Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở việt nam trong thời kỳ h...

Tài liệu Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở việt nam trong thời kỳ hội nhập

.PDF
125
10
119

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH THỊ NGA PHƯỢNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.50 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2010 MỤC LỤC Trang 1.1. 1.1.1. 1.1.1.1. 1.1.1.2. 1.1.2. 1.2. 1.2.1. 1.2.2. 1.2.3. 1.2.4. 1.2.5. 1.2.6. 1.3. 1.3.1. 1.3.2. 2.1. 2.1.1. 2.1.1.1. 2.1.1.2. 2.1.2. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.2.3.1. Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm Khái niệm việc làm, giải quyết việc làm Khái niệm việc làm Khái niệm giải quyết việc làm Tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm Đảm bảo quyền và nghĩa vụ lao động của công dân Nhà nước thống nhất quản lý về việc làm và giải quyết việc làm Cấm cưỡng bức, ngược đãi người lao động Bình đẳng trong lĩnh vực việc làm Ưu đãi một số đối tượng đặc thù Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động tạo ra việc làm và hỗ trợ tạo ra việc làm Lược sử quá trình hình thành và phát triển pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam Pháp luật về giải quyết việc làm thời kỳ trước khi có Bộ luật Lao động Pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm theo Bộ luật Lao động Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Thực trạng pháp luật về lao động - việc làm Thực trạng về lao động - việc làm Thực trạng nguồn lao động Hiện trạng về việc làm Thực trạng pháp luật về lao động - việc làm Thực trạng pháp luật về giải quyết việc làm ở Việt Nam Về trách nhiệm giải quyết việc làm của nhà nước Về trách nhiệm giải quyết việc làm của người sử dụng lao động Giải quyết việc làm cho lao động dặc thù Đối với lao động nữ 1 1 7 7 7 7 13 16 19 20 21 21 22 23 23 24 24 28 32 32 32 32 34 40 49 49 61 70 71 2.2.3.2. Đối với lao động là người tàn tật 2.2.4. Thực trạng pháp luật về tổ chức giới thiệu việc làm Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam 3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam 3.3. Một số kiến nghị cụ thể 3.3.1. Về các quy định của pháp luật 3.3.2. Về tổ chức thực hiện KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 2 76 81 88 88 93 97 97 106 113 116 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề, chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân". Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã xác định rõ: "Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm". Trong những năm qua, các cơ chế, chính sách về lao động - việc làm được kịp thời đánh giá, bổ sung và sửa đổi bảo đảm ngày càng thông thoáng, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập, đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường. Hệ thống các văn bản quản lý nhà nước về lao động - việc làm ngày càng hoàn thiện, nhiều luật mới ra đời và đi vào cuộc sống, nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành nhằm từng bước hoàn thiện thể chế, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trong lĩnh vực lao động - việc làm. Nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường, Nhà nước đã ban hành các chính sách 3 cho nhóm lao động yếu thế, góp phần hỗ trợ người lao động tạo việc làm, nhanh chóng ổn định cuộc sống. Hòa theo xu thế chung của thời đại, Việt Nam đã gia nhập và chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh các cơ hội, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức to lớn tác động tới việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động. Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc làm và giải quyết việc làm, đã có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này, nhưng hiện nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào khái lược một cách hệ thống, cơ bản về pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập, trên cơ sở đó đề ra phương hướng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thời kỳ hội nhập. Trong khi đó, việc nghiên cứu những bất cập, tồn tại, vướng mắc của pháp luật trong thời kỳ hội nhập để hoàn thiện pháp luật lao động, không những có ý nghĩa lý luận và còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với phát triển thị trường lao động việc làm ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý đối với việc làm bền vững cho người lao động nói riêng, sự phát triển của quốc gia nói chung. Vì những lý do nói trên, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập" làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu chung về việc làm và giải quyết việc làm, chúng ta không thể không tìm hiểu tác phẩm Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PGS. Nguyễn Hữu Dũng - PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Một số sinh viên cũng đã chọn đề tài pháp luật lao động về việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động làm khóa luận tốt nghiệp tuy nhiên đã nhiều năm trôi qua, với rất nhiều biến động và thay đổi về cơ sở lý luận và thực tiễn, kết quả nghiên cứu của khóa luận đã không còn cập nhật và phù hợp so với tình hình hiện nay. 4 Với tính chất là cơ quan chủ quản và quản lý chuyên ngành về vấn đề việc làm và giải quyết việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học cũng như tổ chức nhiều hội thảo về vấn đề này. Cụ thể như Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm các năm 2001 - 2005; Đánh giá thực trạng xây dựng và thực hiện các chính sách việc làm ở Việt Nam năm 2008; Chương trình Luận cứ khoa học xây dựng Chiến lược Việc làm Việt Nam và phát triển quan hệ lao động năm 2009; Hội thảo Chính sách việc làm, thị trường lao động và đề xuất nghiên cứu xây dựng Luật Việc làm, Hà Nội... Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm, đã có nhiều tác giả quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh. Dưới góc độ pháp luật thì cho đến nay đã có một số tác giả công bố các tác phẩm khoa học nghiên cứu một vấn đề, khía cạnh, bộ phận hay một số quy định pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm chẳng hạn như TS. Lê Thị Hoài Thu, "Vấn đề xây dựng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, 2002; PGS.TS Phạm Công Trứ, "Một số vấn đề pháp lý về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2003; ThS. Bùi Thị Kim Ngân, "Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về lao động nữ", Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3, 2004; Phạm Kim Nhuận, "Quản lý cho vay Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm của Ngân hàng chính sách xã hội và những kiến nghị", Tạp chí Lao động Xã hội, số 265, 2005; TS Nguyễn Hữu Chí, "Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển Quỹ bảo hiểm xã hội", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2006; TS. Nguyễn Hữu Chí, "Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, 2006; ThS. Phạm Trọng Nghĩa, "Pháp luật lao động trong quá trình toàn cầu hóa", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11(135), 2008; TS. Lưu Bình Nhưỡng, "Thực tiễn áp dụng Bộ luật Lao động và hướng hoàn thiện pháp luật lao động", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5(142), 2009; TS. Phạm Đình Thành, "Việc làm và chính sách thị trường lao động", Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số 2B 5 và 3A, 2009; Nguyễn Thị Thúy Vân, "Vấn đề lao động mất việc làm và chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 174, 2010; PGS.TS Phạm Công Trứ, "Cơ chế ba bên ở Việt Nam: Những ghi nhận về mặt pháp lý", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9, 2010,... Nhìn chung, để có góc nhìn tương đối khái quát, hệ thống và chi tiết về chính sách việc làm và giải quyết việc làm nói chung, pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm nói riêng, nhất là đi sâu phân tích một số vấn đề nổi bật để có phương hướng hoàn thiện đáp ứng yêu cầu hội nhập, đòi hỏi phải có nhiều hơn các công trình nghiên cứu chuyên sâu. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài này là khá mới mẻ, vừa có giá trị lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, như một sự bổ sung cần thiết vào khoa học luật lao động. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Khái quát pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm, nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm để tìm ra các vướng mắc, tồn tại, bất cập để trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật lao động đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ hội nhập. - Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là: + Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết việc làm, pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm; + Nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động về trách nhiệm của Nhà nước, của người sử dụng lao động, của tổ chức dịch vụ việc làm, việc làm cho lao động đặc thù cũng như thực trạng pháp luật trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm; + Nghiên cứu tổng quát bối cảnh hội nhập quốc tế, trong nước, cơ hội và thách thức cũng như thực trạng về việc làm, giải quyết việc làm ở Việt 6 Nam, tồn tại và bất cập của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập để làm rõ sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập; + Đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta cũng như những quy định pháp luật trong lĩnh vực việc làm và giải quyết việc làm. Ngoài ra, luận văn vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Hơn nữa trong quá trình nghiên cứu, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh, đối chiếu để giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra. 5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về việc làm và giải quyết việc làm, đặc biệt là các quy định của pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm của Việt Nam, trên cơ sở tham khảo pháp luật lao động của một số nước trên thế giới. Với các nội dung cụ thể của pháp luật về việc làm và giải quyết việc làm, theo tác giả sẽ còn được nghiên cứu trong những công trình khoa học tiếp theo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Cách tiếp cận của đề tài và hướng nghiên cứu của đề tài có những đóng góp nhất định vào việc nghiên cứu pháp luật lao động về việc làm và giải quyết việc làm, nhất là trong thời kỳ hội nhập. - Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu phục vụ và nghiên cứu cho sinh viên, học sinh. 7 - Kết quả nghiên cứu cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, những nhà hoạch định chính sách và những ai quan tâm. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về việc làm và giải quyết việc làm. Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về việc làm và giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập. 8 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM 1.1. Quan niệm việc làm và giải quyết việc làm 1.1.1. Khái niệm việc làm, giải quyết việc làm 1.1.1.1. Khái niệm việc làm Bất cứ một sinh vật nào, muốn tồn tại buộc phải tiến hành những hoạt động nhằm tạo ra và đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất đối với bản thân và cộng đồng. Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trọng nhất của thế giới sinh vật nói chung và loài người nói riêng. Không chỉ đóng vai trò duy trì cuộc sống con người, hoạt động kiếm sống còn là cơ sở để cải tạo con người, cải biến con người từ những sinh vật hoang dã thành những thành viên của xã hội, làm hình thành xã hội và phát triển xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ hơn. Hoạt động kiếm sống của con người được gọi chung là việc làm. Việc làm gắn liền với nhu cầu mưu sinh của mỗi cá nhân, là một trong những vấn đề có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của một đất nước. Tăng việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp là một trong những biện pháp tốt nhất để từng bước ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, đảm bảo sự phát triển bền vững. Để nghiên cứu về vấn đề việc làm, trước hết chúng ta cần tìm hiểu về khái niệm việc làm và các khái niệm có liên quan. Bởi lẽ, hệ thống khái niệm sẽ là cơ sở để xác định chuẩn xác về tỷ lệ người có việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp, từ đó, hoạch định chính sách, tìm giải pháp tác động, hướng dẫn và điều tiết thị trường lao động trong nước, khu vực và trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới, có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm, tùy theo các cách tiếp cận khác nhau: Hiểu theo nghĩa thông thường thì việc làm là công việc được giao cho làm và được trả công. 9 Dưới góc độ quan hệ sản xuất không phụ thuộc vào mục đích việc làm thì "việc làm là một quan hệ sản xuất nảy sinh do có sự kết hợp giữa cá nhân người lao động với các phương tiện sản xuất" - Theo Gôrêlốp. Nếu chú trọng mục đích của việc làm thì việc làm luôn gắn với tiền lương do vậy việc làm được định nghĩa "như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật do có sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất" - Theo Giang Mute. Theo Guy Hân-tơn: "Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế xã hội; nghĩa là tất cả những gì liên hệ đến cách thức kiếm sống của con người kể cả các quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế" [38]. Chính vì vai trò và tính chất phức tạp của vấn đề việc làm mà tại hội nghị thống kê lao động quốc tế lần thứ 8 năm 1945 ở Giơnevơ và trong khuyến nghị về thống kê lao động quốc tế năm 1975, vấn đề việc làm đã được đưa ra. Nhưng người ta chỉ định nghĩa về người có việc làm, đó là những người thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Người đang làm một việc được trả công trong một thời gian ngắn, có thể là một tuần lễ, một ngày. - Người đã có chỗ làm việc nhưng có thời gian không đi làm, tạm thời vắng mặt trong một thời gian nhất định do ốm đau, tai nạn, tạm nghỉ việc do tranh chấp lao động hoặc các lý do khác. Hiện nay, theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Khi đó, việc làm được phân thành hai loại: Có trả công (những người làm thuê, học việc…) và không được trả công nhưng vẫn có thu nhập (giới chủ làm kinh tế gia đình…). Vì vậy, việc làm được coi là hoạt động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm có thu nhập bằng tiền (hoặc bằng hiện vật). Những người có việc làm là những người làm một việc gì đó có được trả công, lợi nhuận, được 10 thanh toán bằng tiền hoặc hiện vật, hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập của gia đình, không được nhận tiền công (hiện vật). Có thể xem xét việc làm ở hai trạng thái "động" và "tĩnh". Ở trạng thái "động" việc làm là hoạt động của mọi tầng lớp dân cư nhằm tạo ra những thu nhập có lợi cho cá nhân, cho cộng đồng trên cơ sở những quy định của pháp luật. Việc làm luôn là hoạt động có mục đích của con người, là hình thức vận dụng sức lao động kết hợp với các yếu tố vật chất, kỹ thuật trong xã hội và được tiến hành trong một không gian và thời gian nhất định. Còn ở trạng thái "tĩnh" việc làm dùng để chỉ nhu cầu sử dụng sức lao động cùng các yếu tố vật chất - kỹ thuật khác nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoặc mang lại những kết quả có ích cho cá nhân, cho cộng đồng. Như vậy, việc làm là tổng thể các hoạt động kinh tế được thực hiện dựa vào "sự cho phép" của pháp luật có liên quan đến đối tượng, đến sự thu nhập của dân cư trong xã hội. Đồng thời, trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, ILO còn khuyến cáo và đề cập tới việc làm nhân văn hay việc làm bền vững, theo đó khái niệm việc làm gắn với các tiêu chí đó là: Việc làm năng suất (nhằm đảm bảo cho người lao động có điều kiện sinh sống ở mức chấp nhận được); Bình đẳng trong công việc (người lao động phải được đối xử bình đẳng và công bằng về cơ hội việc làm); An toàn tại nơi làm việc (người lao động cần được giúp đỡ, bảo vệ, bảo đảm sức khỏe, các chế độ hưu trí và sinh sống); Bảo đảm nhân phẩm tại nơi làm việc (người lao động cần được tôn trọng tại nơi làm việc và được tham gia vào quá trình ra các quyết định liên quan đến điều kiện làm việc). Theo chúng tôi, đây là một khái niệm rất cần thiết để Việt Nam tham khảo và hướng đến. Ở Việt Nam, khái niệm việc làm đã được quy định tại Điều 13 Bộ luật Lao động như sau: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". 11 Như vậy, dù được hiểu theo nhiều quan niệm khác nhau, nhưng có thể thấy khái niệm việc làm bao gồm hai nội dung có tính điều kiện: Nội dung thứ nhất đề cập việc làm là hoạt động lao động của con người tạo ra nguồn thu nhập (điều kiện cần). Các hoạt động này thể hiện việc làm luôn luôn gắn với thu nhập. Những hoạt động không mang lại thu nhập thì không được coi là việc làm. Việc làm phải được coi là một phương kế kiếm sống, là một hoạt động mà qua đó người ta được trả công (bằng tiền hoặc hiện vật) và sống nhờ vào khoản tiền đó. Nội dung thứ hai đề cập hoạt động ấy không bị pháp luật cấm (điều kiện đủ). Nếu hoạt động lao động chỉ thỏa mãn điều kiện thứ nhất, thì dưới góc độ pháp lý vẫn chưa đủ để coi là việc làm. Có những hoạt động tuy tạo ra thu nhập, thậm chí rất cao nhưng không được coi là việc làm vì vi phạm điều kiện thứ hai này như hoạt động buôn bán ma túy, chế tạo, buôn bán pháo... Đây là một quan niệm mới về việc làm so với thời kỳ bao cấp của Việt Nam trước đây. Việc quy định khái niệm về việc làm theo Điều 13 Bộ luật Lao động đã làm thay đổi một cách căn bản vấn đề nhận thức về việc làm: trước đây người ta cho rằng chỉ có làm việc trong khu vực nhà nước, khu vực kinh tế tập thể mới được gọi là có việc làm, không thừa nhận là có việc làm khi hoạt động ở các lĩnh vực khác; nhưng đến nay, với quan niệm này thì người lao động đã đứng vào vị trí trung tâm, năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác, ở tất cả các thành phần kinh tế, không thụ động, trông chờ ỷ lại vào sự bố trí việc làm của Nhà nước. Do vậy, căn cứ vào trong tình hình thực tiễn của Việt Nam hiện nay, quan niệm này là tương đối đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên, có quan điểm cho rằng đây là một quan niệm, "chưa phải là một định nghĩa hoặc khái niệm đầy đủ về việc làm" [70]. Nó phù hợp với thực tiễn Việt Nam đang ở giai đoạn thấp của sự phát triển, trong tương lai cần có một định nghĩa chuẩn, chất lượng hơn về việc làm. Vì vậy, trong thời kỳ hội nhập, theo chúng tôi, để đưa ra được khái niệm chính xác hơn về việc làm, cần tìm hiểu thêm về các khái niệm có 12 liên quan mật thiết như thất nghiệp, thiếu việc làm, người có việc làm, người thất nghiệp… Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, khu vực nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm đến người lao động từ đầu đến cuối. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm, lao động dư thừa, việc làm không đầy đủ. Chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, quan niệm về việc làm thay đổi một cách căn bản, từ đó các khái niệm có liên quan cũng được hiểu chính xác và đầy đủ hơn, góp phần thống nhất các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh giá và thông tin về tình trạng việc làm và thất nghiệp. Trên cơ sở vận dụng quan niệm việc làm của ILO và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, có thể đưa ra khái niệm người có việc làm như sau: "Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề đang hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội" [17]. Với khái niệm này, sẽ làm cho nội dung của việc làm được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Còn về khái niệm thất nghiệp cũng có nhiều quan điểm khác nhau nhưng theo chúng tôi, thất nghiệp thể được hiểu là "hiện tượng xã hội phản ánh tình trạng toàn bộ số người có khả năng lao động, ở độ tuổi do pháp luật quy định mà không có việc làm hoặc đang tìm việc làm mà không có thu nhập nên Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ" [60]. Với cách tiếp cận này, trong pháp luật nên thể hiện quan điểm thất nghiệp là "hiện tượng những người lao động bị mất việc làm, có nhu cầu lao động và đang tích cực tìm việc" [60]. Trong khái niệm thất nghiệp, cũng cần lưu ý có các loại đối tượng chưa làm việc bao giờ (thanh niên mới bước vào tuổi lao động nhưng chưa có việc làm) và mất việc, chờ lao động, lao động dư thừa... 13 Khái niệm thiếu việc làm theo Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung được hiểu là: trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là "tình trạng có việc làm, nhưng do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người lao động, họ phải làm việc không hết thời gian theo luật định, hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống, muốn tìm thêm việc làm bổ sung" [17]. Dưới giác độ của thị trường lao động, khái niệm người thất nghiệp được định nghĩa rất khác nhau ở mỗi nước. Theo chúng tôi, dưới góc độ pháp lý, "Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, hiện đang không có việc làm và đang đi tìm việc làm" [60]. Mặt khác, cũng cần phân biệt giữa người không làm việc và người thất nghiệp. Về vấn đề này, chúng tôi tán thành với ý kiến của Đỗ Năng Khánh: khái niệm "người không làm việc" rộng hơn khái niệm "người thất nghiệp". Trong số người không làm việc có thể bao gồm cả người thất nghiệp. Người không làm việc bao gồm cả những người có khả năng lao động, trong độ tuổi lao động nhưng lại không có nhu cầu tìm việc làm. Cũng cần lưu ý rằng, khi phân tích những khái niệm trên, chúng ta mới chỉ tính đến đối tượng nằm trong lực lượng lao động và trong độ tuổi lao động. Theo kinh nghiệm của thế giới, để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, mỗi quốc gia phải lập sơ đồ lực lượng lao động riêng của mình. Việt Nam có thể vận dụng kinh nghiệm quốc tế, nhưng có thể lấy tuổi giới hạn "từ 15 đến 55 đối với nữ và 15 đến 60 đối với nam" [17]. Song do đặc điểm của Việt Nam, người có nhu cầu việc làm ngoài tuổi lao động rất lớn để đảm bảo đời sống của bản thân và gia đình. Vì vậy để hoạch định chính sách về việc làm cần thiết phải nghiên cứu đối tượng này (hưu trí, lao động vị thành niên, người già, người tàn tật...). Từ những phân tích ở trên, trong thời kỳ hội nhập cần phải có một khái niệm về việc làm phù hợp hơn, theo đó, khái niệm việc làm có thể hiểu là hoạt động lao động của con người nhằm mục đích tạo ra thu nhập và hoạt 14 động này không bị pháp luật cấm, đồng thời mục tiêu xã hội cần hướng tới là việc làm bền vững hay là việc làm nhân văn cho mọi người. Đồng thời, cần quy định rõ những khái niệm có liên quan đến việc làm như thất nghiệp, người thất nghiệp, thiếu việc làm... 1.1.1.2. Khái niệm giải quyết việc làm Cùng với việc làm, giải quyết việc làm là vấn đề quan trọng, thậm chí là rất quan trọng. Bởi vì rằng, nó không chỉ thuộc bình diện kinh tế - xã hội, mà còn thuộc bình diện chính trị - pháp lý. Hơn nữa, giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề bức xúc trước mắt, mà còn là vấn đề chiến lược lâu dài; không chỉ đối với một quốc gia mà còn mang tính quốc tế nóng bỏng, tính toàn cầu sâu sắc. Có thể hiểu giải quyết việc làm gắn liền với quá trình tạo việc làm. Thực chất của tạo việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất, cả về số lượng và chất lượng. Hay nói cách khác những điều kiện về sức lao động và tư liệu sản xuất mới tồn tại như là một khả năng để tạo việc làm, muốn biến khả năng này thành hiện thực (việc làm), phải có môi trường thuận lợi cho sự kết hợp hai yếu tố này. Tuy sức lao động và tư liệu sản xuất kết hợp với nhau trong điều kiện nhất định mới tạo ra việc làm song việc làm có được duy trì hay không thì lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả năng quản lý, thị trường... Thực tế cho thấy khi không có thị trường hoặc trình độ quản lý yếu kém thì nhiều việc làm được tạo ra nhưng không duy trì được. Do vậy, tạo việc làm là một quá trình mà trong đó, việc tạo ra chỗ làm việc và thu hút lao động vào làm việc mới chỉ là khâu đầu tiên của quá trình đó. Chính vì vậy, để có thể khái quát một cách đầy đủ về tạo việc làm cần phải hiểu tạo việc làm là một quá trình mà làm sao để kết hợp được hai yếu tố về sức lao động và tư liệu sản xuất, tức là phải tạo ra được những điều kiện cần thiết để hai yếu tố này phù hợp với nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển, ở đây bao gồm các hoạt động: 15 Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất: số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào vốn đầu tư và tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó. Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động: Số lượng của lao động phụ thuộc vào quy mô của dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di chuyển của lao động. Chất lượng của lao động phụ thuộc vào sự phát triển về y tế, thể thao và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Ba là, hình thành môi trường thuận lợi cho sự kết hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Môi trường cho sự kết hợp hai yếu tố này bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách khuyến khích, thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích đầu tư v.v... Bốn là, thực hiện các các giải pháp nhằm duy trì việc làm ổn định và có hiệu quả cao. Các giải pháp có thể kể tới trong nhóm này là các giải pháp về quản lý điều hành, về thị trường các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất, các biện pháp khai thác có hiệu quả các nguồn lực, duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiệm quản lý của người sử dụng lao động... Bốn khâu này có liên quan chặt chẽ với nhau và hễ trục trặc ở một khâu nào là ảnh hưởng tới tạo việc làm. Giải quyết việc làm là vấn đề kinh tế - xã hội tổng hợp và phức tạp không chỉ là vấn đề "kinh tế" hay "xã hội" đơn thuần. Vì vậy, nó phải được hiểu theo nội dung mới, bao hàm cả phạm vi rộng và phạm vi hẹp. Trên phạm vi rộng, giải quyết việc làm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Tức là quá trình đó diễn ra bắt nguồn từ vấn đề giáo dục, đào tạo và phổ cập nghề, chuẩn bị cho người lao động bước vào cuộc đời lao động (lập thân lập nghiệp), đến vấn đề tự do lao động và hưởng thụ xứng đáng giá trị mà lao 16 động sáng tạo ra, cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Với nội dung này, vấn đề giải quyết việc làm gắn rất chặt và được thực hiện thông qua các chương trình phát triển kinh tế. Do đó, giải quyết việc làm theo nghĩa này mang nội dung kinh tế là chính. Việc sử dụng lao động được hướng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và trở thành yếu tố của tăng trưởng kinh tế. Công nghệ được lựa chọn ở đây là công nghệ ở tầng cao, công nghệ mũi nhọn, sử dụng lao động kỹ thuật cao để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Còn theo nghĩa hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp (chống thất nghiệp), khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. Tức là, chỉ giới hạn nội dung giải quyết việc làm trong khuôn khổ và phạm vi của chính sách xã hội. Ở đây mục tiêu của việc làm là để giải quyết vấn đề xã hội, góp phần ổn định và an toàn xã hội. Với nội dung này, giải quyết việc làm được tách khỏi chương trình phát triển kinh tế và hình thành chương trình việc làm quốc gia, như là một chương trình xã hội có mục tiêu. Công nghệ được lựa chọn trường hợp này chủ yếu là công nghệ thích hợp, công nghệ sử dụng nhiều lao động. Tất nhiên, giải quyết việc làm theo phạm vi rộng và hẹp trên đây có quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và đan xen vào nhau, đều hướng vào mục tiêu hàng đầu là sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội. Song xét về mặt xã hội, đối tượng giải quyết việc làm mà chúng ta cần đặc biệt quan tâm chính là những người lao động do hậu quả của lựa chọn và áp dụng công nghệ tầng cao gây nên (lao động dôi dư, bị sa thải, rơi vào tình cảnh thất nghiệp) và những người chưa có việc làm, cũng như hiệu quả việc làm kém, thu nhập thấp. Tức là nhấn mạnh tính chất xã hội, khía cạnh xã hội của nó, để không dẫn đến những điểm nóng, điểm gay cấn về mặt xã hội. Từ sự phân tích trên chúng ta có thể hiểu khái quát về giải quyết việc làm như sau: Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm cho mọi người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, đang có nhu cầu tìm việc làm với mức tiền công thịnh hành trên thị trường đều có cơ hội làm việc. 17 1.1.2. Tầm quan trọng của việc làm và giải quyết việc làm Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao động lớn như Việt Nam. Giải quyết việc làm cho người lao động trong sự phát triển của thị trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi thế để phát triển, tiến kịp khu vực và thế giới. Về mặt kinh tế, việc làm và giải quyết việc làm là vấn đề được đặt ra ở nhiều quốc gia, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với một bộ phận dân cư, những người thiếu việc làm và thất nghiệp mà quan trọng hơn, nó tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xét về mặt kinh tế, thất nghiệp gắn rất chặt với nghèo đói. Tỷ lệ thất nghiệp cao không những gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế mà còn gây khó khăn cho cuộc sống cá nhân người lao động. Những người thất nghiệp tuy không sản xuất ra sản phẩm, nhưng vẫn phải tiêu dùng một lượng hàng hóa nhất định, đặc biệt ở độ tuổi trưởng thành, mức tiêu dùng thường lớn hơn độ tuổi khác. Nếu, số người thất nghiệp đó được làm việc họ sẽ tạo ra một lượng giá trị tối thiểu mà họ tiêu dùng, thì mỗi năm Nhà nước sẽ không phải thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng do thất nghiệp gây nên (chẳng hạn, phải chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp…). Thất nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của những người thất nghiệp. Họ phải sống nhờ vào nguồn thu nhập của những người khác trong gia đình hoặc xã hội (nếu nhà nước có trợ cấp thất nghiệp) và hơn nữa đôi khi họ là những người chủ trong gia đình, nguồn thu nhập của họ ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế gia đình. Ở Việt Nam hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động trước hết sẽ tạo điều kiện để khai thác được tối đa những nguồn lực quan trọng còn đang tiềm ẩn như tài nguyên vốn, ngành nghề.... thông qua lao động của con 18 người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập cho bản thân họ và từ đó tạo ra tích lũy, Nhà nước không những không phải chi trợ cấp cho những người không có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ, họ có thể mang lại tích lũy cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích lũy sẽ giúp cho sản xuất được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung, tăng tiêu dùng sẽ làm cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích sự phát triển của sản xuất, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế, thu hút thêm nhiều lao động. Mặt khác, khi người lao động có thu nhập, họ sẽ tăng tiêu dùng, từ đó làm tăng sức mua của toàn xã hội. Nước ta luôn tồn tại tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm nghiêm trọng, đại bộ phận dân cư có mức sống thấp, nhiều người lao động cần có việc làm hoặc việc làm hiệu quả hơn. Giải quyết việc làm ở Việt Nam trong tình trạng hiện nay có một ý nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và nâng cao thu nhập quốc dân. Về mặt chính trị - xã hội, việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề mang tính xã hội. Mỗi con người khi trưởng thành đều có nhu cầu và mong muốn làm việc, đó là nhu cầu chính đáng và cũng là quyền lợi của người lao động. Chính vì vậy, giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động có ý nghĩ rất lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Khi Chính phủ có chính sách tạo việc làm thỏa đáng, điều đó sẽ đem đến sự công bằng trong xã hội, tạo công ăn việc làm cho tất cả lao động. Khi mà mọi người lao động có thu nhập, họ không phải lo ăn bám, hạn chế được sự phân hóa giàu nghèo, tệ nạn xã hội có thể giảm bớt. Ngược lại, nếu không giải quyết tốt việc làm cho người lao động, hiện tượng thất nghiệp và thiếu việc làm sẽ tăng lên. Điều này luôn gắn liền với sự gia tăng các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, ma túy... làm rối loạn trật tự an ninh xã hội, tha hóa nhân phẩm người lao động. Thất nghiệp ở mức cao còn gây ra sự bất ổn định về kinh tế và chính trị, có khi nó còn là tác nhân gây ra sự sụp đổ của cả một thể chế, làm mất niềm tin của người dân đối với Nhà nước và các chính Đảng. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan