Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc...

Tài liệu Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước (8.5)

.DOC
12
81
74

Mô tả:

MỤC LỤC A. ĐẶT VẤN ĐỀ.............................................................................................................1 B. NỘI DUNG..................................................................................................................1 1. Một số khái niệm cơ bản.............................................................................................1 1.1. Giám sát...................................................................................................................1 1.2. Pháp chế, bảo đảm pháp chế và sự cần thiết phải bảo đảm pháp chế hiện nay.......1 2. Giám sát là hoạt động đảm bảo pháp chế..................................................................2 3. Hoạt động giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân.........................................2 3.1. Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất có quyền giám sát tối cao........3 3.2. Hội đồng nhân dân – cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương..........................5 4. Vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước................................................................................5 4.1. Vai trò chung của cơ quan quyền lực nhà nước trong hoạt động giám sát đối với việc đảm bảo pháp chế trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước..........................5 4.2. Vai trò giám sát của Quốc hội trong việc bảo đảm pháp chế..................................6 4.3. Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân trong việc đảm bảo pháp chế..................7 5. Nhận xét về thực trạng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát trong quản lí hành chính nhà nước.................................................................................................................8 C. KẾT LUẬN...............................................................................................................10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT: QH HĐND UBND UBTVQH CQHCNN QLHCNN : : : : : : Quốc hội Hội đồng nhân dân Ủy ban nhân dân Ủy ban Thường vụ Quốc hội Cơ quan hành chính nhà nước Quản lí hành chính nhà nước 0 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Hoạt động giám sát từ trước tới nay luôn được đánh giá là một biện pháp hữu hiệu bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước. Hoạt động này có thể được thực hiện bởi các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và quần chúng nhân dân nói chung. Trong đó hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước có thể xem là hoạt động giám sát quan trọng và mang lại hiệu quả cao nhất hiện nay. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài: “Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước”. B. NỘI DUNG 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1. Giám sát Theo Từ điển Luật học “Giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt đông mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh”. Giám sát luôn gắn liền với một đối tượng cụ thể (giám sát ai, giám sát cái gì). Nó thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đổi tượng chịu sự giám sát. Đây là một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và cũng là một hình thức kiềm chế, đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Do đó thực hiện tốt công tác giám sát là yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết trong xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay. 1.2. Pháp chế, bảo đảm pháp chế và sự cần thiết phải bảo đảm pháp chế hiện nay 1.2.1. Pháp chế, bảo đảm pháp chế, bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước Pháp chế là sự đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành một cách nghiêm chỉnh và triệt để nhằm tạo ra trong xã hội một trật tự, kỉ cương cần thiết1. Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức - pháp lí do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những cơ chế và hoạt động pháp lí nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực, tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định. Về thực chất, suy cho cùng bảo đảm pháp chế là làm cho hoạt động thực thi pháp luật ngày càng có hiệu quả trong thực tế. 1.2.2. Sự cần thiết phải bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước hiện nay 1 Nhóm giảng viên bộ môn Lý luận nhà nước và pháp luật, Nội dung cơ bản của môn học Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb, Giao thông vận tải, tr.404. 1 Bộ máy nhà nước bao gồm nhiều cấp và nhiều cơ quan, được tổ chức và hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội nên muốn bảo đảm cho chúng có trình tự thành lập chặt chẽ, cơ cấu tổ chức hợp lý và hoạt động có hiệu quả thì việc tổ chức và hoạt động của chúng phải dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình tổ chức bộ máy nhà nước, tất cả các cơ quan, tổ chức nhà nước đều phải theo đúng trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức do pháp luật quy định. Trong quá trình hoạt động, tất cả các nhân viên và các cơ quan nhà nước đều phải hoạt động trong khuôn khổ, phạm vi thẩm quyền mà pháp luật trao cho, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lí nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Pháp chế có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật. Nếu pháp luật phù hợp với thực tại khách quan của xã hội, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đa số dân cư thì nó sẽ có tính khả thi cao, mọi người tự giác thực hiện, khi đó thì pháp chế được tăng cường. Ngược lại, nếu pháp luật quá lạc hậu so với cuộc sống hoặc cao hơn trình độ thực của nền kinh tế thì sẽ dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật, luật pháp không khả thi. Do đó mục đích điều chỉnh của pháp luật chỉ đạt được đầy đủ khi nó được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, tức là khi pháp chế được tăng cường và đạt tới trình độ cao. Chính vì vậy, việc bảo đảm pháp chế là điều vô cùng cần thiết. 2. Giám sát là hoạt động đảm bảo pháp chế Giám sát được xem là hoạt động hiệu quả trong việc đảm bảo pháp chế bởi mục đích của giám sát là xem xét công việc cần làm có thực hiện đầy đủ, kịp thời theo đúng những yêu cầu đã đặt ra hay có những vi phạm gì xảy ra không để nhắc nhở hoặc có các biện pháp cần thiết để buộc đối tượng đó phải thực hiện theo đúng yêu cầu đã đặt ra. Trong hoạt động quản lí nhà nước nói chung, quản lý hành chính nhà nước nói riêng thì giám sát là hoạt động không thể thiếu bởi nếu thiếu hoặc yếu trong hoạt động này thì cơ quan lãnh đạo sẽ trở thành quan liêu, không có thực quyền còn các cơ quan cấp dưới thì tùy tiện làm việc dẫn đến hoạt động quản lí trong hệ thống các cơ quan nhà nước không hiệu quả, thiếu sự thống nhất, tệ cửa quyền, tham nhũng ngày càng nhiều hơn,… Do đó mà hoạt động giám sát có vai trò cực kì quan trọng. Thông qua hoạt động này các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, và nhân dân nói chung có thể xem xét, đánh giá sự phù hợp trong những quy định của pháp luật, tìm ra được những mặt tích cực cũng như những hạn chế, yếu kém và những sai sót trong quá trình thực hiện pháp luật. Thực tế cho thấy, hoạt động giám sát trong thời gian vừa qua của các cá nhân, tổ chức và nhất là các cơ quan quyền lực nhà nước đã mang lại hiệu quả rất lớn. Từ đó mà chúng ta có thể sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng những văn bản quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong cuộc sống. Cũng thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ kịp thời phát hiện và xử lí nghiêm những vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức để vừa trừng trị người vi phạm, vừa giáo dục, răn đe những người khác để họ từ bỏ ý định thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chính nhờ những hoạt động này mà ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, dần dần tạo cho họ ý thức tự giác chấp hành pháp luật vì thế mà pháp chế được đảm bảo. 3. Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2 Điều 2, Hiến pháp năm 1992 quy định: “… Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức…”. Ở nước ta nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua QH và HĐND các cấp. Vì vậy hoạt động giám sát của QH và HĐND các cấp có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống chính trị - xã hội. Quyền lực nhà nước xuất phát trực tiếp từ nhân dân nên sự giám sát của QH và HĐND là sự giám sát ủy quyền của nhân dân. Qua hoạt động này, nhân dân thực hiện quyền lực của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước để đảm bảo các hoạt động đó phục vụ lợi ích, ý chí, nguyện vọng của nhân dân. 3.1. Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất có quyền giám sát tối cao 3.1.1. Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất QH là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Vị trí tối cao của QH được Hiến pháp quy định tại Điều 83: "QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. QH quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước". Quy định đó đã chỉ ra rằng QH có tính chất đặc biệt quan trọng và vị trí tối cao trong toàn bộ bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà không một cơ quan Nhà nước nào trong bộ máy Nhà nước ta có được. 3.1.2. Quốc hội có quyền giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước Trước hết, Hiến pháp ghi nhận vị trí pháp lý của QH trong hệ thống cơ quan nhà nước ta là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nên chính vị trí đó đã đặt nền móng xây dựng nhiệm vụ và quyền hạn của QH. Chính vị trí pháp lý của QH và mối quan hệ giữa QH với các cơ quan nhà nước khác đã khẳng định: “QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân… QH thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của QH; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ QH, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.” (Ðiều 84 Hiến pháp 1992). Sở dĩ, QH có quyền hạn tối cao đó vì QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân lao động, chứ quyền đó không mặc nhiên xuất hiện. Điều 1 của Luật về hoạt động giám sát của QH cũng quy định: “QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. QH thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp. QH trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ QH, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của QH, Đoàn đại biểu QH và đại biểu QH”. Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc này thì “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua QH và HĐND các cấp”. Vì vậy, xác định quyền hạn của QH và phân định rõ chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ của từng cơ quan nhà nước là công việc vô cùng cần thiết. Có phân định rõ quyền hạn của từng cơ quan nhà nước thì nguyên tắc “tập trung quyền lực nhưng có phân công, phân nhiệm” mới có tính khả thi. Nhận thức này phù hợp với nhiều quan điểm hiện nay cho rằng, QH không chỉ giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trung ương mà giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, 3 các tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân. Từ đó, chúng ta có một nhận thức đúng đắn về vị trí pháp lý của QH làm cơ sở cho việc xây dựng và khẳng định quyền giám sát tối cao - một trong những quyền hạn quan trọng của QH trong quản lí nhà nước nói chung và QLHCNN nói riêng. QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Các cơ quan và cá nhân do QH bầu ra đều có trách nhiệm báo cáo công tác, chịu sự giám sát của QH và có thể bị thay đổi thành phần nhân sự khi có quyết định của QH. Hiến pháp 1992 cũng như các đạo luật khác do QH ban hành đều xác định: Mỗi cơ quan nhà nước đều có những hình thức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể, nhưng những người đứng đầu các cơ quan nhà nước trung ương đều do QH bầu ra và có thể bị QH bãi nhiệm hay miễn nhiệm khi họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Quyền giám sát của QH không đối trọng với các quyền hành pháp, tư pháp. QH vừa là cơ quan quyết định luật, vừa giám sát các cơ quan nhà nước thi hành luật, nhưng không lẫn lộn với quyền hành pháp của Chính phủ cũng như quyền độc lập xét xử của Toà án. Bản chất quyền giám sát tối cao của QH được xác định rõ nét thông qua việc thực hiện quyền này bởi nhiều cơ quan nhà nước theo sự phân công và uỷ quyền của QH, những cơ quan này có trách nhiệm báo cáo trước QH về hoạt động của mình. Trước hết, QH tập trung giám sát trực tiếp hoạt động của một số cơ quan như Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, để bảo đảm thực hiện tốt quyền giám sát, QH còn giao nhiệm vụ này cho Hội đồng dân tộc, các Ủy ban, giao trực tiếp cho các đại biểu QH hoạt động ở từng lĩnh vực công tác cụ thể của đời sống xã hội. 3.1.3. Phương pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội QH xem xét, thảo luận các báo cáo giữa năm và hàng năm của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ QH, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Theo phương pháp này, tại kỳ họp cuối năm, việc các chủ thể trên phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của cơ quan, ngành mình trước QH chính là hoạt động giám sát gián tiếp của QH. Thông qua hoạt động này, QH nhận được những thông tin cần thiết về tình hình hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như các ngành trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền giám sát của QH cũng có thể được thực hiện thông qua hoạt động kiểm tra việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và cơ sở. Quyền giám sát của QH được thực hiện thông qua Uỷ ban thường vụ QH (từ Điều 11 đến Điều 13 Luật tổ chức QH), thông qua Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của QH (từ Điều 23 đền Điều 29 Luật tổ chức QH), cũng như trực tiếp thông qua hoạt động của các đại biểu QH (Điều 39, 42, 44, 45 Luật tổ chức QH). Các đại biểu giám sát tập trung vào các vấn đề: Chất vấn, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, giám sát việc thực thi pháp luật của địa phương và việc giải quyết khiếu nại tố cáo. Các đại biểu QH thực hiện quyền giám sát của QH thông qua hoạt động chất vấn những người đứng đầu các cơ quan nhà nước trung ương như Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và các Bộ trưởng. Những chủ thể này có thể phải trả lời trong các kỳ họp của QH hoặc sau kỳ họp của QH (Điều 98 Hiến pháp năm 1992). Ngoài ra, các đại biểu QH cũng có quyền 4 yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang trả lời những vấn đề mà đại biểu QH quan tâm. Các đại biểu còn có quyền và trách nhiệm xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân và hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân thực hiện các quyền đó (Điều 97 Hiến pháp 1992, Điều 44 Luật tổ chức QH). 3.2. Hội đồng nhân dân – cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương HĐND các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của UBND, các cơ quan chuyên môn của UBND cũng như các đơn vị trực thuộc. HĐND giám sát các đối tượng trên ở cả hai phương diện: trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND và trong việc tuân theo pháp luật nói chung. Giám sát được xem là chức năng chủ yếu của HĐND được thực hiện trước hết ở các kì họp của HĐND bằng cách nghe báo cáo và thảo luận, đánh giá báo cáo của UBND, của cơ quan chuyên môn; thông qua chất vấn trên kỳ họp đối với chủ tịch và các thành viên UBND, thủ trưởng của các cơ quan chuyên môn của ủy ban; bằng hoạt động của thường trực HĐND và các ban của HĐ; bằng hoạt động đại biểu trong khu vực bầu cử. Ngoài ra, một hình thức giám sát quan trọng là thông qua việc giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân để giám sát. Trong các hình thức giám sát trên thì hoạt động giám sát ở các kỳ họp được xem là quan trọng nhất bởi nếu hoạt động giám sát của các ban, thường trực và đại biểu HĐND là thường xuyên thì hoạt động giám sát tại các kỳ họp được xem là hình thức giám sát theo định kì. Nó mang tính chất tổng hợp, toàn diện, đối với tất cả các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Còn các hoạt động giám sát của các ban, thường trực và đại biểu HĐND chỉ được xem là những hoạt động nhằm chuẩn bị, phục vụ cho hoạt động giám sát của HĐND. Theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND, HĐND có quyền bầu và bãi miễn các thành viên UBND, đình chỉ, bãi bỏ quyết định, chỉ thị sai trái của UBND cùng cấp, bãi bỏ Nghị quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp nếu có sai phạm. Hoạt động giám sát của HĐND đối với hành chính có căn cứ, phạm vi, nội dung, hình thức và phương pháp tương tự như hoạt động giám sát của QH, nhưng ở các nấc thang quyền lực thấp hơn, trên địa bàn lãnh thổ xác định. 4. Vai trò giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước 4.1. Vai trò chung của cơ quan quyền lực nhà nước trong hoạt động giám sát đối với việc đảm bảo pháp chế Cơ quan quyền lực nhà nước giám sát hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Thông qua hoạt động giám sát, QH và HĐND các cấp thực hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. Qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện ra những yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó cơ quan hành chính nhà nước kịp thời đề ra những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục 5 những khó khăn và tồn tại ấy. Đồng thời cũng thông qua hoạt động giám sát ấy, QH và HĐND các cấp có dịp kiểm điểm tính hợp lí và hợp pháp của các văn bản do chính mình ban hành. Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước nói trên phải đưa ra những biện pháp, giải pháp khắc phục. Thông qua đó những cơ quan này đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước. QH và HĐND các cấp trong quá trình giám sát có thể phát hiện ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự an ninh và lợi ích của nhà nước, từ đó mà kịp thời quản lí hoặc yêu cầu các cấp, các ngành xử lí nghiêm minh những vi phạm đó. Các hình thức, phương pháp giám sát được triển khai đã đem lại kết quả khá tốt, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 4.2. Vai trò giám sát của Quốc hội trong việc bảo đảm pháp chế Trong việc thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, QH thực hiện quyền này tập trung trước hết đối với hoạt động của cơ quan QLHCNN mà cụ thể là về mặt tổ chức đối với bộ máy hành chính nhà nước như thành lập, bãi bỏ Bộ và cơ quan ngang Bộ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt… Bên cạnh đó, nó còn thể hiện ở phạm vi, đối tượng giám sát trên mọi lĩnh vực của QLHCNN; ở việc bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh cao nhất của Bộ máy nhà nước. Các cơ quan, cá nhân do QH bầu ra đều có trách nhiệm báo cáo công tác trước QH, chịu sự giám sát của QH. Chính từ những kết quả giám sát, QH phát hiện ra những yếu kém, khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các CQHCNN. Hoạt động giám sát của QH là cơ chế xem xét, kiểm tra việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Thông qua hoạt động này, QH kiểm tra được việc ban hành các văn bản quy phạm pháp pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền diễn ra có đúng trình tự, thủ tục hay không, các văn bản ấy có mâu thuẫn, chồng chéo hay không? … QH là cơ quan duy nhất có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của QH. Điều đó có nghĩa là QH có toàn quyền giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong hoạt động thực tiễn và cả trong nội dung các văn bản trên. Quyền năng này của QH đã chứng tỏ rằng Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ - người đứng đầu cơ quan hành pháp nếu ban hành văn bản quy phạm trái pháp luật thì cũng bị hủy bỏ. Chính quyền năng đó của Quốc hội đã đảm bảo cho hệ thống pháp luật nước ta thống nhất, trên cơ sở tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp. Qua giám sát, QH xem xét, đánh giá được tính đúng đắn của các quy định do QH và UBTVQH ban hành thông qua thước đo của hoạt động thực tiễn. Bởi có những quy định trong thời gian QH xây dựng dự thảo là phù hợp nhưng khi được ban hành nó lại không phù hợp. Kiểm tra tính đúng đắn trong các văn bản do QH ban hành chính là cơ sở để Chính phủ ban hành các nghị định; các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành,… đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách thống nhất từ trung ương 6 đến địa phương. Trên cơ sở đó, các CQHCNN cũng có thể đưa ra những yêu cầu, biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Nhờ hoạt động giám sát, QH đánh giá được năng lực hoạt động của các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức được pháp luật trao cho những thẩm quyển quản lí nhà nước xem việc trao quyền hạn như vậy đã phù hợp hay chưa?, những thẩm quyền đã trao đó có thực sự được sử dụng đúng mục đích? Hiệu quả hoạt động của những cơ quan đó ra sao?, … từ đó nghiên cứu, xem xét trao quyền lực nhà nước cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có khả năng thực hiện tốt hơn những công việc mà QH giao phó,… Thông qua việc thực hiện quyền giám sát, QH xây dựng những biện pháp và giải pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực hiện quyền giám sát của mình. Chẳng hạn như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do QH bầu và phê chuẩn; Ủy ban pháp luật của QH có quyền thực hiện giám sát đối với các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, giám sát việc ban hành nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; Hội đồng dân tộc cũng có quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực dân tộc như: chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Mặt khác, hoạt động giám sát của QH còn là phương tiện kiểm soát sự lạm dụng quyền lực nhà nước của các chủ thể được pháp luật trao cho những nhiệm vụ quyền hạn nhất định. Điều 15, Quy chế hoạt động của đại biểu QH và đoàn đại biểu QH quy định: “Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật…đại biểu QH có quyền trực tiếp yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan và những người có trách nhiệm thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật đó. Cơ quan, đơn vị, tổ chức hoặc người có trách nhiệm phải thông báo cho đại biểu QH biết kết quả giải quyết”. Hoạt động này có ý nghĩa rất lớn trong việc phát hiện và xử lí nghiêm các hành vi lạm dụng quyền lực nhà nước để trục lợi của một số cán bộ, công chức đảm bảo cho pháp luật được thực thi, thắt chặt quản lí hành chính nhà nước. Hoạt động giám sát giúp cho QH có thể kiểm tra, nắm bắt được toàn bộ hoạt động quản lí hành chính nhà nước, từ đó mà nâng cao chất lượng trong quản lí cũng như kịp thời phát hiện những vi phạm đảm bảo pháp chế trong hoạt động QLHCNN. 4.3. Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân trong việc đảm bảo pháp chế Mặc dù HĐND là cơ quan đại diện ở địa phương nhưng hoạt động của nó không chỉ bó hẹp ở phạm vi cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương mà mang tính chất toàn diện của cơ quan chính quyền địa phương. Hoạt động của HĐND do Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND quy định. Trong các hoạt động của HĐND thì giám sát được xem là một hoạt động rất quan trọng. Sự ra đời của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chính là cơ sở pháp lí quan trọng khẳng định quyền hạn và nhấn mạnh tính chủ động trong giám sát đối với mọi hoạt động thực thi pháp luật của HĐND. Theo ông Phạm Minh Tuyên - Trưởng ban công tác đại biểu của Ủy ban TVQH thì trong 7 năm qua: “Công tác giám sát có những chuyển biến tích cực, có trọng tâm, trọng điểm, đã kịp thời phát hiện các thiếu sót, bất cập, vướng mắc và đưa ra được kiến nghị khả thi”. Kết quả hoạt động giám sát của HĐND đã có tác dụng tích cực trong việc giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương. Ví dụ như những hoạt động giám sát theo chuyên đề rất có hiệu quả của Thường trực, các ban của HĐND tỉnh Quảng Bình từ năm 2005 đến 7 năm 2010, với hơn 20 chuyên đề như: công tác quy hoạch xây dựng và quản lý xây dựng cơ bản; công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch trong lĩnh vực xây dựng đô thị và đất đai… Báo cáo giám sát chuyên đề của HĐND tỉnh không chỉ đánh giá tình hình thực hiện; kết quả đạt hoặc chưa đạt, mà còn phân tích nguyên nhân hạn chế, vướng mắc, từ đó đưa ra những kiến nghị hợp lý, có tính khả thi cao. Mô ̣t số hinh thức giám sát đã được các địa phương chủ đô ̣ng sáng tạo và áp dụng để phu hợp với điều kiêṇ thực tế như: Thường trực HĐND cấp tỉnh tổ chức giám sát những vấn đề được cư tri quan tâm bằng hinh thức chất vấn giữa hai kỳ họp (TP Hồ Chí Minh, Hà Nô ̣i, Cần Thơn; thành lâ ̣p đoàn giám sát chuyên đề về viêc̣ trả lời và thực hiê ̣n chất vấn (Binh Thuâ ̣nn; tổ chức giám sát bằng hinh ảnh, ghi lại những nô ̣i dung giám sát và báo cáo tại kỳ họp HĐND (Tuyên Quangn. Các hinh thức này đã đem lại hiê ̣u quả rõ rêt,̣ được các đại biểu HĐND và cư tri hoan nghênh...2 Qua kết quả giám sát, HĐND xem xét, lựa chọn và đưa vào nghị quyết phát triển kinh tế - xã hội hàng năm các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ; hoặc ban hành các nghị quyết riêng để khắc phục hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở đó, UBND tỉnh, các huyện, thành phố, các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh cũng ban hành văn bản chỉ đạo, kiểm tra, thậm chí điều chỉnh, thay đổi các mục tiêu, nhiệm vụ cho phù hợp với tình hình địa phương. Một biểu hiện cụ thể nữa của hình thức giám sát quan trọng của HĐND là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo bởi QLHCNN là lĩnh vực mà người dân có nhiều khiếu nại, tố cáo nhất như việc thu hồi đất bồi thường chưa thỏa đáng, cán bộ tham nhũng, tiêu cực,… Vì thế giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật là cơ sở để đảm bảo pháp chế được thực hiện, giữ vững lòng tin của nhân dân. Hoạt động này chính là điều kiện để HĐND hoàn thành nhiệm vụ người đại biểu mà nhân dân giao phó. Hoạt động giám sát của HĐND góp phần tích cực vào việc phát hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc chấp hành pháp luật, những điểm chưa hợp lý trong QLHCNN của các cơ quan nhà nước từ đó kiến nghị những biện pháp khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó. Ví dụ như trong việc quản lí, thu chi ngân sách địa phương; trong việc xây dựng các công trình phúc lợi xã hội,… xem có hiện tượng quan liêu, tham nhũng, lãng phí làm thất thoát tài sản nhà nước hay không? Từ đó có những biện pháp nhằm khắc phục những yếu kém, sơ hở trong hoạt động QLHCNN... Trên cơ sở đó kiến nghị các cấp có thẩm quyền giải quyết, xử lí kịp thời những sai phạm; đôn đốc các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện nghị quyết của HĐND và của cấp trên cũng như giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành hiệu quả các quy định của pháp luật và nghị quyết của HĐND. 5. Nhận xét về thực trạng hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả của hoạt động giám sát Hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước trong thời gian vừa qua đã đạt được những thành công bước đầu. Nhiều đại biểu đã đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân trong việc thẳng thắn phát biểu ý kiến của cử tri cũng như những quan điểm cá nhân. Trong những ý kiến đó có một số ý kiến khác với một vài vấn đề cụ thể trong chủ trương lãnh đạo bạn đầu của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ chính trị. 2 http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=116820. 8 Tuy nhiên, các hình thức giám sát hiện nay nhiều khi làm cho các cơ quan quyền lực nhà nước rơi vào trạng thái bị động trước những chuyện đã rồi, hoạt động mang tính hình thức. Chính vi thế mà các cơ quan quyền lực nhà nước phải không ngừng đổi mới phương thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát. Trong đó, việc đổi mới phương thức hoạt động cần được thực hiện một cách đồng bộ, từ đổi mới đến tăng thời lượng và nâng cao chất lượng của các kỳ họp; cải tiến việc xem xét và thảo luận các vấn đề tại kỳ họp, phiên họp theo hướng dân chủ, mở rộng tranh luận, đối thoại để thống nhất ý kiến, tăng cường cởi mở, công khai trong sinh hoạt của QH và HĐND. Nhiều hoạt động, chương trinh giám sát chưa có hiệu quả bởi nó không xuất phát từ đời sống của nhân dân do đó cần chủ động cải tiến phương thức tổ chức hoạt động giám sát, tập trung giám sát những vấn đề theo chương trinh và những vấn đề cư tri đang bức xúc, có chú ý hinh thức giám sát trực tiếp tại cơ sở. Nội dung giám sát càng cụ thể, hiệu quả thu lại sẽ càng thiết thực. Nếu cuộc giám sát của các đại biểu chỉ giới hạn trong một buổi làm việc với thường trực UBND thành phố và các sở, ngành hữu quan thì khó có thể đưa ra những kiến nghị sâu và có tính thuyết phục cao; hoặc nếu chỉ nghe người được giám sát báo cáo mà không đối chiếu với nguyện vọng của dân, không đi sâu nghiên cứu tìm hiểu độ “chênh” của báo cáo so với thực tế thì giám sát cũng mang tính phiến diện. Hoạt động giám sát chưa được tiến hành thường xuyên và không phải bất cứ đại biểu nào cũng có đủ trình độ chuyên môn để giám sát hết tất cả các lĩnh vực. Ví dụ như việc hội đồng nhân dân giám sát việc xây dựng các công trình thủy điện ở địa phương mình (nếu có) là vấn đề không hề đơn giản bởi không phải lúc nào cũng có thể tiến hành giám sát do phần lớn các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm. Bên cạnh đó cũng không có một cơ quan chuyên môn nào thường xuyên kiểm tra, giám sát do đó nếu có thất thoát thì rất khó phát hiện hoặc khi sự cố xảy ra thì lúc đó các đại biểu mới biết,… Vì vậy, phải chú ý cử những đại biểu có kiến thức chuyên sâu, am hiểu về lĩnh vực giám sát, từ đó mới có thể đưa ra những kiến nghị sát thực tế. Việc thường xuyên xem xét tiến trình giải quyết sau giám sát cũng là một yêu cầu rất quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát. Trong các kỳ họp vẫn chưa thực sự có nhiều câu hỏi chất vấn hay, một phần là do khả năng của mỗi đại biểu, một phần là do tâm lí né tránh. Chủ tịch QH Nguyễn Văn An đã phê bình một số đại biểu chất vấn còn dài dòng, đi vào vấn đề quá cụ thể: "Chất vấn không phải thách đố, không phải thi vấn đáp mà chất vấn vào việc thực thi nhiệm vụ của Chính phủ, với thái độ xây dựng". Vì vậy, để nâng cao chất lượng kỳ họp, các đại biểu QH cần tăng thời gian tiếp xúc cử tri, qua đó vừa nắm chắc tình hình để có ý kiến xác đáng, vừa thực hiện chức năng giám sát tốt hơn vì cử tri, nhân dân là lực lượng giám sát tốt nhất. Nhiều kiến nghị sau giám sát của đoàn đại biểu QH cũng như của các đại biểu HĐND được các cơ quan hữu quan thừa nhận và có điều chỉnh nhưng vẫn chưa có văn bản chính thức trả lời. Một số kiến nghị còn dàn trải, chưa thật sâu sắc và chỉ mới đưa ra khuyến nghị có tính chất chung… Vì vậy, bản thân đại biểu cũng phải có ý chí vươn lên, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết về pháp luật,… để có những kiến nghị phù hợp. Đa phần các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm nên quỹ thời gian làm nhiệm vụ đại biểu còn hạn chế; số lượng đại biểu tham gia giám sát không nhiều (khoảng từ 3 - 4 đại biểu, có cuộc từ 2 - 3 đại biểu) và cũng có rất ít thời gian để nghiên cứu sâu về vấn đề giám sát. Vì vậy, chúng ta phải tăng cường số lượng các đại biểu hoạt động chuyên trách. 9 Hoạt động giám sát chỉ mới chú trọng đến việc chất vấn trực tiếp tại kỳ họp, công tác chất vấn giữa hai kỳ họp thực hiện không đều, không thường xuyên. Các cuộc giám sát thường tổ chức theo hình thức Đoàn giám sát của Đoàn Đại biểu QH; ít có đại biểu nào thực hiện chương trình giám sát riêng theo quy định của Luật hoạt động giám sát. Số cuộc giám sát tại cơ sở tuy có tăng lên nhưng nhìn chung vẫn chưa sâu; một số cuộc giám sát chỉ mới tiếp cận ở cơ quan, đơn vị nghe báo cáo, chưa nghiên cứu làm rõ từng vấn đề. Hoạt động giám sát mới chỉ tạm dừng lại ở mức độ phát hiện và phân tích vấn đề, vụ việc rồi động viên, đôn đốc nhắc nhở các ngành, các cấp ở địa phương quan tâm, xem xét giải quyết chứ chưa có những biện pháp hữu hiệu… Vi thế, cần phải tăng cường công tác hậu giám sát, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề mà qua giám sát đã phát hiện ra là chưa hợp lí. Việc huy động chuyên gia, cơ quan chuyên môn nghiệp vụ có liên quan để giúp thông tin cho Đoàn giám sát vẫn còn rất ít, chưa thành một chế độ phổ biến do cơ chế và những quy định về thẩm quyền tham vấn và chi bồi dưỡng cho chuyên gia chưa có vì thế nên cần có một quy định cụ thể về vấn đề này. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải bảo đảm kinh phí và điều kiện vật chất khác cho hoạt động giám sát của QH, HĐND. Trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kết quả đạt được cũng còn nhiều hạn chế. Theo báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2010 của Chính phủ cho biết, cả nước phát sinh hơn 112.060 vụ việc khiếu nại, tố cáo; trong đó có hơn 2.100 vụ việc nhiều người khiếu nại. So với cung kỳ năm 2009 số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo tăng 17%; có 32/62 địa phương số lượng các vụ việc khiếu nại, tố cáo tăng; có 29/62 địa phương số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo giảm 3. Tuy nhiên, tỷ lệ trả lời của các cơ quan hữu quan chưa cao, trong đó còn khá nhiều văn bản trả lời với nội dung chung chung, nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm. Đơn thư khiếu nại, tố cáo do đại biểu chuyển và có ý kiến, kiến nghị chưa thật sự được các ngành hữu quan giải quyết thấu đáo. Vậy nên, các đại biểu phải thể hiện rõ chính kiến của mình khi chuyển đơn thư của công dân đến cơ quan chức năng giải quyết. Thực tế cho thấy những đơn thư nào mà đại biểu chuyển trong đó có nêu rõ lý lẽ, nêu những tình tiết mới, thì cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, giải quyết và trả lời một cách đầy đủ, nghiêm túc và kịp thời hơn là những trường hợp chuyển đơn một cách chung chung… Và yếu tố quyết định để QH và HĐND hoàn thành xuất sắc các chức năng, nhiệm vụ của minh chính là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nhân dân. C. KẾT LUẬN Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân chính vì thế mà mọi hoạt động giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính cũng thực chất là để đảm bảo những điều kiện cho đất nước phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chính là mục đích mà chúng ta hướng tới trong tương lai nhưng mục đích đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện và mọi người dân đều nghiêm chỉnh thực hiện theo hiến pháp và pháp luật. 3 Theo Thông tấn xã Việt Nam, Phấn đấu giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo. 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội- 2009, tr.351 - 382. 2. GS.TS.Trần Ngọc Đường, Quyền giám sát tối cao và một số suy nghĩ về việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Kỷ yếu hội thảo về hoạt động giám sát của Quốc hội. 3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo nghị quyết số 51/2001/ NQ- QH ngày 21/12/ 2001 của QH), Nxb. Lao động - xã hội, năm 2009. 4. Ts. Lê Quốc Hùng, Thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội - 2004. 5. PGS. TS. Nguyễn Đăng Dung, Quốc hội Việt Nam trong nhà nước pháp quyền, Hà Nội - 2007. 6. TS. Nguyễn Thị Hồi, TS. Lê Vương Long, Th. Đoàn Bạch Liên, ThS. Nguyễn Văn Năm, ThS. Bùi Xuân Phái, Nội dung cơ bản của môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội – 2008. 7. http://www.na.gov.vn. 8. http://www.luatgiapham.com. 9. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001. 10. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003. 11. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2003. 12. Ths. Hoàng Văn Sao, Trường Đại học luật Hà Nội, Hoạt động giám sát của Quốc hội trong việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. 13. Lưu Trung Thành, Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, Tạp chí luật học số 4 năm 2004. 14. TS. Lê Hữu Thể, Một số suy nghĩ về việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Kỷ yếu Hội thảo quá trình hình thành, phát triển và vai trò của Quốc hội trong sự nghiệp đổi mới, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội, 2001, trang 13. 15. QH nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết 55/2005/QH11 29/11/2005 về kết quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, Cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan