Khái niệm luật La Mã rất rộng, được hiểu dưới nhiều góc độ khác
nhau. Ví dụ luật La Mã là truyền thống luật La Mã trong lịch sử pháp luật
châu Âu, dựa trên Bộ Luật Justinian; luật La Mã còn được hiểu là luật thông
dụng (Ius Commune) được áp dụng ở hầu hết các nước châu Âu ; luật La Mã
còn là một trường phái luật pháp theo xu hướng bảo tồn những nguyên tắc
của luật La Mã… Thế nhưng khi nhắc đến khái niệm luật La Mã chúng ta
phải hiểu rằng đó là luật pháp của nhà nước La Mã cổ đại kéo dài suốt 13 thế
kỷ (từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ VI sau Công nguyên).
Những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực xây dựng pháp luật của nhà nước La
Mã là một trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất trong lịch sử nhân
loại, có thể so sánh với Kim tự tháp của Ai Cập, Vạn lý trường thành của
Trung quốc… Theo Ăng- ghen: “Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn
thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu. Sự thể hiện pháp lý những điều kiện sống
và những xung đột xã hội trong đó thống trị tư hữu mà những nhà làm luật
sau đó không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn…”.
Cho đến ngày nay, người ta vẫn luôn đặt ra câu hỏi tại sao kỹ thuật
xây dựng luật pháp của các luật gia La Mã lại hoàn thiện đến mức khó tin
như vậy. Chỉ lấy một ví dụ trong phần hợp đồng thì so với luật pháp hiện đại
người ta chỉ thấy thiếu một loại hợp đồng duy nhất, đó là hợp đồng bảo
hiểm.
Sẽ không thái quá khi nói rằng luật La Mã là cơ sở, là nền tảng của
pháp luật hầu hết các nước trên thế giới và đối với những nhà làm luật,
những người nghiên cứu luật pháp thì việc nghiên cứu luật La Mã là điều
gần như không thể bỏ qua. Gomsten cho rằng:
“Nghiên cứu luật pháp phải bắt đầu từ luật La Mã, bởi vì nếu không
nghiên cứu luật La Mã thì tổn phí biết bao công sức một cách vô ích để tìm
thấy cái mà người ta đã tìm thấy từ lâu”.
Nói đến luật La Mã chúng ta không thể không nhắc tới Luật XII bảng,
Bộ Luật Justinian, tên tuổi các luật gia La Mã nổi tiếng như Gai, Pavel,
Ulpian, Modestin, Papinian và Hoàng đế Justinian.
Khái niệm luật “dân sự” La Mã rộng hơn so với khái niệm luật dân sự
Việt Nam, bao gồm cả tố tụng dân sự, hôn nhân gia đình. Luật dân sự La Mã
bao gồm nhiều chế định khác nhau như sở hữu, nghĩa vụ hợp đồng, thừa kế,
thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi tài sản không có căn cứ…
Trong đó, thừa kế là một chế định rất quan trọng.
Thừa kế (hereditas): Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển
dịch tài sản của người chết cho người còn sống”. Quyền thừa kế là quyền
thừa hưởng tài sản của người chết để lại theo một trình tự do pháp luật quy
định. Pháp luật cho phép những người thừa kế được hưởng di sản đồng thời
buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản của người chết.
Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc
(testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh
của các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó
thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
Thời điểm mở thừa kế: Là thời điểm người có tài sản chết. Việc xác
định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định
khối di sản của người chết để lại; xác định sự gia tăng hay giảm sút di sản để
xác định trách nhiệm cho người bảo quản, xác định thời hiệu khởi kiện (3
năm).
Di sản thừa kế:Bao gồm khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người
chết và các quyền tài sản của người chết chưa thực hiện (quyền thừa kế,
quyền đòi nợ). Một vấn đề rất quan trọng là theo luật La Mã, các nghĩa vụ về
tài sản của người chết không phải là di sản thừa kế. Ví dụ A chết để lại tài
sản là 100 aosơ (as), A nợ B 30 aosơ, vậy di sản thừa kế của A là:100 – 30 =
70 aosơ.
Người thừa kế:Là những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế,
nếu “người thừa kế” là thai nhi thì phải được sinh ra sau khi người để lại tài
sản chết 300 ngày (10 tháng). Luật XII bảng quy định: “Tôi được biết rằng
khi người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ mười một sau khi chồng chết thì (ở
đó) có việc dường như người đàn bà có thai sau khi chồng chết, bởi vì Ủy
ban mười người đã ghi rằng con người sinh ra vào tháng thứ mười chứ
không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)”. Người thừa kế có quyền sở
hữu tài sản thừa kế, có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết trong
phạm vi di sản được hưởng, có quyền từ chối không nhận di sản.
Thừa kế theo di chúc (testato):Di chúc là ý chí chủ quan của người có
tài sản định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Theo luật gia
Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực
hiện sau khi chúng ta chết”.
Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép “im lặng bỏ
qua” đối với hàng thừa kế thứ nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu
“im lặng bỏ qua” thì di chúc vô hiệu mặc dù tuân thủ đầy đủ các điều kiện
khác. Ví dụ ông A có ba người con là B, C, D, ông để lại di chúc với nội
dung: “Tôi cho hai con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản” mà không ghi
“truất quyền thừa kế của D” thì di chúc vô hiệu vì đã im lặng bỏ qua D. Nếu
A chết tài sản sẽ được chia theo luật cho B, C, D. Người lập di chúc có
quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu có người lập
nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc trước. Luật La Mã quy
định khá chặt chẽ các điều kiện để một di chúc có hiệu lực như: người lập di
chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái từ 12 tuổi, con trai từ 14 tuổi trở
lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình thức di chúc phải phù
hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan chấp
chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy người làm chứng, người thừa
kế phải được chỉ định rõ ràng, chính xác); người được chỉ định trong di chúc
phải là người có khả năng trở thành người thừa kế (thai nhi sinh vào tháng
thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến 50 tuổi mà không
lập gia đình thì không được hưởng thừa kế…).Một nguyên tắc quan trọng
của luật La Mã và thừa kế là Semel heres, semper heres – người được chỉ
định là người thừa kế sẽ vĩnh viễn là người thừa kế. Điều này có nghĩa là
luật pháp chỉ công nhận di chúc có điều kiện phát sinh, không công nhận di
chúc có điều kiện đình chỉ. Ví dụ một di chúc có nội dung sau: “Tôi không
cho con tôi là M hưởng tài sản nếu nó không thi đậu vào trường Trung cấp
pháp lý La Mã”. Trường hợp này, M vẫn là người được hưởng di sản thừa kế
bởi vì điều kiện trong di chúc là điều kiện đình chỉ (chấm dứt) trái với
nguyên tắc “người thừa kế là vĩnh viễn”.
Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các nước có quy
định được xuất phát từ luật La Mã là việc quy định những người được hưởng
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (hay còn gọi là kỷ phần bắt
buộc). Ở thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa La Mã sơ khai) thì gia chủ chia tài
sản như thế nào thì sẽ là như thế (Unti legassit super pecunia tutelave suae
rei ita ius esto). Nhưng dần dần về sau đối với những người ở hàng thừa kế
thứ nhất nếu bị người lập di chúc truất quyền thừa kế thì sẽ được hưởng một
kỷ phần bắt buộc.
Thời kỳ đầu, kỷ phần bắt buộc bằng ¼ một suất thừa kế nếu chia theo
luật. Ví dụ A có hai con là B và C, A di chúc cho B toàn bộ tài sản, truất
quyền thừa kế của C, vậy nếu A chết thì tài sản của A sẽ được chia như sau
(giả sử A có 100 aosơ):
Một suất thừa kế là 100 : 2 = 50 aosơ
C sẽ được hưởng ¼ 50 aosơ = 12,5 aosơ, B được hưởng: 100 – 12,5 =
87,5 aosơ.
Dưới thời Hoàng đế Justinian việc phân chia kỷ phần bắt buộc rất chi
tiết với nguyên tắc sau: nếu như một suất thừa kế được chia lớn hơn ¼ di sản
thừa kế thì kỷ phần bắt buộc là 1/3 một suất thừa kế; nếu như một suất thừa
kế nhỏ hơn hoặc bằng ¼ giá trị di sản thì kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất
thừa kế.
Có thể diễn giải như sau: nếu người chết có số con nhỏ hơn 4 (1, 2, 3)
thì một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3 một suất thừa kế. Còn nếu người đó có 4
con trở lên thì một kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất thừa kế.
- Ví dụ 1: A có 3 con là B, C, D. A di chúc cho B toàn bộ 900 aosơ, C và D
bị truất quyền thừa kế. Đầu tiên ta phải xác định một suất thừa kế nếu chia
theo luật = 900 : 3 = 300 aosơ. Vì một suất thừa kế là 300 aosơ lớn hơn ¼ di
sản (1/4 di sản bằng 900 : 4 = 225 aosơ) nên C , D mỗi người sẽ được hưởng
1/3 một suất thừa kế = 1/3 x 300 = 100 aosơ, B được hưởng: 900 – (100 +
100) = 700 aosơ.
- Ví dụ 2: A có 6 con B, C, D, E, G, H; A di chúc cho B toàn bộ 900
aosơ,
những
người
còn
lại
bị
truất
quyền
thừa
kế.
Một suất thừa kế là 900 : 6 = 150 aosơ. Vì một suất thừa kế nhỏ hơn ¼ di
sản (225 aosơ) nên một kỷ phần bắt buộc là ½ x 150 = 75 aosơ. Vậy C, D, E,
G, H mỗi người được hưởng 75 aosơ; B được hưởng: 900 – (75 x 5) = 525
aosơ.
Một nguyên tắc quan trọng khác của luật La Mã là không được tiến
hành chia một di sản vừa theo di chúc vừa theo luật. Nghĩa là nếu có di chúc
thì chỉ được chia theo di chúc, người được hưởng kỷ phần bắt buộc không
được hiểu là được chia thừa kế theo luật.
Ví dụ ông A có 2 con là B và C, tài sản của ông là 300 aosơ, ông di
chúc cho B 100 aosơ và truất quyền thừa kế của C. Trong trường hợp này
nếu A chết B sẽ được hưởng toàn bộ di sản (sau khi chia kỷ phần bắt buộc
cho C) vì số di sản không được định đoạt trong di chúc không chia cho B, C
theo luật được. Cụ thể: C được hưởng một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3 của
một suất thừa kế (150 aosơ) = 50 aosơ; B được hưởng: 300 – 50 = 250 aosơ.
Di tặng (legata):
Là một phần tài sản mà người lập di chúc dành riêng cho một hoặc
nhiều người. Ở thời kỳ đầu luật La Mã không hạn chế phần tài sản di tặng
dẫn đến tình trạng lợi dụng di tặng để trốn tránh nghĩa vụ. Đến thời Justinian
di tặng được quy định không quá ¼ tổng di sản. Di tặng không tính vào khối
di sản. Việc quy định di tặng không quá ¼ di sản là rất hợp lý và được pháp
luật nhiều nước trên thế giới kế thừa.
Thừa kế theo pháp luật:Trong trường hợp không có di chúc hoặc di
chúc vô hiệu thì di sản của người chết để lại được chia theo luật. So với luật
dân sự Việt Nam, luật La Mã có sự khác biệt về việc phân chia hàng thừa kế
mà cụ thể là quy định theo hàng, bậc như sau:
- Hàng thứ nhất: Các con (các cháu nếu các con chết)
- Hàng thứ hai: Bố mẹ (nếu bố mẹ chết thì ông bà nội, ông bà ngoại,
anh chị em ruột).
- Hàng thứ ba: Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha.
- Hàng thứ tư: Họ hàng nội, ngoại theo nhánh ngang tính từ gần đến
xa, từ nội đến ngoại trong phạm vi sáu đời.
- Hàng thứ năm: Nếu không có những người ở bốn hàng trên thì quan
tòa có quyền quyết định cho vợ hưởng một phần di sản.
Với việc quy định của luật La Mã ở hàng thừa kế thứ nhất thì người
cháu luôn luôn được hưởng di sản của ông nếu bố mẹ chúng chết. Còn theo
luật dân sự Việt Nam thì cháu sẽ không được nhận thừa kế của ông nếu bố
mẹ chúng chết cùng thời điểm với ông bà. Ở hàng thừa kế thứ hai thì bố mẹ
ở bậc một, ông bà nội, ngoại, anh chị em ruột ở bậc hai. Có nghĩa là mặc dù
ở cùng một hàng thừa kế nhưng nếu có những người ở bậc một (bố mẹ) thì
những người ở bậc hai (ông bà nội ngoại, anh chị em ruột) sẽ không được
hưởng thừa kế. Mặt khác, ông bà nội, anh chị em ruột được hưởng mỗi
người một suất thì ông bà ngoại chỉ được hưởng ½ một suất thừa kế.
Ví dụ A chết để lại di sản là 400 aosơ, A không có con, không còn bố mẹ mà
chỉ còn ông bà nội ngoại và anh ruột. Vậy di sản của A sẽ được chia như
sau: ông nội 100 aosơ, bà nội 100 aosơ, anh ruột 100 aosơ, ông ngoại 50
aosơ, bà ngoại 50 aosơ.
Trải qua mấy ngàn năm, luật La Mã nói chung và chế định về quyền
thừa kế nói riêng vẫn là minh chứng hùng hồn cho quan điểm của những ai
cho rằng luật La Mã là một phần không thể thiếu được của văn minh nhân
loại. Tất nhiên cho đến nay một số quy phạm của luật La Mã không còn phù
hợp nữa. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị của
xã hội La Mã khoảng hai ngàn năm về trước khác xa so với bây giờ. Dẫu sao
một số quy định của luật La Mã thiết nghĩ rằng có thể được kế thừa vào luật
dân sự Việt Nam. Ví dụ như quy định của luật La Mã về di tặng không được
quá ¼ di sản và trên cơ sở đó có thể quy định cụ thể về phần di sản được
dùng vào việc thờ cúng (ví dụ như không quá ¼, không quá 1/5 di sản). Nếu
có những quy định cụ thể như vậy thì việc thực thi quyền thừa kế trên thực
tế sẽ dễ dàng và đồng nhất tránh được tình trạng hiểu và vận dụng luật pháp
một cách không đồng bộ, nhất quán.
- Xem thêm -