Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của hải quan việt nam hiện nay qua t...

Tài liệu Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của hải quan việt nam hiện nay qua thực tiễn tỉnh thừa thiên huế

.PDF
112
6
73

Mô tả:

MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................... 4 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn ............................................................. 5 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 5 6. Những điểm mới của luận văn ...................................................................... 6 7. Ý nghĩa của luận văn ..................................................................................... 6 8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM ....................................................................... 7 1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM ........................................................... 7 1.1.1. Vị trí, vai trò về tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan ................... 7 1.1.2. Những đặc trưng về tổ chức và hoạt động của Hải quan............................... 8 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN ...... 14 1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa ................................................... 14 1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan.................................................................... 19 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM, THỰC TIỄN Ở THỪA THIÊN HUẾ ......................... 25 2.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ TỪ 1990 ĐẾN NAY ....................................................... 25 2.1.1. Khái quát về tổ chức hải quan Huế ....................................................... 25 2.1.2. Khái quát về hoạt động hải quan Huế ................................................... 31 2.2. THỰC TRẠNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC CỦA HẢI QUAN HUẾ NÓI RIÊNG VÀ HẢI QUAN VIỆT NAM NÓI CHUNG TỪ 1990 ĐẾN NAY ............ 50 2.2.1. Giai đoạn từ 1990 đến 2001 .................................................................. 50 2.2.2. Giai đoạn từ 2001 đến nay .................................................................... 57 2.3. THỰC TRẠNG PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ TỪ 1990 ĐẾN NAY ............. 60 2.3.1. Giai đoạn từ 1990 đến 2001 .................................................................. 61 2.3.2. Giai đoạn từ 2001 đến nay .................................................................... 63 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ HIỆN NAY .................................................. 71 3.1. YÊU CẦU BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ ....... 71 3.1.1. Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế ........................................................................................ 72 3.1.2. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan Huế phải đáp ứng yêu cầu cải cách thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước ......................................... 74 3.1.3. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của hải quan Huế phải đáp ứng các yêu cầu mục tiêu phát triển, hiện đại hóa hải quan .......... 75 3.1.4. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan Huế phải đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng hải quan chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả ................................................................. 76 3.1.5. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan Huế phải đảm bảo yêu cầu phát triển sự hợp tác kinh tế, đầu tư, giao lưu quốc tế ................................................................................................... 78 3.1.6. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động hải quan Huế phải đảm bảo yêu cầu thu đủ ngân sách nhà nước, tạo thuận lợi cho thương mại, xuất nhập cảnh, du lịch......................................... 79 3.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN HUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................................... 81 3.2.1. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế trong tổ chức và hoạt động của hải quan Huế................................................................................... 81 3.2.2. Đổi mới, hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của hải quan Huế ......................................................................................... 85 3.2.3. Tăng cường sự giám sát, kiểm tra, kiểm soát của các thiết chế quyền lực công cộng đối với tổ chức và hoạt động của hải quan Huế ............... 89 3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra sự tuân thủ pháp luật về tổ chức và hoạt động của hải quan Huế .................................................... 93 3.2.5. Nâng cao năng lực tổ chức và hoạt động của hải quan các cấp ............ 96 3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao trình độ văn hóa, năng lực áp dụng pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hải quan Huế........................................................................ 99 KẾT LUẬN .................................................................................................. 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) có từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga. V.I.Lê-nin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó đã làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật. Khái niệm pháp chế: “Pháp chế XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lý theo pháp luật”. Trên cơ sở hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải quan không ngừng được xây dựng, hoàn thiện. Từ Pháp lệnh Hải quan 1990, Luật Hải quan 2001 đến Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 26/5/2005, tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế ngày càng đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, góp phần thúc đẩy hội nhập nền kinh tế và đảm bảo an ninh chính trị, kinh tế, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo nguồn thu ngân khố quốc gia; đồng thời, góp phần củng cố, tăng cường pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam nói chung và Hải quan Huế nói riêng hiện nay. Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan không ngừng được tăng cường nhằm bảo đảm cho pháp luật hải quan đi vào đời sống kinh tế - xã hội và được tuân thủ nghiêm chỉnh. Hàng loạt vụ buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế xuất nhập khẩu được phát hiện và xử lý kịp thời; góp phần quan trọng cho việc thu ngân sách nhà nước và giữ gìn an ninh kinh tế, chính trị, trật tự an toàn xã hội. 1 Tuy nhiên, pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế còn nhiều tồn tại không ít những yếu kém, khiếm khuyết, như: - Việc áp dụng hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt nam vẫn còn có nhiều bất cập, thiếu tính ổn định, thiếu tính khả thi, chưa phù hợp, đáp ứng kịp thực tiễn đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Công tác rà soát, góp ý việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hải quan vẫn còn thiếu chủ động, chưa trở thành yếu tố góp phần tích cực vào việc hoàn thiện, đổi mới cơ cấu tổ chức, hoạt động hải quan. - Sự tuân thủ pháp luật và chấp hành pháp luật hải quan của một bộ phận cán bộ, công chức hải quan và tổ chức, cá nhân hoạt động xuất nhập khẩu vẫn còn không nghiêm dẫn đến phát sinh tiêu cực, phiền hà, tham nhũng, gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo rút "ruột" ngân sách nhà nước... điều này tác động không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, kinh tế đối ngoại, đầu tư, du lịch, gây mất lòng tin của Đảng, Nhà nước, nhân dân đối với hệ thống tổ chức và hoạt động của Hải quan. - Cơ chế đảm bảo cho việc tuân thủ và chấp hành nghiêm minh pháp luật, pháp chế hải quan còn thiếu rõ ràng, minh bạch, chưa hiệu quả, cũng như chưa đủ tính cưỡng chế đảm bảo duy trì việc tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, liên tục và đồng bộ... Vì các lý do trên tôi chọn đề tài: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp chế XHCN là một trong những phạm trù pháp lý cơ bản có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. 2 Vì vậy được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, xem xét trên nhiều bình diện và nhiều khía cạnh khác nhau. Các công trình nghiên cứu về pháp chế XHCN tiêu biểu cả trong và ngoài nước có thể chia thành hai nhóm: Nhóm một là các công trình nghiên cứu về pháp chế nói chung: Đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế XHCN đề cập đến những vấn đề lý luận chung về pháp chế như khái niệm các mối quan hệ, nguyên tắc của pháp chế XHCN. Điều đó được thể hiện ở một số công trình khoa học như: - GS.TS Trần Ngọc Đường, Suy nghĩ về một trong những luận điểm của V.I.Lênin, Dân chủ và pháp luật, số 11, Hà Nội, 1997, tr.2-3. - Hồ Chủ tịch và pháp chế, TP. Hồ Chí Minh, Nxb Hội Luật gia Việt Nam, 1985, 266 trang. Sách giới thiệu những nội dung tư tưởng và yêu cầu của pháp chế của Hồ Chí Minh. - Triệu Tử Bình (Trung Quốc), Học tập quán triệt văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XVI - "Nghiên cứu sâu sắc Luật học, đẩy mạnh xây dựng nền pháp chế toàn diện", Tạp chí Luật học Trung Quốc số 1/2006 Bắc Kinh, Nxb Tạp chí Luật học Trung Quốc. Võ Khánh Vinh: "Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức thể hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1991; Hoàng Văn Hảo: "Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân chủ và pháp chế trong quá trình đổi mới ở nước ta", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/1992; Đào Trí Úc: "Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh tuân theo và chấp hành pháp luật", Tạp chí Cộng sản, số 3/1995... Nhóm hai là các công trình tiêu biểu nghiên cứu pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể gồm có: 3 - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ luật học của Nguyễn Phùng Hồng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1994; - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa về kinh tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận án Phó tiến sĩ Luật học của Quách Sĩ Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; - "Tăng cường pháp chế trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001; - "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ Luật học của Nguyễn Chí Dũng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2003... Các công trình đều đưa ra khái niệm pháp chế XHCN nói chung và khái niệm, đặc trưng vai trò và giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên từng lĩnh vực cụ thể. Từ tình hình nghiên cứu trên cho thấy, đến nay chưa có công trình khoa học nào trực tiếp nghiên cứu “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế”. Mặc dù vậy, các công trình đã công bố nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và viết hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Về đối tượng nghiên cứu của luận văn: trên cơ sở nghiên cứu pháp chế XHCN, luận văn nghiên cứu đặc điểm và nội dung vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt nam. 4 Nghiên cứu thực trạng, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế. Luận giải các giải pháp nhằm bảo đảm vai trò pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế. Thời gian từ năm 1990 đến nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu Luận văn có mục đích nghiên cứu là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng pháp chế XHCN trong lĩnh vực Hải quan Huế, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế hiện nay. * Nhiệm vụ của luận văn Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên nhiệm vụ của luận văn là: - Xây dựng khái niệm, đặc trưng của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của Hải quan. - Phân tích vai trò của pháp chế XHCN trong tổ chức hoạt động của Hải quan. - Phân tích các yêu cầu đảm bảo pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế hiện nay. - Đề xuất giải pháp đảm bảo pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật và pháp chế XHCN. 5 - Phương pháp nghiên cứu: dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, kết hợp với phương pháp xã hội học, thống kê, so sánh. 6. Những điểm mới của luận văn Là luận văn nghiên cứu tương đối toàn diện và hệ thống "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của Hải quan Việt Nam hiện nay - qua thực tiễn tỉnh Thừa Thiên - Huế”. Vì vậy, có những điểm mới cụ thể sau: - Xác định khái niệm, nội dung pháp chế trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế. - Chỉ ra được những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của những ưu điểm, tồn tại về pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế hiện hành. - Xác lập hệ thống giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo pháp chế XHCN trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế. 7. Ý nghĩa của luận văn - Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về pháp chế XHCN trong lĩnh vực cụ thể. - Về thực tiễn: Kết quả luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan ban ngành, các trường học và những người quan tâm đến lĩnh vực này. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 mục. Chương 1: Cơ sở lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Việt Nam Chương 2: Thực trạng pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của Hải quan Huế hiện nay 6 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM 1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ ĐẶC TRƯNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM 1.1.1. Vị trí, vai trò về tổ chức và hoạt động của ngành Hải quan Khi nền kinh tế thị trường phát triển, bên cạnh chức năng thu tiền cho ngân sách nhà nước từ các hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các quốc gia, Hải quan được giao nhiều chức năng mới, quan trọng nhất là bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích quốc gia". Đến khi, nền thương mại toàn cầu và giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng phát triển, đòi hỏi các quốc gia và lãnh thổ trên thế giới phải tìm cách hợp tác với nhau, nhằm tiêu chuẩn, đơn giản và thống nhất hoá các thủ tục, luật lệ hải quan, tạo thuận lợi cho thương mại, và có hiệu quả hơn trong phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại; phòng, chống vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngày nay hầu hết các quốc gia có chủ quyền hoặc lãnh thổ tự trị đều thiết lập ra tổ chức hải quan của mình để kiểm soát hàng hoá. phương tiện xuất- nhập khẩu, xuất- nhập cảnh, quá cảnh qua biên giới, thu thuế và thu khác cho ngân khố của quốc gia, lãnh thổ tự trị đó. Hệ thống luật lệ của các nước đều xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nội dung hoạt động cũng như cơ cấu, tổ chức hải quan của Nhà nước đó. Trong đời sống chính trị, kinh tế-xã hội quốc gia, vị trí, vai trò của Hải quan các tỉnh, liên tỉnh, thành phố nói chung và Hải quan Huế nói riêng được thể hiện chủ yếu ở những phương diện sau đây: Một là, Tổ chức Hải quan là một công cụ quan trọng trong việc bảo hộ, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá trong nước. Thông qua hàng rào phi thuế quan để kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ hàng hoá, phương tiện 7 xuất - nhập khẩu, xuất - nhập cảnh, quá cảnh; đấu tranh, ngăn chặn, đấu tranh mạnh mẽ với các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ,... qua biên giới. Tổ chức Hải quan đã góp phần đảm bảo cho nền kinh tế ổn định, bảo hộ sản xuất, tiêu dùng trong nước. Mặt khác, Tổ chức Hải quan đã trở thành công cụ quan trọng trong việc bảo vệ hàng rào thuế quan góp phần vào điều tiết các hoạt động kinh tế mỗi quốc gia. cũng như thông qua thu, nộp thuế đã góp phần không nhỏ vào nguồn tài chính tạo lên quốc khố. Hai là, tổ chức Hải quan và hoạt động của Hải quan được xác định là một trong những công cụ góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi nước. Vai trò này của Hải quan được thể hiện ở những hoạt động phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật lĩnh vực hải quan, đảm bảo các quy tắc quản lý nhà nước về hải quan được tôn trọng, bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hoá, an toàn vệ sinh - dịch tễ môi trường, sức khoẻ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, kịp thời ngăn chặn những hành động đe doạ lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của người kinh doanh. Ba là, tổ chức Hải quan, hoạt động hải quan góp phần quan trọng đáng kể vào việc cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài, thúc đẩy và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của mỗi quốc gia. Bởi vì, thông qua việc xây dựng, ban hành, thực thi luật lệ, chính sách hải quan có liên quan đến đầu tư nước ngoài, Tổ chức Hải quan và hoạt động hải quan ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư nước ngoài... 1.1.2. Những đặc trưng về tổ chức và hoạt động của Hải quan Hải quan Việt nam là một thiết chế của Nhà nước. Thiết chế này được thành lập để trực tiếp quản lý nhà nước các hoạt động hải quan, là cơ quan có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền thực hiện hoạt động hải quan theo các quy định của hệ thống pháp luật. Địa vị pháp lý Hải quan được xác định trong nhiều văn 8 bản pháp luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam. Trước hết được ghi nhận ở trong các văn bản pháp luật quan trọng, như: Luật Hải quan 2001 và Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hải quan ngày 26/5/2005, Nghị định số 96/2002/NĐ-CP ngày của Chính phủ và Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg ngày 4-9-2002 của Thủ tướng Chính phủ; đây là những văn bản xác định đặc trưng chủ yếu địa vị pháp lý của hải quan Việt Nam. Bên cạnh các văn bản này, địa vị pháp lý của Hải quan còn được khẳng định trong hàng loạt văn bản thuộc hệ thống văn bản pháp luật quản lý nhà nước lĩnh vực chuyên ngành khác có liên quan, như các luật thuế về hàng hoá xuất - nhập khẩu, Luật Thương mại và các văn bản chi tiết thi hành, Bộ luật Tố tụng hình sự Pháp lệnh điều tra hình sự, các văn bản pháp luật quy định về xử lý, tố tụng hành chính,... - Vị trí, vai trò và hệ thống tổ chức của ngành Hải quan Hiện nay, theo Luật Hải quan, "Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên". Mặt khác, Tổng cục Hải quan là cơ quan thuộc Bộ Tài chính; song Bộ Tài chính là thành viên Chính phủ và Chính phủ lại được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Mặt khác, cũng cần phải thấy một cách rõ ràng là: vị trí pháp lý đặc biệt của Hải quan Việt nam mặc dù được hình thành trên cơ sở nguyên tắc tập trung thống nhất, nhưng không phải là biệt lập, đóng kín, mà chỉ có tính độc lập tương đối, nó bị giám sát bởi các cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương trong vai trò là các cơ quan kiểm tra, giám sát các cơ quan hành pháp, hành chính nhà nước; và có mối quan hệ phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành khác để thực hiện các chức năng quản lý nhà nước; mối quan hệ phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong hoạt động phòng, 9 chống buôn lậu, gian lận thương mại trên địa bàn khu vực thuộc địa giới hành chính của từng địa phương. - Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan Việt nam. Thứ nhất, Thực hiện thủ tục Hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, chuyển cửa khẩu, quá cảnh và phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh theo quy định của pháp luật . Đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu nhất, nói lên bản chất vai trò của Hải quan trong nền kinh tế (nói chung), kinh tế đối ngoại nói riêng. Nhiệm vụ này đã được ngành Hải quan chú trọng thực hiện, nói lên ý nghĩa sâu sắc: Hải quan là công cụ "gác cửa", "mở cửa", ngăn chặn đẩy lùi làn gió độc" để đến với thế giới, đón thế giới đến với Việt Nam; là tuyến đầu trên mặt trận an ninh kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo hộ sản xuất trong nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thứ hai, Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để chủ động phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trong phạm vi địa bàn hoạt động. Phối hợp thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới ngoài phạm vi địa bàn hoạt động của Cục Hải quan theo quy định của pháp luật và Tổng cục Hải quan. Thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, không chỉ thời đại ngày nay mới có buôn lậu vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới, mà hoạt động này đã phát sinh cùng với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá của xã hội loài người. Thứ ba, Thực hiện Pháp luật về thuế và thu khác đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; đảm bảo thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời vào ngân sách nhà nước . Nhiệm vụ này đã được ngành Hải quan thực hiện nghiêm túc với phương châm “thu đúng, thu đủ”, đảm bảo một phần nguồn thu cho quốc khố từ nguồn thuế và thu khác từ các hoạt động xuất -nhập khẩu quá cảnh hàng hoá, xuất -nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải. 10 Thứ tư, kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Phải nói rằng, nhiệm vụ này được phái sinh từ ba nhiệm vụ nêu trên. Hai là, tổ chức, hoạt động Hải quan Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan khác. - Mối quan hệ của Tổ chức Hải quan với cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Hiện nay, Tổng cục Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, Bộ Tài chính nằm trong cơ cấu tổ chức Chính phủ, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong khi đó. Hải quan Việt Nam lại tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc "tập trung, thống nhất". Đây là điềm hết sức đặc thù trong tổ chức bộ máy Chính phủ, cho thấy dù về tổ chức có sự thay đổi, song vị trí. chức năng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động, nhiệm vụ. quyền hạn của ngành Hải quan vẫn được khẳng định theo nguyên tắc này. - Mối quan hệ giữa Tổng cục Hải quan với các cấp, đơn vị hải quan trực thuộc. Cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu chịu trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan là các cơ quan Hải quan, gọi chung là Hải quan Việt Nam. Theo Luật Hải quan, "Hải quan Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung, thống nhất. Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan thống nhất quản lý, điều hành hoạt động của Hải quan các cấp; Hải quan cấp dưới chịu sự quản lý, chỉ đạo của Hải quan cấp trên". Theo quy định trên. Hải quan Việt Nam-cơ quan hành chính được Nhà nước trao thẩm quyền thực thi các hoạt động quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan được tổ chức thành một hệ thống. ở Trung ương là Tổng cục Hải quan, ở địa phương (nơi có hoạt động hải quan) có Cục Hải quan tỉnh. liên tỉnh thành phố trực thuộc Tổng cục Hải quan, các Chi cục Hải quan cửa khẩu và Chi cục 11 Hải quan ngoài cửa khẩu trực thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh thành phố. Toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động quản lý của hệ thống hải quan theo nguyên tắc tập trung, thống nhất chỉ đạo, điều hành quản lý từ Trung ương xuống địa bàn, cơ sở. - Mối quan hệ giữa Hải quan với các cơ quan, đơn vị hữu quan. Luật Hải quan xác định rõ: "Tổng cục Hải quan là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hải quan"; các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm phối hợp thực hiện quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan, như: Biên phòng, Cảnh sát biển, Cảnh sát kinh tế, Kiểm dịch động vật, Kiểm dịch thực vật, Kiểm dịch y tế, Kiểm tra văn hoá, uỷ ban nhân dân các cấp. Ngân hàng, Kho bạc,... Tổ chức, cá nhân thực hiện xuất - nhập khẩu, quá cảnh hàng hoá, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải là đối tượng quản lý có nghĩa vụ thực hiện các quyết định, yêu cầu phối hợp thực hiện pháp luật của cơ quan hải quan. Cơ quan hải quan trong địa vị, vai trò là cơ quan chủ trì trong các trường hợp trên đây là nhằm đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành tại cửa khẩu một mặt, hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình, nhưng không được vi phạm thời hạn "ấn định" thông quan cho một loại hình hàng hoá xuất-nhập khẩu đã được quy định trong Luật, mặt khác, tránh được sự "tranh chấp", "chồng chéo" phi lý trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước không cần thiết, dẫn đến có thể tạo sơ hở cho buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại hoặc tình trạng lạm dụng quyền hạn để trục lợi, dây dưa kéo dài xử lý vụ việc, gây thiệt hại cho lợi ích Nhà nước và nhân dân. Điều này đã được Luật Hải quan khẳng định rõ: trong trường hợp hàng hoá, phương tiện vận tải chưa đưa ra khỏi phạm vi địa bàn hoạt động hải quan mà cơ quan tổ chức, cá nhân phát hiện có hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới thì cơ quan. tổ chức, cá nhân đó báo ngay cho cơ quan 12 hải quan để kiểm tra, xử lý". Song, để quy định này có thể thực hiện được trên thực tế đòi hỏi sự tự giác hợp tác, tôn trọng nguyên tắc "vì lợi ích quốc gia", "vì lợi ích của công dân" của các cơ quan chức năng chuyên ngành hữu quan. Ở ngoài địa bàn hoạt động hải quan, các cơ quan quản lý chuyên ngành khác của Nhà nước và cơ quan hải quan tổ chức các hoạt động phối hợp phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vận chuyển trái phép qua biên giới theo quy định của pháp luật. Trong mối quan hệ này, các cơ quan hải quan đóng vai trò là cơ quan thực hiện chức năng phối hợp. - Mối quan hệ giữa Hải quan với một số cơ quan quyền lực nhà nước và hệ thống chính trị. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về hải quan, thực hiện thẩm quyền giám sát, ngoài các cơ quan, tổ chức, cá nhân, như Quốc hội, Đại biểu Quốc hội theo Luật tổ chức Quốc hội và Luật giám sát Quốc hội, và thêm vào đó còn gồm các cơ quan, tổ chức, cá nhân được quy định trong Luật Hải quan, gồm: i) Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ. quyền hạn của mình giám sát việc thi hành pháp luật hải quan; ii) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật hải quan; giám sát việc thi hành pháp luật hải quan theo quy định của pháp luật; iii) nhân dân, chủ thể thực hiện giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về hải quan. Nhân dân thực hiện giám sát thông qua các đại biểu của mình ở các cơ quan quyền lực Trung ương hoặc địa phương, hoặc thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo các cơ quan, cán bộ. công chức đã vi phạm hoặc cho là đã vi phạm pháp luật lĩnh vực hải quan. Hệ thống các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lực giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước lĩnh vực hải quan nói chung, của các cấp hải quan, cán bộ. công chức hải quan nhằm đảm bảo cho 13 việc thực thi hệ thống pháp luật hải quan có hiệu quả trên thực tế, ngăn chặn, hạn chế các trường hợp thực thi nhiệm vụ vượt thẩm quyền, lạm quyền...cũng như các tiêu cực khác. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HẢI QUAN 1.2.1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế XHCN là một khái niệm, một phạm trù pháp lý cơ bản của khoa học pháp lý XHCN. Đây là vấn đề không phải là mới mẻ. Song, sau khi các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, các nước trong hệ thống XHCN đã đều tiến hành cải tổ đổi mới theo những con đường phát triển riêng của mình, pháp chế được bàn đến trong một điều kiện mới. Trong điều kiện của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, quá trình xây dựng phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập quốc tế và xây dựng xã hội công dân, pháp chế XHCN (theo quan niệm cũ) không dễ gì có sự thống nhất về nội hàm của nó. Vì vậy, để đưa ra được một khái niệm về pháp chế XHCN một cách tương đối hoàn chỉnh, đúng với tên gọi của nó cần tiếp cận từ nhiều phương diện. Thứ nhất, tiếp cận từ tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp chế XHCN, "pháp chế là một hiện tượng xã hội độc lập với tư cách là nhân tố của quyền lực chính trị". Pháp trị (hay pháp chế" là một chế độ chính trị của một nước dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và điều hành xã hội" [65, tr.1320]. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật là phương pháp pháp trị của nhà nước pháp quyền. Trong "Bộ Tư bản" C.Mác đã khái quát pháp chế là một chế độ thực hiện pháp luật của mọi tổ chức và công dân. Các nhà kinh điển Mác-Lênin qua các tác phẩm của mình đã quan niệm pháp chế XHCN, là một hiện tượng xã hội tồn tại vận động theo các nguyên lý sau đây: 14 - Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị, kinh tế-xã hội trong đó mọi thành viên quan hệ với nhau theo pháp luật; - Pháp chế là một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; - Pháp chế là một phương pháp quản lý nhà nước, phương pháp thực hiện những nhiệm vụ chuyên chính giai cấp, một bộ phận cấu thành của nền dân chủ chân chính. - Pháp chế có quan hệ chặt chẽ với dân chủ, như là một bộ phận của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. - Pháp chế có mối liên hệ chặt chẽ với văn hoá, với ý thức tôn trọng, xử sự bằng pháp luật, niềm tin vào giá trị, tác dụng của pháp luật đối với người dân, đối với Nhà nước. Thứ hai, tiếp cận từ quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đến lần thứ X, Đảng ta đều coi pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Muốn nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước và phát huy dân chủ XHCN phương pháp chủ yếu, tổng thể, toàn diện và thường xuyên là tăng cường pháp chế XHCN. Có thể nói rằng các Nghị quyết của Đảng trong nhiệm kỳ khoá IX và X về xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật, về cải cách Tư pháp, về đẩy mạnh cải cách hành chính là đỉnh cao tư duy pháp lý nói chung và tư tưởng, quan điểm nội dung về xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta nói riêng. Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết số 48 ngày 24/5/2005) tạo tiền đề cơ sở và "công cụ" hữu hiệu cho "quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Và đó cũng là cơ sở hình thành của pháp chế XHCN nói chung và pháp chế XHCN trên các lĩnh vực xã hội, trong đó có lĩnh vực tổ chức hoạt động của Hải quan Việt Nam. 15 Tiếp theo chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước, ngày 01 tháng 8 năm 2007. Trong Nghị quyết quan trọng này Đảng ta đã xác định mục tiêu quan điểm yêu cầu và các chủ trương giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính. Trong đó vấn đề thể chế, pháp luật thủ tục hành chính, tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước được Đảng ta quan tâm chỉ đạo rất cụ thể. Nghị quyết của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp, đến năm 2020 số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005, xác định mục tiêu, quan điểm phương hướng và nhiệm vụ cải cách tư pháp cả về thể chế, bộ máy và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp: cơ quan điều tra, cơ quan công tố, xét xử thi hành án và giám sát hoạt động tư pháp. Các Nghị quyết của Đảng nêu trên hình thành "Bộ Nghị quyết" toàn diện, đầy đủ nhất trong xây dựng nền pháp chế XHCN ở nước ta từ trước đến nay. Có thể coi đây là cơ sở lý luận, nội dung và biện pháp bảo đảm cho vai trò của pháp chế XHCN tiếp tục được tăng cường cũng như việc triển khai thực hiện Điều 12 của Hiến pháp năm 1992: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng chống và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp, pháp luật. Mọi hành động xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật". Thứ ba, tiếp cận từ khái niệm pháp chế của khoa học pháp lý. Có thể thấy rằng khái niệm (hay phạm trù) pháp chế XHCN được sự 16 quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Song cho đến nay định nghĩa về pháp chế XHCN chưa phải là đồng nhất về nội dung của khái niệm này. Theo V.N. Kyđriaxép: "pháp chế là chế độ nhất định của đời sống xã hội, là phương pháp lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức các quan hệ xã hội bằng phương thức ban hành và không giống thực hiện các đạo luật và các văn bản pháp luật khác" [60, tr.4]. Nội dung của định nghĩa này pháp chế có nội dung rộng. Pháp chế là chế độ của đời sống xã hội bao hàm cả việc ban hành pháp luật và thực hiện pháp luật, song nếu có vi phạm pháp luật thì pháp chế có vai trò như thế nào? Và pháp luật nào để xử lý các vi phạm pháp luật ấy?. Một ý kiến khác của G.B Ataman Chúc, ông cho rằng "pháp chế là hệ thống các quy tắc, quy phạm phương tiện và các bảo đảm pháp lý tương ứng với chúng mà các cơ quan nhà nước thừa nhận đảm bảo thực hiện thực tế các đạo luật và các văn bản dưới luật [20, tr.310]... Ý kiến trên tác giả cũng cho rằng pháp chế bao gồm cả pháp luật, các bảo đảm pháp lý và bảo đảm pháp luật được thực hiện trong thực tế. Ở Việt Nam có các định nghĩa về pháp chế đáng chú ý sau đây: - GS - TSKH Đào Trí Úc cho rằng: "pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị tổ chức và đối với công dân" [52, tr.680]. - Trong tài liệu học tập nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước pháp luật, Tập 1, được Bản lý luận chính trị, định nghĩa: "pháp chế XHCN là chế độ thực hiện pháp luật nghiêm minh thống nhất và tự giác của các cơ quan nhà nước các tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các cán bộ công chức nhà nước và mọi công dân" [26, tr.293]. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan