ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THÀNH NAM
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
ĐẤU THẦU XÂY DỰNG – THỰC TRẠNG
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
Chuyên ngành
Mã số
: Luật kinh tế
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thành Nam
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU XÂY DỰNG .............. 4
1.1. Khái niệm, đặc điểm, và sự cần thiết của đấu thầu xây dựng ...................... 4
1.1.1. Khái niệm về đấu thầu xây dựng .................................................................... 4
1.1.2. Các đặc điểm của đấu thầu xây dựng ............................................................. 6
1.1.3. Sự cần thiết của đấu thầu xây dựng ................................................................ 7
1.2. Bản chất pháp lý của đấu thầu xây dựng ........................................................... 9
1.3. Pháp luật điều chỉnh đấu thầu xây dựng .......................................................... 11
1.3.1. Các nguyên tắc đầu thầu .............................................................................. 11
1.3.2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của pháp luật đấu thầu xây dựng . 14
1.3.3. Những vấn đề pháp lý cơ bản của đấu thầu xây dựng ................................... 14
Chương 2: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU XÂY
DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..................................................................... 15
2.1. Về lựa chọn nhà thầu .................................................................................... 15
2.2. Về chủ thể có liên quan đến hoạt động đấu thầu xây dựng ........................ 19
2.3. Về nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư ....... 23
2.4. Về bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng cơ bản .......................... 28
2.5. Về ưu đãi đối với đấu thầu quốc tế .............................................................. 29
2.6. Về ưu đãi đối với đấu thầu trong nước ........................................................ 30
2.7. Về thời gian trong đấu thầu xây dựng ......................................................... 31
2.8. Về bảo đảm đấu thầu .................................................................................... 33
2.9. Ngôn ngữ và đồng tiền sử dụng trong đấu thầu xây dựng .......................... 33
2.10. Về các hình thức lựa chọn đấu thầu........................................................... 33
2.10.1. Chỉ định thầu ............................................................................................. 34
2.10.2. Đấu thầu hạn chế ....................................................................................... 36
2.10.3. Thi tuyển hoặc tuyển chọn nhà thầu thiết kế kiến trúc công trình xây
dựng ...................................................................................................................... 36
2.10.4. Đấu thầu rộng rãi ....................................................................................... 38
2.10.5. Chào hàng cạnh tranh................................................................................. 39
2.10.6. Lựa chọn nhà thầu xây lắp qua mạng ......................................................... 39
2.11. Qui trình đấu thầu xây dựng.......................................................................... 40
2.11.1. Quy trình đấu thầu rộng rãi, hạn chế áp dụng đối với các gói thầu xây
dựng theo phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ .............................................. 40
2.11.2. Quy trình đấu thầu rộng rãi, hạn chế áp dụng đối với các gói thầu xây
dựng theo phương thức một giai đoạn hai túi hồ sơ ............................................... 47
2.11.3. Quy trình đấu thầu rộng rãi, hạn chế áp dụng đối với các gói thầu xây
dựng theo phương thức hai giai đoạn ..................................................................... 55
2.11.4. Quy trình chỉ định thầu, chào hàng cạnh tranh đối với gói thầu xây
dựng ...................................................................................................................... 57
2.11.5. Quy trình đấu thầu xây dựng đối với gói thầu quy mô nhỏ ......................... 62
2.11.6. Quy trình đấu thầu qua mạng ..................................................................... 63
2.12. Về hợp đồng và ký kết hợp đồng trong đấu thầu xây dựng ............................ 64
2.12.1. Khái niệm hợp đồng xây dựng ................................................................... 64
2.12.2. Phân loại hợp đồng xây dựng ..................................................................... 65
2.12.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng ................................ 66
2.12.4. Nội dung chủ yếu của hợp đồng xây dựng ................................................. 66
2.12.5. Điều chỉnh hợp đồng trong hoạt động đấu thầu xây dựng........................... 67
2.12.6. Quy định việc tạm dừng và chấm dứt hợp đồng xây dựng .......................... 68
2.12.7. Quy định về thưởng, phạt hợp đồng xây dựng, bồi thường thiệt hại do vi
phạm và giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng ................................................ 69
2.12.8. Quyết toán, thanh lý hợp đồng xây dựng .................................................... 70
2.12.9. Xử lý vi phạm trong đấu thầu xây dựng ..................................................... 71
Chương 3: THỰC TIẾN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 73
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật đấu thầu xây dựng ở Việt Nam .................... 73
3.1.1. Những ưu và khuyết trong việc thi hành pháp luật đấu thầu xây dựng .............. 73
3.1.2.Nguyên nhân của các khiếm khuyết chủ yếu của pháp luật về đấu thầu xây
dựng ...................................................................................................................... 84
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây dựng .................... 93
3.2.1. Kiến nghị các định hướng ............................................................................ 93
3.2.2. Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật ............................................... 97
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 100
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
UNCITRAL : United Nations Commission on International Trade Law
XDCB : Xây dựng cơ bản
T - H - T : Tiền-Hàng-Tiền
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xây dựng là một ngành công nghiệp quan trọng trong bất kỳ một xã hội hiện
đại nào. Nó tạo ra các sản vật đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con người và nhu cầu
phát triển kinh tế, xã hội - đó là nhà ở và các công trình kiến trúc khác hình thành
nên một môi trường nhân tạo thuận tiện để con người sinh sống và làm việc. Việt
Nam đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho nên ngành xây dựng
càng ngày càng trở nên có vai trò to lớn trong việc xây dựng đất nước.
Sản phẩm của hoạt động xây dựng thường có thời gian sử dụng lâu dài, luôn
gắn với những nguồn vốn đầu tư lớn mà có thể thuộc sở hữu của tư nhân hoặc của
nhà nước. Sản phẩm này đòi hỏi phải bảo đảm tính năng sử dụng, an toàn, tiết kiệm,
có hiệu quả và tránh tham nhũng, lãng phí (nếu là công trình sử dụng cho mục đích
công). Do vậy để hình thành một dự án đầu tư xây dựng công trình và đưa vào sử
dụng, hoạt động đầu tư, xây dựng phải tuân thủ nhiều qui trình, qui phạm ở những
công đoạn khác nhau. Lựa chọn nhà thầu để thực hiện công trình xây dựng không
chỉ là một công đoạn quan trọng và có ý nghĩa lớn, ảnh hưởng đến hiệu quả của quá
trình đầu tư xây dựng mà còn có ý nghĩa trong việc phòng chống tham nhũng, tránh
thất thoát, và chống cạnh tranh không lành mạnh…
Là một công đoạn quan trọng quyết định đến chất lượng, hiệu quả của các
công trình xây dựng, tại Việt Nam hiện nay, hoạt động đấu thầu xây dựng đã được
pháp luật qui định khá chặt chẽ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế
xã hội nói chung và trong lĩnh vực xây dựng nói riêng thì hoạt động đấu thầu xây
dựng cũng phát sinh nhiều vấn đề cần được pháp luật điều chỉnh một cách rõ ràng,
chặt chẽ hơn. Thực tiễn trong những năm gần đây tại Việt Nam cho thấy, các hành
vi vi phạm trong lĩnh vực xây dựng ngày càng nhiều để lại những hậu quả nghiêm
trọng không chỉ liên quan tới việc mất mát về tài sản, tính mạng con người mà còn
ảnh hưởng đến cả vấn đề chính trị xã hội. Một trong những nguyên nhân của các
hành vi vi phạm này xuất phát từ vẫn đề đấu thầu xây dựng. Do đó nhu cầu hoàn
1
thiện pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây dựng nói riêng luôn là vấn đề
cần được quan tâm trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Với nhận thức như vậy, tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt
Nam về đấu thầu xây dựng - Thực trạng và hướng hoàn thiện” để làm đề tài
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về đấu thầu xây dựng không phải là vấn đề quá mới mẻ ở Việt
Nam. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu viết về vấn đề này nhưng mới chỉ
là những nghiên cứu chung. Hiện chưa có bài viết, hay công trình nghiên cứu khoa
học chuyên sâu về pháp luật đấu thầu xây dựng tại Việt Nam hiện tại và tương lai.
Đồng thời, Luật Đấu thầu tuy đã được ban hành một thời gian nhưng còn rất nhiều
nội dung cần xem xét khi đưa đạo luật này vào áp dụng trong thực tiễn. Cho đến
nay hướng hoàn thiện pháp luật đấu thầu luôn luôn được đặt ra.
3. Mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài có mục đích làm rõ nền tảng lý luận pháp luật về đấu thầu xây dựng,
trên cơ sở đó phân tích thực trạng các qui định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi
hành để tìm ra những bất cập, nguyên nhân của những bất cập nhằm tới việc kiến
nghị hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cả về phương diện lập pháp, tư pháp và
thực hành.
Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi pháp luật hiện hành ở Việt Nam mà
không nghiên cứu sâu về lịch sử của lĩnh vực pháp luật này và cũng không nghiên
cứu pháp luật của các nước khác trừ khi cần xử lý những thông tin liên quan để đáp
ứng mục đích nghiên cứu của đề tài theo sự lựa chọn của tác giả Luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề pháp lý. Đề tài không nghiên
cứu các vấn đề liên quan tới vấn đề kinh tế - xã hội, văn hóa, truyền thống, trừ khi
tác giả Luận văn chủ động đề cập tới nhằm mục đích nghiên cứu nói trên.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu dựa trên nền tảng tư
tưởng Mác - Lê Nin, bao gồm: Phương pháp phân tích qui phạm, phương phân tích
2
vụ việc, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, phương trừu tượng hóa.
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn được chia thành 03 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về pháp luật đấu thầu xây dựng.
Chương 2: Nội dung chủ yếu của pháp luật đấu thầu xây dựng ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Thực tiễn thi hành và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đấu thầu
xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
3
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ
PHÁP LUẬT ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm, và sự cần thiết của đấu thầu xây dựng
1.1.1. Khái niệm về đấu thầu xây dựng
Nền kinh tế thị trường thúc đẩy cạnh tranh phát triển. Những người bán hàng
hóa, dịch vụ luôn luôn có sự cọ xát để tranh dành người mua. Cơ chế đó làm cho
người mua có được sự lựa chọn tốt nhất cho mình. Trên cơ sở đó, hoạt động đấu
thầu xuất hiện. Cơ chế đấu thầu cho phép người mua lựa chọn một hoặc một số
người bán có khả năng cung ứng hàng hóa, dịch vụ mà mình có nhu cầu sao cho đạt
được hiệu quả tối ưu cả về số lượng, chất lượng, giá cả, và kỹ thuật, công nghệ…
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Đấu thầu là một phương thức giao dịch đặc
biệt trong mua sắm hàng hóa và công trình xây dựng, và người bán sẽ công bố giá
để người mua lựa chọn” [5, tr.610]. Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa
học Xã hội, thuật ngữ đấu thầu xuất hiện rất sớm và được định nghĩa: “là tranh nhau
làm một công trình kiến thiết, ai nhận với giá rẻ nhất thì được làm” [7, tr.276]. Từ
điển Luật học của Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp giải thích đấu thầu là:
“phương thức giao dịch đặc biệt, người muốn xây dựng một công trình (người gọi
thầu) công bố trước các yêu cầu và điều kiện xây dựng công trình, người dự thầu
công bố giá mà mình muốn nhận, người gọi thầu qua so sánh để lựa chọn nhà thầu
có lợi nhất cho mình theo các điều kiện do mình đưa ra” [8, tr.240]. Đây là các định
nghĩa khái niệm đấu thầu được sử dụng trong đời sống thường nhật theo nhận thức
chung của xã hội. Dù thế các định nghĩa này đã chỉ ra được những điểm cốt yếu của
đấu thầu với tính cách là một công đoạn quan trọng trong hoạt động xây dựng hoặc
mua bán hàng hóa hay dịch vụ.
Luật Đấu thầu năm 2013 vừa được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam thông qua đã đưa ra một định nghĩa có tính cách pháp lý như sau:
“Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu để ký kết và thực hiện hợp đồng cung cấp
4
dịch vụ tư vấn, dịch vụ phi tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp; lựa chọn nhà thầu để
ký kết và thực hiện hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, dự án đầu
tư có sử dụng đất trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả
kinh tế”. Định nghĩa này đã nói tới tổng quát các yêu cầu cơ bản của hoạt động đấu
thầu hiện nay ở Việt Nam. Đây là một định nghĩa khá chi tiết, khác hẳn với định
nghĩa tổng quát của UNCITRAL rằng: “đấu thầu là tiến hành mua sắm hàng hóa,
xây dựng và dịch vụ theo một cách nào đó” (Luật mẫu của UNCITRAL, Điều 2).
Có thể thấy, các định nghĩa trên dù ở giác độ học thuật hay thông dụng đều
hướng tới việc chỉ ra rằng: đấu thầu là một thuật ngữ để chỉ một quá trình mua sắm
hàng hóa, xây lắp và dịch vụ thông qua một quá trình mang tính chuẩn hóa do bên
mời thầu áp dụng để lựa chọn nhà thầu phù hợp với các tiêu chí bên mời thầu đưa ra
thực hiện việc cung ứng hàng hóa, xây dựng và dịch vụ.
Trong đời sống kinh tế của nước ta nhiều năm trước đây, khi nói đến đấu
thầu người ta chỉ nghĩ đến việc đấu thầu xây dựng. Chính vì lý do đó, những quy
định về đấu thầu ở nước ta, trước tiên cũng được đưa ra cho lĩnh vực xây dựng để
sau này hoàn thiện hơn, đi sâu vào các lĩnh vực kinh doanh khác của đời sống xã
hội. Hoạt động xây dựng trong đề tài này được hiểu theo nghĩa hẹp - là hoạt động
của lĩnh vực xây dựng cơ bản. Một trong số 5 lĩnh vực cụ thể được Chính phủ giao
cho Bộ Xây dựng quản lý tại Nghị định số 36/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 với tư
cách là bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, về cơ bản được hiểu là: “xây dựng và
trang thiết bị cho xây dựng mới, cải tạo mở rộng xí nghiệp, nhà, công trình sản xuất
và phi sản xuất hay toàn nền kinh tế quốc dân được thực hiện từ vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tập trung của nhà nước, tín dụng ngân hàng, quỹ phát triển sản xuất,
phần trích khấu hao…kết quả của nó là thực hiện được việc tái sản xuất tài sản cố
định.” [6, tr.227].
Từ những nghiên cứu ở trên, có thể định nghĩa khái niệm đấu thầu xây dựng
như sau: Đấu thầu xây dựng là hình thức đấu thầu với mục đích lựa chọn được nhà
thầu hoặc một nhóm nhà thầu (liên danh) đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu do bên
mời thầu đặt ra để xây dựng các công trình.
5
1.1.2. Các đặc điểm của đấu thầu xây dựng
Đấu thầu giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được nhà thầu đáp ứng tốt nhất những
yêu cầu của mình. Nhờ đó họ có được những công trình có chất lượng cao, giá cả
hợp lý, phù hợp công năng sử dụng. Mặc dù cũng có bản chất là sự lựa chọn người
cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ, nhưng đầu thầu xây dựng có những đặc điểm riêng
sau đây khác biệt với các loại đấu thầu khác:
(1) Đặc điểm thứ nhất: Đấu thầu xây dựng mang tính phức hợp. Không
giống đấu thầu một loại hàng hoá hoặc dịch vụ đơn thuần, đấu thầu xây dựng nhằm
tìm kiếm một nhà thầu cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau từ tư vấn thiết kế, thi công
cho đến hoàn thiện công trình. Vì thế, đối với những công trình quan trọng, qui mô
lớn, chủ đầu tư thường phải chia thành các gói thầu khác nhau.
(2) Đặc điểm thứ hai: Đấu thầu xây dựng mang tính kỹ thuật. Đấu thầu xây
dựng phải bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có khả năng kỹ thuật, có công nghệ đáp
ứng được yêu cầu kỹ thuật của công trình.
(3) Đặc điểm thứ ba: Đấu thầu xây dựng có giá trị lớn. Có những công trình
đòi hỏi vốn lớn lên tới hàng trăm hoặc hàng ngàn tỷ đồng. Hầu hết trong số đó là
vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc những hợp đồng tín dụng, liên doanh
góp vốn giữa nhiều chủ thể khác nhau. Do đó, vấn đề là phải tìm ra phương thức,
hình thức đấu thầu thích hợp để sử dụng lượng vốn đó phù hợp nhất, mang lại hiệu
quả kinh tế cũng như xã hội cao nhất.
(4) Đặc điểm thứ tư: Thời gian thực hiện thầu kéo dài. Trúng thầu có nghĩa là
nhà thầu phải thi công công trình với khoảng thời gian kéo dài. Do đó trúng thầu có
thể dẫn đến nhiều hệ quả khác nhau, mà nếu không quản lý thích hợp sẽ dẫn đến
những tiêu cực như chất lượng công trình kém hoặc chậm tiến độ, không thực hiện
công việc được giao… [3].
Với những đặc điểm riêng riêng biệt trên thì đầu thầu xây dựng cần phải
được pháp luật điều chỉnh một cách chặt chẽ nhằm tránh được những hậu quả phát
sinh từ hoạt động này.
6
1.1.3. Sự cần thiết của đấu thầu xây dựng
Sản phẩm của xây dựng nhìn dưới góc độ kinh tế là loại hàng hóa đặc biệt.
Nó có thể là tri thức (ví dụ: trong dịch vụ tư vấn). Nó có thể là các hạng mục công
trình, hoặc công trình xây dựng. Các sản phẩm này thường có giá trị lớn, và được
tạo ra trong một khoản thời gian dài, và có thời gian sử dụng rất lâu dài. Do đó đấu
thầu xây dựng rất cần thiết, có vị trí hết sức quan trọng, liên quan đến hầu hết các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là đối với công nghiệp và khoa học kỹ thuật.
Việc lựa chọn người cung ứng dịch vụ xây dựng dần hình thành những quy
tắc đấu thầu nhất định. Các quy tắc đấu thầu bảo đảm sự bình đẳng, công khai, minh
bạch cho những người cung ứng dịch vụ và người có nhu cầu mua dịch vụ đó. Các
quy tắc này ngày nay đã được luật hóa tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu thầu
được diễn ra một cách trật tự và có tổ chức.
Việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu tuy mới hình thành và áp dụng trong
đời sống, nhưng đã trở thành một phương pháp lựa chọn nhà thầu có hiệu quả, là
một trong những hình thức phát huy quyền làm chủ và tự chịu trách nhiệm của chủ
đầu tư và tổ chức nhận thầu. Thông qua đấu thầu, các chủ thể đấu thầu tự chọn được
những phương án tối ưu trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư, giảm giá thành công
trình xây dựng, sớm đưa công trình vào sử dụng. Đối với các tổ chức nhận thầu
buộc phải đầu tư cả chiều sâu, cải tiến và hợp lý hóa quá trình sản xuất, đẩy mạnh
tiến độ thi công, sử dụng hợp lý nguồn vốn và vật tư, bảo đảm chất lượng công
trình, tăng hiệu quả nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Hiệu quả là điều tiên quyết mà các nhà đầu tư mong muốn đạt được trước khi
tiến hành bất cứ hoạt động nào. Để có được hiệu quả tối đa từ hoạt động đầu tư của
mình họ thường sử dụng đấu thầu để lựa chọn đơn vị đáp ứng được yêu cầu về kỹ
thuật, công nghệ, thực hiện dự án với chất lượng cao nhất với chi phí thấp nhất.
Thực tế tỷ lệ tiết kiệm do sử dụng đấu thầu thông thường đạt được từ 10 đến 15% so
với giá gói thầu. Khoảng thời gian trước đó vào những năm 1986 khi hoạt động
thầu của ta chỉ diễn ra dưới các hình thức như bỏ thầu, giao thầu, hay chỉ định thầu
kết quả của chính sách ấy đã đem về cho quốc gia những công trình kém chất lượng
7
trong khi ngân sách chi ra thì vượt rất nhiều, thất thoát lớn mà không sao quản lý.
Thế giới lúc đó đã sử dụng thuật ngữ đấu thầu từ rất lâu và trở thành công cụ quản
lý hữu hiệu, điều đó để thấy được rằng đấu thầu trong XDCB của Việt Nam là đi
cùng với xu thế, tồn tại như một quy luật khách quan.
Trong hoạt động này mọi nhà thầu có khả năng đều có thể tham gia đấu thầu
miễn là có đủ tiêu chuẩn theo qui định của pháp luật và chủ đầu tư đặt ra. Hình thức
đấu thầu rộng rãi là hình ảnh tiêu biểu nhất cho cơ hội cạnh tranh bình đẳng. Thông
qua đấu thầu chủ đầu tư tạo ra được sản phẩm có chất lượng với giá cả hợp lý nhất.
Dựa trên các tiêu chí đã được lựa chọn trước, nhà đầu tư có thể đánh giá công bằng
các nhà thầu cũng như tạo nên sự nhất quán từ đầu đến cuối quá trình xây dựng.
Chính nhờ có đấu thầu mà tình trạng vô trách nhiệm, thất thoát lãng phí các nguồn
vốn dành cho dự án được khắc phục, chất lượng công trình được nâng cao [37,
tr.115]. Dưới góc độ nhà đầu tư nó là công cụ giúp các chủ đầu tư lựa chọn được các
công trình xây dựng chất lượng tốt nhất với giá cả hợp lý nhất làm sao để sử dụng
đồng vốn có hiệu quả. Ngoài ra đối với các nhà thầu đây chính là phương thức tìm
kiếm cơ hội kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.
Xây dựng là lĩnh vực sử dụng nhiều vốn, vật tư, lao động và liên quan đến
nhiều ngành, lĩnh vực nên rất dễ dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát, tham nhũng.
Thực tế có những công trình vừa mới hoàn thành nhưng chỉ trong một thời gian
ngắn sử dụng đã xuống cấp rất nghiêm trọng… Nguyên nhân của tình trạng này là
do công trình đã bị “rút ruột” dẫn đến kém chất lượng, không đảm bảo các yêu cầu
đặt ra.
Thông qua các hoạt động đấu thầu bên mời thầu có thể chọn ra nhà thầu đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu đặt ra mà hạn chế tối đa được yếu tố tham nhũng. Hơn thế
nữa, thông qua tính công khai minh bạch của đấu thầu, chủ đầu tư có thể giám sát
nhà thầu dễ dàng hơn hoặc các nhà thầu có thể giám sát lẫn nhau tránh các hiện tượng
tiêu cực xảy ra. Đấu thầu, dưới góc độ quản lý nhà nước đó là công cụ quản lý vĩ mô
giúp nhà nước bảo toàn ngân sách và minh bạch trong các vấn đề xây dựng.
Với những nhiệm vụ mang tính cấp thiết và quan trọng đã được đặt ra, xây
8
dựng nói chung và đấu thầu xây dựng đã có đà phát triển mạnh. Hàng loạt công
trình có tầm cỡ về qui mô cũng như trình độ kĩ thuật tiên tiến được dựng nên bởi
những bàn tay và khối óc của con người Việt Nam, bên cạnh sự ủng hộ, giúp đỡ của
quốc tế. Một số các công trình tiêu biểu như cầu Thăng Long, cầu Thanh Trì, cảng
nước sâu Cái Lân, đường Bắc Thăng Long Nội Bài, nhà máy nhiệt điện Phả Lại,
nhà máy xi măng Bỉm Sơn, thủy điện Hòa Bình, đường cao tốc số 5, đường Pháp
Vân-Cầu Giẽ… Những công trình đó đã chứng tỏ một trình độ tiến bộ vượt bậc về
mặt kĩ thuật và tổ chức xây dựng ở nước ta, tạo điều kiện cho những bước tiến trong
thời kì mới [41].
1.2. Bản chất pháp lý của đấu thầu xây dựng
Đã có quan điểm đặt ra: đó là, một khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát
triển thì đấu thầu xây dựng sẽ lộ rõ hơn bản chất của nó là thương mại. Vậy quan
điểm này có đúng không khi nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập
quốc tế? Như chúng ta đã biết, theo Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng, thuật ngữ đấu
thầu xây dựng đã được biết đến một cách phổ biến và rộng rãi. Nó được tiếp cận
dưới 3 góc độ: dưới góc độ quản lý nhà nước - đó là công cụ quản lý vĩ mô giúp nhà
nước bảo toàn ngân sách và minh bạch trong các vấn đề xây dựng. Dưới góc độ nhà
đầu tư - nó là công cụ giúp các chủ đầu tư lựa chọn được các công trình xây dựng
chất lượng tốt nhất với giá hợp lý nhất làm sao để sử dụng đồng vốn có hiệu quả.
Dưới góc độ là nhà thầu - nó là phương thức tìm kiếm cơ hội kinh doanh và phát
triển doanh nghiệp. Hành vi thương mại với thực chất là mua bán hàng hóa hoặc
dịch vụ. Bên mua và bên bán ở đây hoạt động dựa trên công thức T - H - T’ tức là
dùng tiền để mua vào, sau đó bán ra để nhằm tới việc thu lại tiền với mong muốn
T’>T [1, tr.109-111]. Vì vậy có thể nói: lợi nhuận là động lực chính của thương
mại. Kinh tế ngày càng phát triển với sự tiến bộ nhanh của nền khoa học công nghệ
nó đã làm cho cầu của con người thay đổi nhanh chóng, nơi nào có cầu nơi đó ắt có
cung và hoạt động thương mại sẽ tồn tại ở đó như một quy luật khách quan. Việt
Nam trong những năm 1986 khi mà hoạt động đấu thầu của chúng ta chỉ diễn ra
dưới các hình thức như bỏ thầu, giao thầu, hay chỉ định thầu…Kết quả của chính
9
sách ấy đã đem về cho Quốc gia những công trình kém chất lượng trong khi ngân
sách chi ra thì vượt rất nhiều, thất thoát lớn mà không sao quản lý. Trong khi thế
giới lúc đó người ta đã sử dụng thuật ngữ này từ rất lâu và trở thành công cụ quản lý
hữu hiệu, điều đó để thấy được rằng đấu thầu xây dựng của Việt Nam là đi cùng với
xu thế, tồn tại như một quy luật khách quan.
Đấu thầu cũng có bên mua và bên bán. Bên mua là các chủ đầu tư: họ mong
muốn giống như các nhà tiêu dùng trong các hoạt động thương mại thuần túy khác
là khoản đầu tư mình bỏ ra là có lợi nhất, hàng hóa mua được phải là hàng hóa có
chất lượng tốt và giá cả phải chăng. Bên bán ở đây chính là các nhà thầu, họ mong
muốn bán được càng nhiều hàng hóa càng tốt với giá có lợi nhất cho doanh nghiêp
(T’>T) và mục tiêu của các nhà thầu tạo ra nhiều giá trị T’ khác nữa hay chính là
việc thắng thầu trong nhiều gói thầu. Như vậy trong các cuộc đấu thầu, nhà thầu nào
đưa ra được hàng hóa, dịch vụ nào phù hợp tốt nhất là được người mua chấp nhận.
Tùy theo nhu cầu sử dụng của mình mà người mua sẽ nêu ra các thông tin cơ bản về
yêu cầu chất lượng hàng hóa, điều kiện thanh toán, và các yêu cầu khác của hợp
đồng. Nhà thầu căn cứ vào nội dung yêu cầu ghi trong đề nghị chào hàng để gửi hồ
sơ dự thầu đến cho người mua. Trong trường hợp có hai hoặc nhiều đơn dự thầu có
chất lượng chào hàng đáp ứng yêu cầu cho người mua, thì trong số các đơn chào
hàng đáp ứng yêu cầu về chất lượng, nhà thầu nào có giá dự thầu thấp nhất sẽ được
chọn trao hợp đồng. Như vậy đấu thầu là cuộc chơi do người mua tổ chức và người
chơi là những nhà thầu. Nếu có luật chơi tốt sẽ thu hút được nhiều người chơi. Và
cùng với tính công bằng và minh bạch sẽ làm tăng thêm tính cạnh tranh. Trong
trường hợp này sẽ có nhiều cơ hội hơn cho người mua khi chọn mua hàng hóa và
dịch vụ thỏa mãn yêu cầu của mình với giá cả thấp nhất có thể. Câu hỏi đặt ra là:
vậy họ mua hàng hóa gì trong đấu thầu xây dựng? Rõ ràng sẽ không phải là những
hàng hóa thông thường mà đó là nhiệm vụ “kinh doanh xây dựng”. Nhiệm vụ này
bao gồm: thi công, thiết kế, khảo sát, mua sắm, tư vấn…Và tất nhiên giống như thị
trường thì giá thấp nhất của các nhà thầu sẽ được các nhà đầu tư lựa chọn. Ngày nay
trong một số quốc gia có rất nhiều các công ty xây dựng, họ phải cạnh tranh với
10
nhau và cuộc cạnh tranh ấy càng khốc liệt khi có sự tham gia của các công ty nước
ngoài - những công ty đã có quá nhiều kinh nghiệm trong việc “đấu thầu”. Vì thế nó
làm cho thị trường đấu thầu xây dựng ngày càng mở rộng nhằm đáp ứng yêu cầu
hội nhập, điều này đồng nghĩa với việc pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu
xây dựng nói riêng cần phải hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu trên.
1.3. Pháp luật điều chỉnh đấu thầu xây dựng
Đấu thầu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường nên
đấu thầu được điều chỉnh bằng pháp luật là điều tất yếu. Hơn thế, đấu thầu xây dựng
lại có đặc điểm riêng biệt, do đó các qui định điều chỉnh lĩnh vực này cũng mang
những đặc thù nhất định trong các nguyên tắc điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh và đối
tượng áp dụng.
1.3.1. Các nguyên tắc đầu thầu
Đấu thầu xây dựng có những nguyên tắc cơ bản sau đây mà pháp luật về đấu
thầu xây dựng phải ghi nhận:
(1) Nguyên tắc coi trọng hiệu quả
Có thể nói đây là nguyên tắc tiên quyết, một dự án được đem ra đấu thầu có
nghĩa công trình, dự án đó phải mang lại những ý nghĩa, hiệu quả nào đó. Tuy nhiên
khác với các gói thầu khác, gói thầu xây dựng phải đảm bảo hiệu quả cả về mặt
kinh tế cũng như xây dựng bởi nó liên quan trực tiếp đến đời sống con người. Điều
này có nghĩa tính hiệu quả của một công trình không chỉ hạn hẹp trong yếu tố kinh
tế mà còn cả yếu tố kỹ thuật. Nguyên tắc này cũng chi phối đến cả phương thức đấu
thầu hay hình thức đấu thầu sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
(2) Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ
Đấu thầu là cả một quá trình phải trải qua nhiều giai đoạn, giai đoạn trước
làm tiền đề cho giai đoạn sau, các giai đoạn liên quan mật thiết với nhau. Do vậy
các giai đoạn của đấu thầu phải được chuẩn bị hết sức cẩn thận, đầy đủ, nhất là với
nhà thầu xây dựng do liên quan nhiều tới các công trình qui mô lớn và đòi hỏi cao
về kỹ thuật và công nghệ. Mỗi giai đoạn đòi hỏi các bên phải cung cấp những thông
tin, dữ liệu cụ thể. Những dữ liệu này là cơ sở đánh giá hồ sơ dự thầu. Dữ liệu đưa
11
ra không đầy đủ, chuẩn xác gây ra những hậu quả khó lường như: Hoãn tổ chức đấu
thầu để bổ sung, đấu thầu lại hay hủy bỏ gây lãng phí. Việc thực hiện nghiêm túc
nguyên tắc này góp phần đảm bảo thành công của đấu thầu xây dựng.
(3) Nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng
Nguyên tắc cạnh tranh được thực hiện mới đảm bảo được ý nghĩa của đấu
thầu trên thực tế. Như chúng ta đã biết, đấu thầu là sự cạnh tranh giữa các nhà thầu,
các nhà thầu đều cố gắng có được gói thầu nên sự cạnh tranh diễn ra vô cùng mạnh
mẽ. Họ dùng nhiều biện pháp khác nhau để thể hiện ưu thế của mình sao cho có
được gói thầu. Tuy nhiên bắt buộc phải là sự cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh
một cách công bằng. Nghĩa là các nhà thầu đều phải được hưởng những cơ hội,
điều kiện ngang nhau trong suốt quá trình đấu thầu. Bên mời thầu có nghĩa vụ đảm
bảo sự bình đẳng này mà không có sự ưu ái hay phân biệt đối xử với bất kỳ nhà
thầu nào.
(4) Nguyên tắc đánh giá công bằng
Đây là nguyên tắc quan trọng trong đấu thầu nói chung cũng như trong đấu
thầu XDCB nói riêng. Nguyên tắc này đòi hỏi phải được thực hiện xuyên suốt quy
trình đấu thầu từ việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải đảm bảo sự bình đẳng, những tiêu
chuân đánh giá cũng phải đuợc ghi rõ ràng, cụ thể trong hồ sơ mời thầu. Nguyên tắc
này cũng yêu cầu các hồ sơ đấu thầu phải đuợc đánh giá khách quan bởi một hội
đồng có đầy đủ năng lực, phẩm chất. Kết quả của cuộc đấu thầu cũng phải được
công khai và giải thích lý do các nhà thầu vì sao hồ sơ của họ đuợc lựa chọn hoặc bị
loại để hạn chế tranh chấp phát sinh.
(5) Nguyên tắc minh bạch
Đây là một nguyên tắc cần phải được thực hiện triệt để trong đấu thầu
XDCB. Nguyên tắc này cần được áp dụng trong suốt quá trình đấu thầu, với tất cả
các bên tham gia từ thông tin đấu thầu cho đến các bước diễn ra trong quy trình đấu
thầu... góp phần làm cho các nhà thầu có cơ hội cạnh tranh lành mạnh, hạn chế các
tiêu cực có thể nảy sinh.
12
(6) Nguyên tắc trách nhiệm phân minh
Nguyên tắc này được thực hiện xuyên suốt trong quá trình đấu thầu, được
ghi nhận rõ ràng trong hợp đồng. Trên thực tế, các bên khi tham gia vào qua hệ đấu
thầu không chỉ liên quan đến nhau về quyền lợi mà còn cả nghĩa vụ, họ luôn nhận
thức được trách nhiệm của mình trong cả quá trình. Nguyên tắc này đảm bảo sự
nghiêm túc trong đấu thầu, hạn chế được những tiêu cực có thể xảy ra, đem lại
những hiệu quả cao nhất.
(7) Nguyên tắc bảo lãnh thích đáng
Có thể nói đây là nguyên tắc đặc thù của đấu thầu trong XDCB. Đấu thầu
xây dựng bao giờ cũng có bảo lãnh dự thầu, khoản tiền bảo lãnh đó được coi như
một phần của hồ sơ dự thầu, hồ sơ dự thầu không có bảo lãnh sẽ không được chấp
nhận. Nguyên tắc này đảm bảo cho cuộc đấu thầu diễn ra thành công, hạn chế
những rủi ro trong các ứng xử của nhà thầu, loại bỏ những nhà thầu không có ý định
nghiêm túc.
(8) Nguyên tắc khuyến khích nhà thầu trong nước
Nguyên tắc này được đặt ra để bảo vệ quyền lợi cũng như khuyến khích sự
phát triển của các nhà thầu còn non trẻ trong nước. Nếu trong một cuộc đấu thầu số
điểm của nhà thầu Việt Nam ngang bằng với số điểm của nhà thầu nước ngoài thì
nhà thầu của chúng ta sẽ được ưu tiên. Các nhà thầu nước ngoài luôn phải đảm bảo
về lượng nhân công Việt Nam, mua sắm vật tư thiết bị tại Việt Nam và đặc biệt là
luôn phải liên danh hoặc sử dụng thầu phụ là nhà thầu Việt Nam.
(9) Nguyên tắc tôn trọng các điều ước quốc tế
Khi tiến hành đấu thầu các gói thầu có liên quan đến các điều ước quốc tế mà
chúng ta đã tham gia thì áp dụng điều ước đó. Nếu khi thực hiện các văn bản, thỏa
thuận đã kí sử dụng vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài mà có
quy định liên quan đến đấu thầu nhưng khác với quy định của pháp luật Việt Nam
thì áp dụng theo văn bản, thỏa thuận đã ký.
13
1.3.2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của pháp luật đấu thầu
xây dựng
Phạm vi và đối tượng áp dụng của pháp luật đấu thầu xây dựng chính là các
tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng trên lãnh
thổ Việt Nam. Những chủ thể này sẽ phải đáp ứng những điều kiện nhất định theo
quy định của pháp luật như năng lực hành nghề xây dựng hoặc năng lực hoạt động
xây dựng sẽ được nghiên cứu cụ thể tại những phần sau.
1.3.3. Những vấn đề pháp lý cơ bản của đấu thầu xây dựng
Về cơ bản pháp luật đấu thầu xây dựng có những nội dung pháp lý tương tự
như trong luật đấu thầu nói chung. Tuy nhiên đây là hoạt động đấu thầu trong lĩnh
vực cụ thể nên mang một số điểm khác biệt nhất định. Có thể tóm tắt một số vấn đề
pháp lý cơ bản sau: Những quy định về chủ thể; lựa chọn hình thức đấu thầu; trình
tự, thủ tục đấu thầu; lựa chọn nhà thầu và ký kết hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của
các bên trong quan hệ đấu thầu; và xử lý vi phạm.
Có thể nói, luật đấu thầu và các luật chuyên ngành khác nói chung cũng như
luật đấu thầu và luật xây dựng nói riêng có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ. Điều 3,
Khoản 1, Luật Đấu thầu năm 2013 quy định: “Trường hợp có đặc thù về đấu thầu
quy định ở Luật khác thì áp dụng theo quy định của Luật đó”. Điều này có nghĩa là
luật đấu thầu được coi là luật chung, điều chỉnh những vấn đề cơ bản nhất về đấu
thầu, làm cơ sở cho các luật chuyên ngành khác có liên quan đến hoạt động này. Do
đó, đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng đương nhiên sẽ phải tuân theo luật đấu thầu.
Tuy nhiên đây lại là hoạt động đấu thầu trong lĩnh vực cụ thể nên nhất thiết phải
chịu sự điều chỉnh đồng thời của luật xây dựng. Những nguyên tắc chung, thống
nhất của luật đấu thầu sẽ được áp dụng cùng với luật xây dựng để hoạt động này có
thể diễn ra trên thực tế mà không gặp phải những vướng mắc hay chồng chéo trong
sự điều chỉnh của pháp luật.
14
- Xem thêm -