Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích tiền đề ra đời của đảng cộng sản việt nam...

Tài liệu Phân tích tiền đề ra đời của đảng cộng sản việt nam

.DOC
9
78
81

Mô tả:

A - MƠ BI Điều 4 Hiến pháp 1992 của nước ta có quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”. Sự ghi nhận đó đã thể hiện rõ vai trò hạt nhân của Đảng trong quản lý Nhà nước và xã hội.Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn thể hiện vai trò hạt nhân của mình trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đảng ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối cứu nước trong những năm đầu thế kỷ XX, đồng thời khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng mở ra một thời kì mới cho sự phát triển của dân tộc, dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đảng là ngọn cờ đoàn kết các yếu tố giai cấp, dân tộc, quốc tế, tạo thành sức mạng tổng hợp giúp cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sau quá trình học tập môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thấy được những tư tưởng sáng tạo, đúng đắn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam, và với mong muốn tìm hiểu rõ những tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam – nhân tố đóng vai trò quan trọng giúp Cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, em đã quyết định chọn đề tài: “Phân tích tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam” làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ của mình. - NỘI DUNG I. Tiền đề ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam theo quan điểm của Hồ Chí Minh. 1. Chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, Đảng Cộng sản ra đời chỉ cần hai yếu tố, đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân. Điều này hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của nước Nga và tình hình ở Châu Âu.Tuy nhiên, ngay khi tổng kết như vậy, Lê Nin cũng lưu ý rằng Đảng ra đời là sản phẩm của lịch sử và diễn ra trong không gian và thời gian nhất định.Điều này có thể được hiểu các yếu tố dẫn tới sự ra đời của một Đảng Cộng sản không phải bao giờ cũng khuôn lại trong nhưng yếu tố cố định, cứng nhắc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam bắt nguồn từ học thuyết của C. Mác và trực tiếp từ học thuyết về xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lê nin. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam đã đưa Hồ Chí Minh đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Hồ Chí Minh quan tâm tìm kiếm những cơ sở thực tế dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng ở những nước lạc hậu, phụ thuộc với những tàn tích phong kiến còn rất nặng nề. Theo đó, Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; có khả năng vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng và gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới. Đồng thời, Đảng phải có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, giải quyết triệt để hai mâu thuẫn cơ bản là đánh đuổi thực dân đế quốc và lật đổ phong kiến, tư sản đem lại ruộng đất cho dân cày. Nói cách khác, Đảng Cộng sản ở những nước lạc hậu, phụ thuộc cần phải được vũ trang bằng lý luận khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, phải được xây dựng theo những nguyên tắc Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, bởi vì, chủ nghĩa Mác – Lê nin là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Học thuyết ấy đã chỉ ra con đường của sự tự giải phóng con người và sự phát triển xã hội. Hơn nữa, ở đây Đảng Cộng sản còn phải công khai lập trường, quan điểm của mình đứng về phía nào? bênh vực, bảo vệ ai, cái gì và chống lại ai, cái gì?và phải có phương pháp biện chứng duy vật trong đấu tranh cách mạng và vận động quần chúng, nghĩa là phương pháp phải mềm dẻo, linh hoạt nhạy bén, nắm thời cơ và đưa quần chúng ra đấu tranh, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn. 2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin về xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu sâu sắc tình hình thực tế ở Việt Nam, một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu và nông dân chiếm đa số trong xã hội. Giai cấp công nhân Việt Nam mới hình thành, còn mỏng về số lượng, phong trào còn non yếu, lại chưa có kinh nghiệm, nhưng là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, là giai cấp cách mạng và giữ vai trò lãnh đạo, có tổ chức, có kỷ luật, nhạy bén với cái mới. Trong khi đó, ở Việt Nam những phong trào yêu nước rộng rãi và đang lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân, chủ yếu là nông dân, vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến.Nếu kết hợp được phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng nhân dân với phong trào công nhân thì sẽ tạo ra sức mạnh to lớn. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh đã có sự sáng tạo lý luận, bổ sung và phát triển học thuyết của C.Mác và V.I.Lê nin về xây dựng Đảng: “ chủ nghĩa Mác – Lê nin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”. Ở Việt Nam, nếu phong trào công nhân không gắn bó chặt chẽ vói phong trào yêu nước, không trở thành nòng cốt của phong trào yêu nước, thì cách mạng cũng không đủ lực lượng để mở rộng được đấu tranh và đưa nó đến thắng lợi. Nếu phong trào yêu nước không được dẫn dắt bởi giai cấp công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản thì cuộc đấu tranh đó cũng không đi đến thắng lợi. Thành công của Hồ Chí Minh chính là ở chỗ đã kết hợp nhuần nhuyễn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin về xây dựng Đảng kiểu mới với việc phân tích sâu sắc tình hình thực tế của cách mạng ở Việt Nam để hoàn thiện lý luận về xây dựng Đảng của mình. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin, từ giác ngộ dân tộc đi đến giác ngộ giai cấp, kết hợp giác ngộ dân tộc với giác ngộ giai cấp trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lê nin là con đường mà Hồ Chí Minh đã chọn và đã đi. Từ đó dẫn tới hệ luận điểm: không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản, nhưng việc tiếp nhận đường lối của Đảng Cộng sản lại là điều kiện cần thiết để xác định được mục tiêu yêu nước đúng đắn; còn mỗi người cộng sản trước hết phải là người yêu nước, hơn nữa phải là người yêu nước tiêu biểu, phải thường xuyên truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin, quan điểm, đường lối của Đảng trong nhân dân và lãnh đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối đó. Việc gắn phong trào công nhân với phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc của Hồ Chí Minh đã có lúc bị hiểu lầm, bị đánh giá là nặng nề về dân tộc, nhẹ về giai cấp, là người dân tộc chủ nghĩa. Song, thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới đã kiểm nghiệm và chứng minh quan điểm về việc gắn chủ nghĩa Mác – Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, giai cấp với dân tộc là hoàn toàn đúng đắn. Sự gắn bó ấy không chỉ đúng với cách mạng Việt Nam, với cách mạng của các nước thuộc địa, mà còn đúng với tất cả những nước đang đi vào con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ những phân tích trên có thể ta có thể nhận thấy lý do giải thích tại sao Hồ Chí Minh lại nêu thêm yếu tố phong trào công nhân và phong trào yêu nước, coi nó là một trong ba yếu tố kết hợp dẫn đến việc hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là: Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dân tộc Việt Nam.Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch sử dân tộc Việt Nam và là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta.Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân.Chỉ tính riêng trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, phong trào yêu nước của nhân dân ta dâng lên mạnh mẽ như những lớp sóng cồn nối tiếp nhau.Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước và nó đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó có mục tiêu và yêu cầu chung. Đó là: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước hùng cường.Nói đến phong trào công nhân là nói đấu tranh chống áp bức giai cấp, là nói tới chủ nghĩa xã hội; nói đến phong trào yêu nước là nói đấu tranh chống ách áp bức dân tộc, là nói tới độc lập dân tộc.Nhưng dưới ách áp bức của thực dân Pháp thì trước hết đất nước phải giành được độc lập dân tộc.Không có độc lập là không có gì hết.Giải phóng dân tộc trong đó có cả lợi ích của giai cấp công nhân. Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân.Nói đến phong trào yêu nước Việt Nam phải kể đến phong trào nông dân.Đầu thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm tới khoảng 90% dân số.Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử chi phối, không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp tù người nông dân nghèo, nông dân mất ruộng đất trở thành công nhân và công nhân mất việc trở thành nông dân. Vì vậy phong trào công nhân có khả năng kết hợp với phong trào nông dân. Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu ấn đậm nét bởi vai trò của tri thức, nhờ điều kiện làm việc đặc thù nên rất nhanh nhạy với thời cuộc, dễ tiếp thu cái mới, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai, cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đất nước. Họ đưa lý luận cách mạng vào phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân chuyển dần từ “ tự phát” sang “ tự giác”. 3. Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh không những đã nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của một chính đảng cách mạng mà còn chuyển nhận thức đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người khẳng định : Muốn giải phóng dân tộc thành công “ trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài đi liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Với nhận thức đó, từ rất sớm, trong những hoạt động thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc luôn quan tâm chú ý đến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập một chính đáng cách mạng ở Việt Nam. Sau khi được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lê nin, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục đi sâu nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lê nin, chế độ Xô Viết mới ra đời và tích cực tham gia nhiều hoạt động của Quốc tế Cộng sản, Hội liên hiệp thuộc địa được thành lập năm 1921 và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông được thành lập năm 1925 là những tổ chức quốc tế đầu tiện của phong trào giải phón dân tộc, mà Nguyễn Ái Quốc vừa là người khởi xướng, vừa là người tổ chức, lãnh đạo với vai trò lãnh đạo chủ yếu nhất. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên – tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cho việc chuẩn bị về cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng sau này. Thông qua tổ chức tiền thân Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, có Cộng sản đoàn làm nòng cốt, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện đào tạo, bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiện theo chủ nghĩa Mác – Lê nin và đường lối cách mạng mới, bằng cách mở các lớp huấn luyện tại Quảng Châu từ năm 1925 đến năm 1927. Sau các khóa học phần lớn hị trở về nước để truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức nhân dân, còn một số ít được chọn vào trường Quân sự Hoàng Phố và Trường đại học Phương Đông học tập để sau đó trở về Việt Nam hoạt động trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân khác, làm cho phong trào chuyển dần từ tự phát sang tự giác. Đây chính là sự gặp gỡ tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam với tư tưởng cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Sự xuất hiện ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930 là sản phẩm tất yếu của phong trào công nhân và phong trào yêu nước dâng cao, là sản phẩm tất yếu của sự chuyển biến về ý thức. Những người cách mạng Việt Nam trong nước đã nhận thấy tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, cần phải có Đảng Cộng sản thay thế. Nhưng trong một nước không thể tồn tại đồng thời ba tổ chức cộng sản có cùng mục tiêu, lý tưởng.Trước tình hình đó, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập đại biểu và chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày mồng 3-2-1930.Việc hợp nhất đó đã đáp ứng được đòi bức thiết của thực tiễn cách mạng Việt Nam. II. Sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin. C.Mác và V.I.Lê nin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước phương Tây và nước Nga. V.I.Lê nin đã nêu ra luận điểm: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây. Chủ nghĩa Mác là học thuyết xã hội khoa học, mang lý tưởng về một xã hội nhân đạo thực sự. Còn giai cấp công nhân phương Tây là giai cấp tiên tiến, đông đảo về lực lượng, lại được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, có khả năng gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội. Có thể thấy sự sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam chính là ở chỗ dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về xây dựng Đảng để nghiên cứu tình hình thực tế ở Việt Nam, từ đó có sự khái quát về tư tưởng, lý luận. Và, từng bước tổ chức hoạt động thực tiễn để kiểm nghiệm tính đúng đắn của những tư tưởng, lý luận đã tổng kết khái quát được của mình. C - KẾT LUẬN Qua 70 năm phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa con thuyền cách mạng nước ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, dù trong hoàn cảnh nào, bằng sự soi sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta cũng tìm ra được những đường lối đúng đắn, kịp thời sửa chữa những hạn chế còn mắc phải. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã thành công rực rỡ nhằm đề ra những chủ trương, đường lối, chính sách để phát triển và xây dựng đất nước phù hợp với tình hình hiện nay; việc học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản để soi sáng cho cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng càng cấp bách hơn bao giờ hết. Vì vâ ̣y, nhờ những tiền đề vững chắc cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng ta sẽ hoàn thành được mục tiêu của mình, đưa nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nhận thức cơ bản. TS. NGUYỄN MẠNH TƯỜNG (chủ biên). NXB chính trị quốc gia. Hà Nội – 2009. 2. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976. 3. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh. Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyê ngành Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bộ giáo dục và đào tạo.NXB chính trị quốc gia. 4. Giáo trình của Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan