Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp luật việt nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập ...

Tài liệu Pháp luật việt nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập

.PDF
97
14
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÒ THÙY LINH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIA NHẬP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÒ THÙY LINH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIA NHẬP Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Viết Tý Hà Nội - 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Lò Thuỳ Linh 93 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Chƣơng 1: MỞ ĐẦU 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI 7 NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIA NHẬP 1.1 Khái quát chung về quyền lợi người tiêu dùng 7 1.1.1 Khái niệm người tiêu dùng 7 1.1.2 Các quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng 12 1.2 Khái quát chung về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu 16 dùng trong hợp đồng gia nhập 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng gia nhập 16 1.2.2 Tính tất yếu của vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 28 trong hợp đồng gia nhập Chƣơng 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI 35 NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIA NHẬP 2.1 Khái niệm, nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ quyền lợi 35 người tiêu dùng 2.1.1 Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 35 2.1.2 Nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu 37 dùng 2.2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người 41 tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập 2.2.1 Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản về hợp đồng gia nhập 41 2.2.2 Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập 45 2.2.3 Trách nhiệm của nhà kinh doanh trong hợp đồng gia nhập 46 94 2.2.4 Quy định về kiểm soát hợp đồng gia nhập 50 2.2.5 Cơ chế hiê ̣n hành gi ải quyết tranh chấp trong hợp đồng gia 56 nhập 2.3 Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong hợp 61 đồng gia nhập ở Việt Nam hiện nay 2.3.1 Sử du ̣ng thuâ ̣t ngữ chuyên môn khó hiể u trong hơ ̣p đồ ng 62 gia nhâ ̣p 2.3.2 Sử du ̣ng hin ̀ h thức hơ ̣p đồ ng gia nhâ ̣p không thuâ ̣n lơ ̣i cho 64 người tiêu dùng 2.3.3 Sử du ̣ng những điề u kiê ̣n , điề u khoản hơ ̣p đồ ng bấ t lơ ̣i cho 66 người tiêu dùng 2.3.4 Đơn phương thay đổ i nô ̣i dung cơ bản của các điề u khoản 69 trong hơ ̣p đồ ng gia nhâ ̣p Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT 73 NAM VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIA NHẬP 3.1 Hoàn thiện khái niệm và nguyên tắc cơ bản về hợp đồng 73 Xây dựng và hoàn thiện các quy định về hợp đồng gia nhập 74 gia nhập trong Bộ luật dân sự 3.2 trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 3.3 Một số giải pháp hỗ trợ khác 83 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 95 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu sắc như hiện nay thúc đẩy giao lưu thương mại ngày càng được mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Trên thị trường, hàng hóa và dịch vụ ngày càng đa dạng về chủng loại và chất lượng đem đến nhiều cơ hội được lựa chọn và sử dụng sản phẩm hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Tuy nhiên, người tiêu dùng cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp từ phía nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ như: vấn đề thực phẩm không an toàn, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, dịch vụ kém chất lượng, quảng cáo gian dối hoặc gây nhầm lẫn… Bởi vậy, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng được coi là một trong những yêu cầu tất yếu của một xã hội dân chủ và văn minh, vì sự phát triển và tiến bộ của con người. Mối quan hệ giữa nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và người tiêu dùng được thiết lập và duy trì thông qua hợp đồng. Về nguyên tắc, hợp đồng là công cụ thiết yếu để ghi nhận các thoả thuận và tạo lập sự cân bằng tương đối lợi ích giữa các bên và do đó các bên trong quan hệ hợp đồng hoàn toàn được tự nguyện thoả thuận trên cơ sở tự do ý chí nhằm thiết lập “luật chơi chung”. Tuy nhiên, hầu hết các hợp đồng mà nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ ký kết với người tiêu dùng lại là những hợp đồng được soạn thảo sẵn với các điều kiện giao dịch được thiết lập từ trước đó, hay còn được gọi là hợp đồng gia nhập. Vì vậy, người tiêu dùng thông thường vẫn là một bên yếu thế hơn so với nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ về khả năng tiếp cận thông tin cũng như khả năng đàm phán các điều khoản của hợp đồng bởi thực chất người tiêu dùng chỉ là bên gia nhập hợp đồng. Tại Việt Nam, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được đặt ra kể từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 - mốc son đánh dấu bước 1 chuyển mình mạnh mẽ của kinh tế đất nước, từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Việc thừa nhận nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay cũng đang làm thay đổi căn bản những vấn đề về nhận thức và phương pháp điều tiết của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được coi là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm hiện thực hoá mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng đã thực sự trở thành một lĩnh vực pháp luật độc lập, có vị trí đáng kể trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là khi Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được ban hành vào năm 1999, dự kiến sẽ được nâng lên thành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong năm 2010. Tuy nhiên, thực tế hiện nay tại Việt Nam cho thấy quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập với một bên là nhà sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ vẫn chưa được đảm bảo và hiện người tiêu dùng vẫn phải chấp nhận sự thiệt thòi, bất lợi khi giao kết hợp đồng mà không có cơ hội được đàm phán cũng như cơ hội lên tiếng để bảo vệ chính mình. Pháp luật vẫn chưa đủ mạnh và trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng gia nhập. Vì vậy, việc nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh pháp lý về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập nói riêng cũng như xây dựng và hoàn thiện hơn các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nói chung là một yêu cầu cấp thiết ở nước ta hiện nay. Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã lựa chọn chủ đề “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng mặc dù xuất hiện và được đề cập đến chưa lâu ở Việt Nam nhưng đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Có thể kể đến cuốn “Tìm hiểu Luật bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam” của Viện Nhà nước và Pháp luật, NXB Lao động, 1999; “Nghiên cứu người tiêu dùng: Những vấn đề về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam” của Đoàn Văn Trường, NXB khoa học và kỹ thuật, 2003; “Tìm hiểu pháp luật bảo vệ người tiêu dùng” của Bá Linh, NXB Tư pháp, 2005; “Sổ tay công tác bảo vệ người tiêu dùng” của Cục quản lý cạnh tranh - Bộ thương mại, NXB Chính trị quốc gia, 2006. Ngoài ra, còn có các bài viết có liên quan khác như: “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh” của Ngô Vĩnh Bạch Dương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2000; “Pháp luật và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng” của Đặng Vũ Huân đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng tháng 1/2005; “Người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng” của Ths. Nguyễn Ngọc Sơn, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 1/2009; “Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước” của PGS. TS Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2000; “Hợp đồng theo mẫu và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Nguyễn Văn Vân, Tạp chí khoa học pháp lý, số 4/2000. Tuy nhiên, nội dung của các công trình nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập đến các vấn đề lý luận về người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng hoặc chỉ đề cập đến khía cạnh nào đó của hợp đồng gia nhập, chứ chưa có một nghiên cứu tổng thể và toàn diện về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập dưới góc độ pháp lý. Do vậy, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng gia nhập trong mối quan hệ giữa người tiêu dùng với nhà kinh doanh, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng khi gia nhập hợp đồng cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện. 3 3. Mục đích của đề tài Mục đích của đề tài là nhằm nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập dưới góc độ pháp lý, góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Do đó, trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung làm rõ một số nội dung sau: - Nghiên cứu những cơ sở lý luận cũng như các vấn đề pháp lý của hợp đồng gia nhập và vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập. - Phân tích các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập, so sánh với pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của một số nước trên thế giới. - Đưa ra nhận xét, đánh giá thực tiễn cũng như xu hướng của vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập tại Việt Nam. - Kiến nghị nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập cũng như các cơ chế cho việc áp dụng pháp luật cho phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học Mác – Lê nin làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích các sự kiện, hiện tượng pháp lý và tổng hợp những kinh nghiệm thực tiễn trong việc bảo vệ người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập. - Phương pháp phân tích quy phạm: Phân tích các quy phạm pháp luật thực định để làm sáng tỏ những điểm hợp lý, hạn chế cũng như mối quan hệ với các quy định khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập. 4 - Phương pháp so sánh pháp luật: so sánh các quy định pháp luật Việt Nam với một số nước trên thế giới. 5. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn diện về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập ở Việt Nam hiện nay, đưa ra và phân tích những vấn đề có tính lý luận về hợp đồng gia nhập làm cơ sở cho các luận cứ khoa học của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập bằng pháp luật hiện hành. Việc nghiên cứu pháp luật bảo vệ người tiêu dùng sẽ góp phần hoàn thiện hơn pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập, nhất là khi quá trình pháp điển hoá Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thành Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang tích cực được hoàn thành. Về mặt giá trị thực tiễn, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập, tìm ra nguyên nhân cũng như đưa ra các giải pháp để khắc phục nhằm nâng cao tính khả thi, tính minh bạch của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hoàn thiện cơ chế và các thiết chế bảo vệ quyề n lơ ̣i người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập ở Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương, trong đó: Chương 1: Khái quát chung về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập 5 Chương 2: Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập. * * * Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Viết Tý, cùng các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp đã đóng góp ý kiến, nhiệt tình giúp đỡ để tác giả hoàn thành luận văn này. Cho dù đã rất cố gắng, dành tâm huyết, song vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam và do thời gian có hạn nên luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp và những người quan tâm đến vấn đề này. 6 Chƣơng 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG HỢP ĐỒNG GIA NHẬP 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG 1.1.1. Khái niệm ngƣời tiêu dùng Tiêu dùng là quá trình tiêu hao các tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt nhằm phục vụ cho các nhu cầu khác nhau trong đời sống con người vì sự phát triển không ngừng của xã hội. Bởi vâ ̣y, có thể phân chia tiêu dùng thành hai loại: tiêu dùng sản xuấ t và tiêu dùng đời số ng , theo đó tiêu dùng sản xuấ t là sự tiêu hao tư liê ̣u sản xuấ t trong quá triǹ h sản xuấ t vâ ̣t chấ t , còn tiêu dùng sinh hoa ̣t là s ự tiêu hao tư liệu sinh hoạt trong quá trình sinh sống và phát triển của con người. Tiêu dùng sản xuất vốn là để phục vụ cho tiêu dùng đời sống bởi không có tiêu dùng đời sống, không có sự tiêu hao tư liệu sinh hoạt trong quá trình sinh sống và phát triển của con người thì sản xuất cũng mất hết ý nghĩa và trở thành sản xuất không có mục đích, biến thành sản xuất dự trữ lãng phí đặc biệt [11]. Do vâ ̣y, hiể u theo nghiã he ̣p ti êu dùng là việc sử dụng của cải vật chất để thoả mãn các nhu cầu của đời sống sinh hoạt hàng ngày [24]. Nói cách khác, tiêu dùng đươ ̣c hiể u l à tiêu dùng đời sống, là mục đích cuối cùng của hoạt động kinh tế của loài người. Đây cũng là một khâu quan trọng và có ảnh hưởng quyết định tới sản xuất, bởi sản xuất luôn cần đến tiêu dùng đời sống để mỗi sản phẩm làm ra thực sự đi vào tiêu dùng, được tiêu dùng, hoàn thành chức năng là sản phẩm. Khái niệm người tiêu dùng Như trên đã nói, tiêu dùng đời sống được coi là mục đích cuối cùng của quá trình sản xuất. Chủ thể thực hiện các hoạt động tiêu dùng đời sống, đồng thời là 7 đối tượng phục vụ của nhà sản xuất và cung ứng sản phẩm trên thị trường chính là người tiêu dùng. Tiếng Anh sử dụng từ “consumer” với nghĩa người tiêu dùng để phân biệt với “customer” - người mua, khách hàng nói chung, theo đó “khách hàng” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ người mua hàng hoá, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh. Với cách định nghĩa này, các luật gia tư sản “khi xác định một người nào đó có phải là người tiêu dùng hay không thường dựa trên cơ sở: Người đó có sử dụng mặt hàng đó hoặc dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu của cá nhân hoặc của gia đình họ hay không. Hoặc nói khác đi – theo thuật ngữ của các luật gia Cộng hoà Liên bang Đức – có phải là người tiêu dùng cuối cùng hay không” [27]. Còn theo quan điểm chiếm ưu thế trong luật học Pháp, khái niệm “người tiêu dùng” được hiểu là người không phải chủ doanh nghiệp, tức là thể nhân mua các sản phẩm và dùng các dịch vụ không nhằm mục đích hoạt động nghề nghiệp hay tìm kiếm lợi nhuận mà là để phục vụ cho gia đình hoặc cho bản thân. “Chính sự đánh đồng người tiêu dùng với người không phải chủ doanh nghiệp là xuất phát điểm của luật pháp và thực tiễn tư pháp của Pháp” [27]. Bảo hộ lợi ích người tiêu dùng theo pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Pháp là bảo hộ lợi ích của các cá nhân có hoạt động tiêu dùng đơn thuần. “Người tiêu dùng là người mua hàng hoá hoặc dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình mà không có ý định bán lại; là một tự nhiên nhân sử dụng sản phẩm phục vụ mục đích cá nhân, không phải nhằm mục đích kinh doanh” [30], nói cách khác người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Luật bảo vệ người tiêu dùng của các nước khác cũng có cách định nghĩa tương tự về người tiêu dùng. Theo Luật bảo vệ người tiêu dùng Malaysia năm 1999, “người tiêu dùng” là người: (a) nhận được hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho mục 8 đích cá nhân, sử dụng trong hộ gia đình, sử dụng hoặc tiêu dùng, và (b) không sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc dùng hàng hóa dịch vụ vào mục đích: (i) cung cấp lại vì mục đích thương mại; (ii) tiêu dùng chúng vào quá trình sản xuất; hoặc (iii) trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ sửa chữa hoặc xử lý, các hàng hóa và tài sản gắn liền với đất khác; Luật bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ năm 1986 định nghĩa người tiêu dùng theo 2 cách, theo hàng hóa và theo dịch vụ: Người tiêu dùng hàng hóa là người mua bất kỳ loại hàng hóa nào vì một mục đích nhất định, bao gồm cả người sử dụng không có sự cho phép của người mua, được gọi là một người tiêu dùng hàng hóa, nhưng không bao gồm người bán lại hàng hóa hoặc sử dụng hàng hóa vì các mục đích thương mại – sau Luật sửa đổi bổ sung năm 1993, mục đích thương mại không bao gồm những hàng hóa chỉ được sử dụng vì mục đích tự thuê mướn hoặc kiếm sống. Xét trên phương diện dịch vụ, người tiêu dùng có nghĩa là một người thuê bất kỳ dịch vụ nào vì một mục đích nhất định hoặc một người được hưởng lợi của dịch vụ đó, nhưng phải hưởng lợi của dịch vụ đó với sự cho phép của người mà thực sự thuê dịch vụ đó. Định nghĩa dịch vụ của Luật bảo vệ người tiêu dùng Ấn Độ khá rộng bởi nó bao trùm cả các dịch vụ như ngân hàng, tài chính do bất cứ cá nhân hay tổ chức nào cung cấp, bao gồm các cam kết trong lĩnh vực công và các cơ quan chính phủ hay những tổ chức tương đương. Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 của Việt Nam cũng có sự tương đồng về khái niệm người tiêu dùng như pháp luật của các nước. Theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Điều 2 Nghị định 69/2001/NĐ-CP ngày 2/10/2001 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh nói trên: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá 9 nhân, gia đình và tổ chức”, bao gồm: “(a) Người mua và là người sử dụng hàng hoá, dịch vụ đã mua cho chính bản thân mình; (b) Người mua hàng hoá, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ chức sử dụng; (c) Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hoá, dịch vụ do người khác mua hoặc do được cho, tặng”. Cách định nghĩa “người tiêu dùng” ở đây đã có sự phân biệt hai chủ thể tiêu dùng khác nhau: người tiêu dùng là cá nhân và người tiêu dùng là tổ chức với cùng một mục đích: tiêu dùng sinh hoạt. Nhìn chung cách quy định này làm phạm vi chủ thể được bảo vệ là tương đối rộng, song theo cách lý giải của nhà làm luật, không phải lúc nào tổ chức cũng đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu pháp luật bảo vệ người tiêu dùng không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội. Bởi vậy, Dự thảo 5 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam vẫn giữ cách quy định như Pháp lệnh năm 1999, chỉ có điểm khác là dự thảo Luật chỉ rõ hơn “Người tiêu dùng là tổ chức, cá nhân mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ không nhằm mục đích bán lại”[10] để phân biệt người tiêu dùng với nhà sản xuất, kinh doanh luôn lấy lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu. Như vâ ̣y , có hai cách quy định về người tiêu dùng trong pháp luật các nước , theo đó (i) quy đinh ̣ người tiêu dùng chỉ là thể nhân (hoă ̣c cá nhân) và (ii) quy đinh ̣ rõ người tiêu dùng là thể nhân và pháp nhân làm luật Việt Nam theo quan điể m thứ thể tiêu dùng cầ n đươ ̣c bảo vê ̣ . Nhà hai khi cho rằ ng có ha i nhóm chủ : người tiêu dùng là cá nhân và người tiêu dùng là tổ chức . Nhóm thứ nhất , người tiêu dùng là cá nhân , đươ ̣c hiể u là con người cu ̣ thể thực hiê ̣n hoa ̣t đô ̣ng tiêu dùng hàng hóa , dịch vụ cho đời số ng sinh hoa ̣t hàng ngày của chính mình và của gia đình . Nhóm thứ hai , người tiêu dùng là tổ chức , bao gồ m các cơ quan Nhà nước 10 , các doanh nghiê ̣p và các tổ chức khác như trường ho ̣c , bê ̣nh viê ̣n , nhà thờ ...... tiêu dùng hàng hóa , dịch vụ để phục vụ cho các cán bộ , nhân viên của ho ̣ . Khác với người tiêu dùng là cá nhân , tổ chức thực hiê ̣n hoa ̣t đô ̣ng mua bán hàng hóa, dịch vụ thường phải thông qua cơ chế đa ̣i diê ̣n và giá trị giao dịch giữa những đối tượng này với nhà kinh doanh là tương đối lớn . Tuy nhiên , xét đến cùng , dù hàng hóa, dịch vụ được mua bởi các tổ chức song hoa ̣t đô ̣ng tiêu dùng chúng vẫn do cá nhân (cán bộ , nhân viên ) trong tổ chức đó thực hiê ̣n . Trên thi ̣trường , viê ̣c thỏa mañ nhu cầ u tiêu dùng của người tiêu dùng là cá nhân hay tổ chức trong xã hội đều nhằ m mục đích biế n các sản phẩm có được từ sản xuất thật sự có giá trị và giá trị sử dụng cũng như tối đa hoá lợi nhuận là mu ̣c tiêu hướng đế n của nhà sản xuất và cung ứng sản phẩm. Người tiêu dùng vì thế luôn luôn đóng vai trò là “lực lượng quyết định sự thành bại của cả một sự nghiệp sản xuất kinh doanh” [25]. Tóm lại , tất cả những người đang có nhu cầu sử dụng các loại sản phẩm, hàng hoá dịch vụ trên thị trường vì mục đích tiêu dùng đời sống, không phân biệt thể nhân hay pháp nhân đều là người tiêu dùng. Mục đích tiêu dùng cho sinh hoạt và đời sống được coi là cơ sở để đưa ra định nghĩa về người tiêu dùng, giới hạn phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam và các nước. Ở đây, pháp luật các nước đều không bàn tới tiêu dùng sản xuất bởi trong phạm vi sản xuất và tiêu dùng sản xuất, các nước đã có chế định luật riêng để điều chỉnh. Khái niệm người tiêu dùng hiểu theo nghĩa chung nhất là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích phục vụ cho các nhu cầu của chính bản thân, gia đình hoặc tổ chức của mình, không nhằm mục đích lợi nhuận. Hàng hoá, dịch vụ được mua cho sử dụng cuối cùng bởi các cá nhân, được coi là “người sử dụng cuối cùng”, “người tiêu dùng cuối cùng”. Trong một nền kinh tế, sức mua của người tiêu dùng chính là đòn bẩy, là động lực thúc 11 đẩy các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phát triển. Bởi vậy, bảo vệ các quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng được đặt ra như một yêu cầu tất yếu khách quan, cần có sự kết hợp của nhiều biện pháp, mà trước hết là việc hoàn thiện các quy định của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. 1.1.2. Các quyền lợi cơ bản của ngƣời tiêu dùng Quyền lợi người tiêu dùng là thuật ngữ pháp lý chỉ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Phong trào bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được hình thành và phát triển từ những năm 50 – 60 của Thế kỷ XX nhưng những quyền của người tiêu dùng thì chưa được xác định rõ. Dấu mốc quan trọng đánh dấu quá trình hình thành và phát triển những quyền của người tiêu dùng là ngày 15/3/1962 khi Tổng thống Mỹ John Kenedy trong cuộc họp của Thượng viện Mỹ tuyên bố: “…Theo định nghĩa, người tiêu dùng là tất cả chúng ta. Họ là nhóm người đông đảo nhất, có tác động và chịu tác động của hầu hết các quyết định về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Thế nhưng họ lại là nhóm người quan trọng duy nhất mà quan điểm của họ lại thường không được lắng nghe…”. Tuyên bố Kenedy lúc đầu chỉ đề cập đến bốn quyền cơ bản của người tiêu dùng, đó là: quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn và quyền được bày tỏ quan điểm. Qua quá trình hoạt động thực tiễn của Quốc tế người tiêu dùng (Consumer International - CI) và các tổ chức người tiêu dùng các nước, bốn quyền của người tiêu dùng đã được bổ sung thêm. Đó là các quyền: quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản, quyền được bồi thường, quyền được giáo dục và quyền được sống trong một môi trường lành mạnh. Ngày 8/4/1985, Đại hội đồng Liên hợp quốc cũng đã phê chuẩn Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng dựa trên nguyên tắc của 8 quyền của người tiêu dùng. Liên hợp quốc cũng đã chính thức tuyên bố ngày 15/3 hàng năm là ngày quyền của người tiêu dùng thế giới (World Consumer 12 Rights Day) nhằm thu hút dư luận chú ý vào các vi phạm về quyền của người tiêu dùng và nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngày nay, trên cơ sở Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng, Chính phủ nhiều nước đã đưa nội dung 8 quyền của người tiêu dùng vào pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nước mình. Đó là các quyền: (i) Quyền được thoả mãn những nhu cầu cơ bản: là quyền được có những hàng hoá, dịch vụ thiết yếu phục vụ cho cuộc sống như ăn, ở, chăm sóc sức khoẻ, học hành, đi lại…cũng như những nhu cầu thiết yếu về tinh thần với giá cả hợp lý và có thể chấp nhận được. Nhu cầu cơ bản của người tiêu dùng là một khái niệm động bởi nó thay đổi tuỳ theo điều kiện của xã hội, sự phát triển của nền kinh tế mỗi nước, nhưng bao giờ cũng cần đủ để con người không những tồn tại mà còn có thể phát triển cả về thể chất và tinh thần. (ii) Quyền được an toàn: là quyền của người tiêu dùng được bảo vệ chống lại những loại hàng hoá, dịch vụ, quá trình sản xuất có hại đến sức khoẻ, đời sống và quyền lợi chính đáng của họ. Người tiêu dùng cần không bị đe doạ bởi những nguy cơ trong quá trình sản xuất cũng như không bị thiệt thòi trong quá trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ được cung cấp. (iii) Quyền được thông tin: Người tiêu dùng có quyền được cung cấp những thông tin cần thiết về hàng hoá, dịch vụ mà họ sử dụng để có thể tự quyết định việc có sử dụng hay không trên cơ sở có đầy đủ thông tin. Việc không cung cấp thông tin hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp thông tin sai lệch để cố tình làm cho người tiêu dùng nhầm lẫn trong việc lựa chọn hàng hóa, dịch vụ đều là vi phạm quyền được thông tin của người tiêu dùng. Nội dung thông tin cho người tiêu dùng có thể được thực hiện thông qua việc ghi nhãn, qua các hướng dẫn sử dụng hay qua các giới thiệu quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. 13 (iv) Quyền được lựa chọn: là quyền của người tiêu dùng trong việc tự do quyết định dùng hay không dùng hàng hoá, dịch vụ. Các hành vi thông tin không trung thực, tạo ra sự khan hiếm giả tạo để gò ép người tiêu dùng, việc lợi dụng vị thế thống lĩnh hay độc quyền để khiến người tiêu dùng bắt buộc phải sử dụng hàng hoá, dịch vụ của mình hoặc việc tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh đều là hành vi vi phạm quyền được lựa chọn của người tiêu dùng. (v) Quyền được lắng nghe còn được gọi là quyền được đại diện hay quyền được bày tỏ ý kiến của người tiêu dùng: là quyền của người tiêu dùng được bày tỏ ý kiến của mình đối với nhà sản xuất, kinh doanh về các loại hàng hóa, dịch vụ do họ cung ứng, kể cả quan hệ thái độ giữa người bán và người mua cũng như bày tỏ ý kiến với Nhà nước, với các cơ quan hoạch định chính sách pháp luật… về những vấn đề có liên quan đến họ. Người tiêu dùng có thể trực tiếp góp ý kiến hoặc thông qua đại diện của mình, thông qua các hội người tiêu dùng các cấp, do đó quyền này còn gọi là quyền được đại diện. Tôn trọng quyền được lắng nghe của người tiêu dùng vừa là nghĩa vụ vừa là quyền lợi của các nhà sản xuất, kinh doanh vì thông qua ý kiến của người tiêu dùng, họ có thể cải tiến chất lượng hàng hóa, dịch vụ nhằm giành được lòng tin của người tiêu dùng, là điều kiện mấu chốt để doanh nghiệp phát triển. (vi) Quyền được khiếu nại và bồi thường: Khi gặp những thiệt thòi hoặc những điều không vừa ý trong quan hệ với các nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng có quyền được khiếu nại. Khi những khiếu nại là chính xác và đúng đắn, người tiêu dùng có quyền được bồi thường. Nhà sản xuất kinh doanh phải bồi thường cho người tiêu dùng nếu sản phẩm do họ cung ứng không đúng với nội dung đã giới thiệu, quảng cáo và các cam kết trong hợp đồng. Bồi thường thỏa đáng cho những khiếu nại chính đáng của người tiêu dùng sẽ nâng cao uy tín của doanh nghiệp, cải thiện hình ảnh doanh nghiệp trong con mắt người tiêu dùng. 14 (vii) Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng: là điều kiện cần thiết để các quyền của người tiêu dùng được thực hiện. Giáo dục về người tiêu dùng, về những kiến thức và kỹ năng tiêu dùng sẽ giúp cho người tiêu dùng có hiểu biết về vị thế của mình trong xã hội, có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc giáo dục người tiêu dùng có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức khác nhau như cung cấp thông tin, kiến thức thông qua các ấn phẩm, báo chí, các hội thảo, hội nghị, triển lãm… Nhiều nước đã đưa giáo dục về tiêu dùng vào các chương trình giảng dạy của trường học. (viii) Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững: Môi trường ở đây bao gồm cả môi trường vật chất và xã hội. Người tiêu dùng có quyền được sống trong một môi trường trong lành, không bị ô nhiễm, tài nguyên và sinh quyển được bảo vệ, bảo đảm bền vững cho thế hệ hôm nay và mai sau. Tiêu dùng bền vững bởi vậy cũng là một trong những mục tiêu lớn được đặt ra trong Hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ người tiêu dùng. Bên cạnh đó, người tiêu dùng còn có quyền có một môi trường xã hội lành mạnh, trong đó họ được an toàn về vật chất và tinh thần, được sống hòa hợp và thân ái trong cộng đồng, được tôn trọng về nhân phẩm. Trong 8 quyề n nói trên , quyề n quan tro ̣ng nhấ t là quyề n được thông tin của người tiêu dùng . Bởi lẽ (i) thông tin là vấn đề then chốt trong việc bảo vệ người tiêu dùng vì có được đảm bảo quyền được thông tin , người tiêu dùng mới biế t đế n các quyề n của mình để có thể nhâ ̣n thức đươ ̣c quyề n nào đã bi ̣ nhà kinh doanh vi pha ̣m trong quá trình sản xuất , cung ứng sản phẩ m , từ đó biế t cách sử du ̣ng các công cu ̣ pháp lý để bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i của mình ; (ii) có thông tin đầ y đủ , chính xác , người tiêu dùng mới có sự lựa cho ̣n tiêu dùng đúng đắ n và có điề u kiê ̣ n để trở thành “ người tiêu dùng thông thái” trên thi ̣ trường. Trên thực tế , quyề n đươ ̣c thông tin của người tiêu dùng cũng là quyền bị vi phạm nhiều nhất do cơ chế thông tin bấ t cân xứng 15 , theo đó nhà kinh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan