, trên thị trường có những vụ việc tranh chấp gây tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của NĐT thì việc tác giả lựa chọn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ đề tài trên mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về CTCK khi tiến hành sửa đổi, bổ sung trong thời gian tới nhằm vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các CTCK hoạt động hiệu quả, vừa đảm bảo tốt nhất lợi ích hợp pháp chính đáng của các NĐT khi tham gia thị trường. Tác giả hy vọng rằng, với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý điều chỉnh các nội dung hoạt động kinh doanhh của CTCK trong mối tương quan với việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ chỉ ra những vấn đề pháp lý chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện, đồng thời, đánh giá thực trạng và những vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đề xuất các giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về CTCK nói riêng, TTCK nói chung, góp phần củng cố, cải thiện tính minh bạch, ổn định của thị trường và lợi ích của các bên khi tham 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Trên thực tế, CTCK và NĐT có thể tham gia vào các loại TTCK, kể cả TTCK chính thức và TTCK phi chính chính thức, TTCK tập trung và TTCK phi tập trung. Theo đó, mối quan hệ giữa NĐT và CTCK cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu các khía cạnh pháp lý liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK trên TTCK tập trung trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT. gia TTCK. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm tìm hiểu và khái quát những nội dung pháp lý cơ bản điều chỉnh hoạt động của CTCK và những quy định pháp lý ghi nhận, bảo vệ quyền lợi của NĐT; thống kê, khảo sát thực tiễn hoạt động 6 kinh doanh của một số CTCK và thực tiễn tham gia giao dịch của NĐT trên thị trường. Luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh quy phạm pháp luật nước ngoài có cùng đối tượng và lĩnh vực điều chỉnh để vận dụng những điểm tích cực phù hợp với thực tế của TTCK Việt Nam. 6. Dự kiến kế hoạch thực hiện Bước 1: Nghiên cứu các vấn đề pháp lý chung về bảo vệ quyền lợi của NĐT và hoạt động kinh doanh của CTCK; Bước 2: Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động kinh doanh của C TCK trong mối tương quan với vấn đề bảo vệ quyền lợi của NĐT; Bước 3: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam để hài hòa lợi ích của CTCK và NĐT. 7. Kết cấu của đề tài Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về NĐT và hoạt động kinh doanh của CTCK trên TTCK Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của CTCK trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của NĐT Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh của CTCK để bảo vệ lợi ích của NĐT 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ NHÀ ĐẦU TƢ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. Những vấn đề lý luận pháp luật về nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán TTCK là một trong những kênh huy động vốn quan trọng và hiệu của nền kinh tế. Đây là thị trường tạo ra nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng, góp phần hình thành nên cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Chính nguồn vốn này đã làm giảm bớt sự lệ thuộc của các doanh nghiệp vào hệ thống tín dụng ngân hàng, qua đó làm gia tăng tính chủ động, tích cực của các công cụ, đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp. Để TTCK vận hành ổn định và hiệu quả cần đến sự tham gia và đóng góp tích cực của tất cả các chủ thể trên thị trường gồm người mua, người bán, người trung gian và cơ quan quản lý. Trong đó, người mua và người bán chính là những NĐT - chủ thể giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại, phát triển của thị trường. Họ là những cá nhân hay tổ chức có tiền nhàn rỗi hoặc có nhu cầu sử dụng hiệu quả đồng vốn của mình bằng cách mua, bán CK trên thị trường để hưởng lợi nhuận. Mục tiêu cao nhất mà các NĐT hướng đến là lợi nhuận. Có rất nhiều quan điểm cho rằng đầu tư CK đơn thuần chỉ là việc sử dụng đồng tiền nhàn rỗi. Tuy nhiên, dưới góc độ kinh tế học, chúng tôi cho rằng, đầu tư CK không chỉ đơn thuần là việc sử dụng nguồn tiền nhàn rỗi, sẵn có mà nhiều khi đó còn là nguồn tiền hình thành từ các nguồn vốn vay. Đó có thể là nguồn vốn ngắn hạn hoặc dài hạn tùy thuộc vào khả năng, uy tín cũng như chiến lược đầu tư của mỗi NĐT. Bản chất của đầu tư tài chính theo nghĩa rộng là việc dịch chuyển của các luồng vốn từ nơi không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp đến những nơi có hiệu quả sử dụng cao hơn. Do vậy, nếu có căn cứ cho rằng việc mua, bán chứng khoán sẽ đem lại lợi nhuận thì NĐT sẽ không loại trừ giải pháp vay vốn để đầu tư chứng khoán. Như vậy, giống như hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư CK là hoạt động luôn luôn hướng đến mục tiêu là lợi nhuận và tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, đầu tư CK có những điểm đặc thù so với các hoạt động đầu tư thông thường và bản thân người thực hiện hoạt động đầu tư CK cũng có những nét đặc trưng riêng so với các NĐT nói chung. Đầu tư được hiểu là việc “NĐT bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình 8 hoặc vô hình để thực hiện các hoạt động đầu tư” [27, Đ3]. Nếu xét trên tiêu chí quản lý hoạt động đầu tư, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành hai loại: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hoạt động của NĐT đầu tư vốn ban đầu hình thành nên tài sản, sau đó trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tức là trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Trong khi đó, đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại giấy tờ có giá khác và do vậy, NĐT không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư CK khác với các hoạt động đầu tư thông thường ở chỗ, nó có bản chất là hoạt động đầu tư gián tiếp. NĐT CK là những người thực hiện hoạt động đầu tư CK, mặc dù không trực tiếp tham gia vào các công đoạn, quá trình sản xuất, kinh doanh nhưng trên TTCK họ là chủ thể có vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì ổn định và thúc đẩy thị trường phát triển. Mặt khác, nhờ có hoạt động đầu tư CK của các NĐT mà nguồn vốn trung và dài hạn trong xã hội được huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả, qua đó, hoạt động đầu tư của các NĐT CK đã tác động tích cực trở lại các doanh nghiệp- nơi diễn ra hoạt động đầu tư trực tiếp. 1.1.1. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán 1.1.1.1. Vai trò của nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán Mặc dù có rất nhiều chủ thể tham gia trên TTCK nhưng NĐT CK là lực lượng giữ vai trò trung tâm, tạo nên và quyết định sự phát triển bền vững của thị trường. Với lực lượng đông đảo, NĐT là bên tạo nên “cầu” hàng hóa của thị trường bên cạnh lực lượng “cung” là các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết. Bằng việc mua, bán các loại CK, NĐT đã tạo ra tính thanh khoản cho thị trường, qua đó, tạo nên “tính hấp dẫn” cho các loại CK. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, là thông số phản ánh lòng tin của NĐT đối với thị trường. Thông qua hoạt động đầu tư CK, Nhà nước có thể điều tiết, định hướng việc sử dụng các nguồn vốn trong xã hội, giảm bớt lượng tiền dư đọng trong dân, điều hòa quan hệ cung – cầu hàng hóa, khống chế lạm phát. Cũng qua hoạt động đầu tư của các NĐT CK Nhà nước có điều kiện để tổ chức triển khai thực hiện triệt để các mục tiêu cải cách kinh tế trong đó nổi bật là việc phân tách giữa vai trò quản lý của Nhà nước và tính chủ động, hiệu quả của các doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước sẽ đạt 9 được mục tiêu và kỳ vọng của Nhà nước khi được các NĐT trong và ngoài nước, các tổ chức và cá nhân quan tâm đầu tư, qua đó, góp phần xây dựng cơ chế quản trị doanh nghiệp ngày càng hiện đại, hoàn thiện, lành mạnh và hiệu quả cao hơn. Đối với các tổ chức phát hành, nếu CK của doanh nghiệp được giao dịch nhiều chứng tỏ CK của họ được công chúng đầu tư quan tâm và đánh giá tốt. Mặt khác, vì được nhiều NĐT quan tâm tìm hiểu, phân tích, đầu tư nên hình ảnh của tổ chức phát hành có CK niêm yết được công chúng biết đến nhiều hơn, uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp được nâng lên. Thực tế cho thấy, kết quả của các đợt phát hành của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tính thanh khoản của CK, vào niềm tin của các NĐT đối với tổ chức phát hành. Với việc sử dụng CK làm công cụ để huy động vốn, đã giúp doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào thị trường vốn, chủ động trong việc tìm kiếm và huy động vốn cho sản xuất, kinh doanh, giảm bớt sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào hệ thống ngân hàng. Đồng thời, doanh nghiệp cũng luôn có ý thức hoạt động và quản trị công ty theo hướng minh bạch, khoa học và hiệu quả hơn, đáp lại sự kỳ vọng của các NĐT. Đối với các thiết chế trung gian trên thị trường như CTCK, CTQLQ thì vai trò của các NĐT là không thể phủ nhận. Với quy mô hoạt động như hiện nay, các CTCK chủ yếu trông chờ vào hai hoạt động chính của mình là hoạt động môi giới đầu tư CK và hoạt động tự doanh chứng khoán. Hoạt động môi giới đem lại nguồn thu phí môi giới cho các CTCK, doanh thu phí môi giới phụ thuộc vào số lượng NĐT mở tài khoản giao dịch, khối lượng và giá trị giao dịch của họ. Trong khi, tự doanh chứng khoán là hoạt động mà CTCK thực hiện việc mua bán CK với vai trò như một NĐT thì họ cũng cần phải có những NĐT khác cùng quan tâm mua bán, duy trì tính thanh khoản cho thị trường. Đối với CTQLQ, họ cần đến vai trò của các NĐT bởi vì các NĐT là những người góp vốn hình thành nên quỹ hoặc đầu tư tiền để mua chứng chỉ quỹ. 1.1.1.2. Những rủi ro của nhà đầu tƣ khi tham gia thị trƣờng chứng khoán Đầu tư CK là hoạt động tiềm ẩn khả năng rủi ro rất cao. Rủi ro đầu tiên có nguyên nhân từ đặc tính của hàng hóa là CK. Đối với hàng hóa thông thường, chất lượng, giá trị của hàng hóa được ước lượng, kiểm tra bằng các giác quan và thông 10 qua việc thẩm định đánh giá giá trị sử dụng của hàng hóa. Tuy nhiên, CK là loại hàng hóa đặc biệt, giá trị của CK không kết tinh trong bản thân CK với tính cách là một sản phẩm hữu hình mà được nhìn nhận và đánh giá thông qua giá trị, tiềm năng của tổ chức đã phát hành ra chúng. Giá trị của một doanh nghiệp được thể hiện trên nhiều tiêu chí, trong đó, không thể không kể đến các tiêu chí như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; định hướng, chiến lược hoạt động; tiềm năng, thế mạnh của doanh nghiệp; đội ngũ quản trị điều hành của doanh nghiệp đó… Tất cả những yếu tố này sẽ tác động trực tiếp đến quá trình phân tích, cân nhắc của NĐT trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, không phải yếu tố nào cũng dễ dàng đánh giá, thẩm định và thông tin cung cấp cho các NĐT không phải bao giờ cũng phản ánh đúng thực tế hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, rủi ro đối với các NĐT CK là rất lớn. Rủi ro đó sẽ càng cao hơn đối với các NĐT đầu tư theo “chiến lược đầu cơ”, thiếu sự cẩn trọng và hiểu biết cần thiết. Các NĐT này thường nhằm đến những lợi ích trước mắt, họ thường chớp thời cơ để mua, bán CK một cách nhanh chóng. Hoạt động đầu tư của họ thường có tính chất may rủi vì họ không chú ý đến việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành mà chỉ chú ý đến tính thanh khoản của CK và tình hình giao dịch trên thị trường vào một thời điểm hoặc giai đoạn ngắn, từ đó đưa ra những nhận định, dự đoán về việc tăng, giảm giá CK để rồi đi đến quyết định mua bán CK để hưởng chênh lệch giá. Thời gian nắm giữ CK của các NĐT áp dụng “chiến lược đầu cơ” thường ngắn và “chiến lược” này thường được các cá nhân đơn lẻ, thiếu chuyên nghiệp sử dụng. Ngoài ra, các NĐT CK còn phải đối mặt với hàng loạt rủi ro khác, trong đó có những rủi ro cơ bản sau: Rủi ro thị trường: Đây là loại rủi ro phổ biến và có phạm vi tác động lên tất cả các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư CK. Rủi ro thị trường là rủi ro mà giá cả của các loại CK trên thị trường biến động theo một chiều trong một khoảng thời gian nhất định không phản ánh đúng giá trị thực của mỗi CK. Đó có thể là xu hướng CK tăng giá quá mức, giá CK tăng một cách nhanh chóng và liên tục trong một thời gian dài, vượt xa giá trị thực của nó đẩy chỉ số P/E (Price per Earning- Chỉ số giá trên thu nhập) của mỗi chứng khoán và toàn thị trường lên cao. Trong xu hướng này, thị trường thường có mức thanh khoản rất thấp khi các NĐT đang nắm giữ CK 11 không muốn bán ra vì chờ đợi giá CK cao hơn, NĐT muốn mua cũng không mua được hoặc không dám mua vì giá CK quá cao. Hiện tượng này phản ánh không đúng quan hệ cung cầu gây ra tình trạng “bong bóng” CK. Ngược lại của xu thế này là xu thế giảm giá CK khi các NĐT ồ ạt bán tháo CK làm cho giá CK sụt giảm nhanh chóng. Giá cả của các loại CK bất kể CK của công ty có kết quả kinh doanh tốt hay xấu đồng loạt xuống giá. Nguyên nhân của hai hiện tượng trên thường xuất phát từ các hành vi đầu cơ, mua bán nội gián hoặc do tác động của yếu tố tâm lý. TTCK là thị trường của niềm tin, diễn biến trên thị trường phụ thuộc rất nhiều vào tâm lý của các NĐT. Trạng thái kỳ vọng và hưng phấn quá mức sẽ gây ra tình trạng giá CK tăng “nóng” trên thị trường Bull Market, ngược lại, trạng thái sợ hãi và bi quan sẽ dẫn đến tình trạng đóng băng trên thị trường Bear Market. Với TTCK mới nổi như TTCK Việt Nam, mức độ minh bạch và khả năng kháng cự của toàn thị trường còn hạn chế thì rủi ro thị trường hiện đang là loại rủi ro thường trực mà mỗi NĐT khi tham gia thị trường cần phải tính đến. Rủi ro thông tin: Như đã phân tích ở các phần trên, giá trị của mỗi CK phụ thuộc vào các thông tin liên quan đến CK được công bố. Giá cả trên thị trường thường phản ứng tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào các thông tin được công bố là tốt hay xấu. Thông tin đến với NĐT chính xác bao nhiêu quyết định đầu tư của họ càng có khả năng thành công và hạn chế được rủi ro bấy nhiêu. Tuy nhiên, không phải NĐT nào cũng có điều kiện để tiếp cận sớm, đầy đủ và chính xác các thông tin của tổ chức phát hành. Thông tin được công bố không phải lúc nào cũng chính xác. Hơn nữa, có thể thông tin được công bố chính xác nhưng đã có “độ trễ” nhất định về mặt thời gian thì thông tin đó cũng không còn giá trị. Có thực tế không thể phủ nhận là vẫn đang tồn tại sự không cân xứng về thông tin giữa các chủ thể tham gia thị trường. Những người có điều kiện tiếp cận được với thông tin nội bộ của tổ chức phát hành (như thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, Ban kiểm soát, Bộ phận kế toán, kiểm toán…) thường có đầy đủ thông tin và thông tin của họ sẽ đáng tin cậy hơn hẳn những NĐT khác. Thậm chí, những chủ thể này còn “đi trước” một bước so với các NĐT khác khi họ có được cả những thông tin chưa công bố. Tình trạng này một mặt tạo ra sự bất bình đẳng cho các NĐT “yếu thế” do không có đầy đủ thông tin hoặc do “chậm chân” mà có thể đưa ra những quyết định đầu tư chậm 12 hoặc không chính xác. Mặt khác, do sự không cân xứng về thông tin giữa người mua và người bán CK có thể làm có giá mua, giá bán không phản ánh giá trị thực của CK. Để hạn chế loại rủi ro này, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa những người tiếp cận với thông tin nội bộ; người “có quyền lợi liên quan” với tổ chức phát hành để ngăn ngừa khả năng trục lợi, gây tổn hại đến các NĐT khác. Rủi ro về giá: Là loại rủi ro mà tỷ lệ sinh lời từ đầu tư CK thấp hơn tỷ lệ lạm phát của đồng tiền. Đồng tiền có giá trị theo thời gian. Nghĩa là, lợi nhuận mà các NĐT thu được phải được chiết khấu cho khoảng thời gian đã đầu tư vào CK đó. CK có kỳ hạn càng dài thì mức rủi ro sụt giảm giá trị càng lớn. Khi quyết định đầu tư, NĐT cần phải dự đoán và giả thiết tình hình lạm phát để tìm kiếm mức bù đắp cho các khoản đầu tư đó. Rủi ro thanh khoản: Là loại rủi ro xảy ra khi NĐT không thể mua, bán CK tại một thời điểm nhất định. Tình trạng này diễn ra khi CK bị “làm giá” hoặc bị bán tháo quá mức. Rủi ro thanh khoản thường đi liền với rủi ro thị trường và rủi ro thông tin. Rủi ro mang tính kỹ thuật: Là loại rủi ro xảy ra trong quá trình xử lý của các CTCK đối với việc tiếp nhận, kiểm tra, nhập lệnh, truyền lệnh (transfer) vào hệ thống giao dịch và báo cáo kết quả giao dịch của NĐT. Những rủi ro này có nguyên nhân từ sự thiếu cẩn trọng (nguyên nhân khách quan) của các nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán tại các CTCK. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng nhân viên của các CTCK hành động thiếu trung thực, trục lợi, gây tổn hại đến quyền lợi của khách hàng (NĐT). Rủi ro thanh toán: chu kỳ thanh toán T + n (trong đó, T là ngày thực hiện giao dịch, n là ngày CK hoặc tiền hạch toán trên tài khoản giao dịch của NĐT). Đối với những nước có hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động đăng ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ còn hạn chế thì số ngày thanh toán n càng kéo dài (chẳng hạn Việt Nam). Khi đó, rủi ro có thể đến với NĐT khi CK và tiền của NĐT về tài khoản giao dịch của họ có độ “trễ” nhất định so với biến động của thị trường. NĐT sẽ phải đối mặt với tình trạng: khi họ muốn bán CK thì giá CK đã xuống quá thấp hoặc muốn mua CK thì giá CK đã lên quá cao. Rủi ro này cũng có liên hệ chặt chẽ với 13 rủi ro thị trường. Tuy nhiên, nguồn gốc của nó có nguyên nhân trực tiếp từ chính sách của các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK. Từ tất cả những nguyên nhân trên, đòi hỏi pháp luật phải có những quy định nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa NĐT với các chủ thể tham gia thị trường để hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi tham gia TTCK. Một mặt, pháp luật cần có những quy định ghi nhận, “bảo đảm” và tạo cơ chế để các quyền và lợi ích chính đáng của NĐT được thực hiện trên thực tế. Mặt khác, pháp luật cũng cần có những quy định nhằm “bảo vệ” quyền và lợi ích của NĐT, nghĩa là, pháp luật cần có những quy định phòng ngừa và/hoặc chống lại mọi sự xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT khi họ tham gia trên TTCK. Việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT có thể thực hiện thông qua nhiều biện pháp. Đó có thể là các biện pháp giáo dục nhằm nâng cao sự hiểu biết và kỹ năng của NĐT khi tham gia thị trường để NĐT tự hạn chế rủi ro cho chính mình; biện pháp giám sát thường xuyên hoạt động của các chủ thể trong quan hệ với NĐT; biện pháp xử lý đối với các hành vi xâm hại quyền lợi của NĐT và các biện pháp tài chính nhằm hỗ trợ, chia sẻ rủi ro đối với hoạt động đầu tư của NĐT. Để “bảo đảm” và “bảo vệ” quyền và lợi ích của NĐT, biện pháp quan trọng và chủ yếu nhất đó là phải thiết lập được một khung pháp lý điều chỉnh chặt chẽ hoạt động của tất cả các chủ thể tham gia quan hệ đầu tư trên TTCK. 1.1.2. Khung pháp lý điều chỉnh vấn đề quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ trên thị trƣờng chứng khoán “Bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT” là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động CK và TTCK. Đây vừa là nguyên tắc của hoạt động CK và TTCK vừa là mục đích của pháp luật CK. Mặc dù cách thể hiện nguyên tắc này trong pháp luật các nước là không giống nhau nhưng nhìn chung pháp luật của hầu hết các nước đều ghi nhận và bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT. Có thể nói, nguyên tắc “bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT” là tư tưởng chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các chế định của pháp luật về CK và TTCK. Tất cả các quy định của pháp luật về CK và TTCK phải thể chế hóa và hướng đến mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK. Ở hầu hết các nước, các quy định về bảo vệ NĐT trên TTCK thường bao gồm: các quy phạm pháp 14 luật chuyên ngành điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT thông qua các quy định về điều kiện của các chủ thể tham gia thị trường (tổ chức phát hành, tổ chức trung gian, tổ chức đầu tư kinh doanh CK); về tiêu chuẩn của các loại CK niêm yết; về tổ chức, quản lý thị trường; về kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật…và các quy phạm pháp luật chung thuộc các lĩnh vực pháp luật: pháp luật về doanh nghiệp (gồm các quy định về quản trị doanh nghiệp, quyền và nghĩa vụ của cổ đông, quy chế đối với các giao dịch mang tính thâu tóm công ty…), pháp luật về đầu tư (quy định về bảo hộ đầu tư, quyền và nghĩa vụ của NĐT..); pháp luật về hợp đồng, sở hữu, tài sản (nội dung quyền sở hữu CK, phương thức chuyển giao quyền sở hữu CK, quyền thừa kế, tặng cho CK…); pháp luật về giải quyết tranh chấp (giải quyết thông qua cơ chế trọng tài thương mại, tố tụng tư pháp…). Các quy định pháp lý trên đã tạo thành khuôn khổ pháp lý về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK. Luật CK Việt Nam mặc dù không có một mục, chương nào quy định riêng về việc bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK ngoài điều khoản quy định nguyên tắc hoạt động CK và TTCK trong đó đề cập đến nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT. Mặc dù vậy, các quy định của pháp luật đã thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ NĐT. 1.1.2.1. Yêu cầu của pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tƣ Xuất phát từ những rủi ro và xung đột lợi ích mà NĐT có thể phải gánh chịu trong quá trình đầu tư, pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau: Thứ nhất, pháp luật cần xác lập một cơ chế hữu hiệu bảo đảm tính công khai, minh bạch của TTCK nói chung nhằm hạn chế rủi ro về mặt thông tin cũng như các rủi ro thị trường có thể xảy ra đối với NĐT CK Yêu cầu này xuất phát từ tính đặc thù trong hoạt động đầu tư của NĐT. Hoạt động đầu tư của NĐT trên TTCK chủ yếu dựa vào những nhận định, đánh giá về sự phát triển, triển vọng của CK trong tương lai. Điều đó có nghĩa hoạt động của NĐT phải dựa trên nguyên tắc và cơ sở là lòng tin. Thông tin về doanh nghiệp và thị trường (thông tin kinh tế vi mô và vĩ mô) là cơ sở quan trọng nhất giúp NĐT dựa vào đó để đánh giá về chất lượng của CK, nó cũng là cơ sở tạo nên tính ổn định và phát triển của TTCK. Chính vì vậy, nguyên tắc quan trọng của TTCK là công khai 15 thông tin, quyền lợi của NĐT được bảo đảm khi khi họ được cung cấp thông tin. Để thực hiện yêu cầu này, pháp luật cần có những quy định bắt buộc đối với các tổ chức tham gia TTCK về nghĩa vụ công bố thông tin trung thực, kịp thời và đầy đủ để NĐT có cơ sở ra quyết định đầu tư. Cơ chế công khai, minh bạch về thông tin cũng góp phần ngăn ngừa và hạn chế các hành vi trục lợi, lạm dụng, trái pháp luật làm phương hại đến lợi ích của NĐT và cả nền kinh tế. Nội dung của yêu cầu trên được cụ thể hóa trong các nhóm quy định của pháp luật về quy chế công bố thông tin trên TTCK như: Quy định pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường, có mối quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với NĐT gồm các chủ thể cung cấp “hàng hóa” cho thị trường như công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết; các chủ thể trung gian trên thị trường như: SGDCK, CTCK, CTQLQ, công ty đầu tư CK đều có nghĩa vụ công bố thông tin. Quy định pháp luật về nội dung, chuẩn mực thông tin công bố. Để đảm bảo chất lượng của các thông tin công bố trên TTCK, pháp luật yêu cầu các chủ thể công bố thông tin phải tuân thủ các quy định về nội dung thông tin phải được công bố đồng thời thông tin đó phải được thiết lập theo đúng các chuẩn mực thông tin được quy định. Căn cứ vào vị trí, đặc điểm và mức độ ảnh hưởng của các thông tin được công bố đến TTCK, pháp luật sẽ có những quy định về nội dung thông tin phải được công bố đối với từng chủ thể. Chẳng hạn, đối với tổ chức phát hành, các thông tin phải công bố sẽ là các thông tin liên quan đến tình hình, kế hoạch, kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; thông tin về đợt phát hành thêm; thông tin về cổ tức; thông tin về giao dịch của lãnh đạo doanh nghiệp và những người liên quan. Về chuẩn mực thông tin công bố, các thông tin được công bố như báo cáo tài chính và bản cáo bạch phải được công bố theo các chuẩn mực kế toán, kiểm toán. Trong đó, chuẩn mực kế toán, kiểm toán thường do các hiệp hội, tổ chức hành nghề kế toán, kiểm toán quy định. Các tổ chức kế toán, kiểm toán của các quốc gia trên thế giới thường căn cứ vào hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) công bố để ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc gia. Chuẩn mực kế toán, kiểm toán tại Việt Nam hiện nay do Bộ tài chính ban hành và cũng dựa trên những chuẩn mực quốc tế này. 16 Quy định pháp luật về phương tiện và hình thức công bố thông tin. Để đảm bảo NĐT kịp thời cập nhật được thông tin và đảm bảo chất lượng của thông tin công bố, pháp luật quy định việc công bố thông tin của các chủ thể có liên quan phải thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau gồm phương thức báo cáo định kỳ và báo cáo bất thường, đồng thời, hình thức công bố thông tin phải được thực hiện thông qua hình thức văn bản và dữ liệu điện tử. Các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin phải lập trang thông tin điện tử của mình và phải thường xuyên cập nhật việc công bố thông tin trên trang điện tử đó. Quy định pháp luật về xử lý hành vi vi phạm chế độ công bố thông tin. Pháp luật của các nước đều có những quy định xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin. Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi vi phạm mà chủ thể vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm gây ra thiệt hại cho NĐT. Các hành vi vi phạm công bố thông tin phổ biến trên TTCK gồm: công bố thông tin nhưng không thực hiện báo cáo cơ quan quản lý về thông tin đã công bố; người công bố thông tin không có thẩm quyền công bố; công bố thông tin không đúng phương tiện do pháp luật quy định; công bố thông tin không đầy đủ, kịp thời; công bố thông tin sai sự thật. Thứ hai, pháp luật cần quy định những tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết nhằm đảm bảo chất lượng của hàng hóa trên TTCK, hạn chế rủi ro cho các NĐT khi tham gia thị trường Tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết là những chủ thể cung cấp “hàng hóa” cho TTCK. Chất lượng của hàng hóa trên TTCK phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng và tình hình hoạt động cũng như triển vọng phát triển của các tổ chức này. Để NĐT có cơ hội tiếp cận được với những CK có chất lượng, pháp luật phải có những quy định chặt chẽ để thẩm định năng lực hoạt động của doanh nghiệp. Mặc dù NĐT là người có quyền lựa chọn CK trong “rổ hàng hóa” để đầu tư nhưng khâu kiểm soát hàng hóa trước khi đưa vào giao dịch vẫn hết sức quan trọng. Việc quy định các tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ đối với các doanh nghiệp khi phát hành, niêm yết CK trên TTCK sẽ góp phần thanh lọc, chọn lựa những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có triển vọng qua đó giúp NĐT hạn chế rủi ro trong quá trình đầu tư. Đây chính là 17 yêu cầu có ý nghĩa và vai trò quan trọng đối với tất cả các NĐT khi tham gia thị trường đặc biệt là các NĐT cá nhân thiếu khả năng và kinh nghiệm phân tích, nhận định về CK và TTCK. Để thực hiện điều này, pháp luật các nước trên thế giới thường đưa ra các điều kiện về năng lực tài chính (vốn điều lệ), về tình hình hoạt động (thời gian hoạt động kinh doanh có lãi), về phương án kinh doanh và phương án sử dụng số vốn huy động từ đợt phát hành, về tính đại chúng của CK (số lượng, cơ cấu cổ đông của tổ chức phát hành), về tính minh bạch trong hoạt động tài chính (báo cáo tài chính phải được kiểm toán độc lập). Thứ ba, pháp luật cần có những quy định điều chỉnh chặt chẽ hoạt động của các tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ trên TTCK như các CTCK, CTQLQ, công ty kiểm toán và những người hành nghề kinh doanh CK Mặc dù không phải là chủ thể trực tiếp trong mối quan hệ mua bán với NĐT nhưng với vai trò là bên cấp dịch vụ cho NĐT, hoạt động của CTCK, CTQLQ, công ty kiểm toán và người hành nghề kinh doanh CK cũng cần phải được pháp luật quy định, điều chỉnh chặt chẽ vì chất lượng hoạt động của những chủ thể này ảnh hưởng trực tiếp đến tính hiệu quả và an toàn trong quá trình đầu tư của NĐT. CTCK, CTQLQ, người hành nghề kinh doanh CK là những nhà trung gian giúp NĐT thực hiện hoạt động đầu tư, hoạt động của họ phải đảm bảo cho các quyết định đầu tư của NĐT được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả. Các công ty kiểm toán là những người trực tiếp thẩm định, đánh giá thực trạng, khả năng tài chính của các tổ chức cung ứng hàng hóa cho thị trường. Do vậy, hoạt động của tổ chức kiểm toán giúp NĐT đánh giá chính xác năng lực của các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết trước khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy, pháp luật cần có những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục cấp và thu hồi giấy phép hoạt động đối với các chủ thể trung gian này đồng thời quy định nguyên tắc, chuẩn mực để đánh giá chất lượng dịch vụ mà các tổ chức chủ thể này cung cấp trên TTCK. Trong đó có các điều kiện về năng lực tài chính (vốn pháp định); các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật để được phép triển khai, cung cấp dịch vụ; điều kiện về nhận lực, người hành nghề…Có như vậy, pháp luật mới hạn chế được các rủi ro kỹ thuật và những giao dịch bất lợi cho NĐT do CTCK và người hành nghề kinh doanh CK gây 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan