Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích nội dung của việc chuyển giao quyền yêu cầu, và chỉ ra các trường hợp ...

Tài liệu Phân tích nội dung của việc chuyển giao quyền yêu cầu, và chỉ ra các trường hợp loại trừ không thể chuyển giao quyền yêu cầu

.DOC
4
189
80

Mô tả:

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật dân sự 2005. 2. http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com 3. danluat.thuvienphapluat.com. Đề số 5: Xây dựng một tình huống có các yếu tố của việc chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ dân sự, để qua đó phân tích nội dung của việc chuyển giao quyền yêu cầu, và chỉ ra các trường hợp loại trừ không thể chuyển giao quyền yêu cầu. Bài làm 1. Tình huống: Anh A có ý định vay tiền của anh B số tiền 800 triệu đồng để làm vốn mở cửa hàng kinh doanh vật liệu xây dựng. Nhưng anh B không đồng ý vì nhận thấy tài sản của anh A không đủ để đảm bảo cho khoản tiền vay trên. Biết được việc này, để giúp A mở cửa hàng, anh C đã đứng ra bảo lãnh cho em mình, cam kết về thực hiện thay nghĩa vụ của A. Ngày 8/9/2008, A giao kết hợp đồng vay tiền với B, tổng số tiền A vay là 800 triệu đồng, thời hạn vay là 3 năm…Ngày 10/9/2008, hợp đồng bảo lãnh giữa B và C được lập thành văn bản có công chứng, hợp đồng có nội dung: Nếu khi đến hạn mà A không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, thì anh C phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho A. Sự cam kết này chỉ có B và C biết, A không hề hay biết. Ngày 8/9/2011, khi đã đến hạn trả nợ, nhưng A chưa có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả tiền, căn cứ vào hợp đồng bảo lãnh, B đã yêu cầu C thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho mình thay cho A bao gồm: 800 triệu đồng tiền gốc + 360 triệu đồng tiền lãi. Anh C hoàn toàn đồng ý và đã thực hiện theo đúng yêu cầu của B. Ngày 15/9/2011, khi đã nhận đủ số tiền trên từ C, B đã chuyển giao hợp đồng vay nợ cho C, đồng thời viết giấy thông báo cho A biết về việc quyền yêu cầu đã được chuyền giao cho C (có kèm theo hợp đồng bảo lãnh giữa B và C, giấy xác nhận C đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho B). Anh C yêu cầu A thanh toán khoản tiền trên cho mình nhưng, A trây ỳ không chịu trả khoản tiền vay gốc và lãi cho anh C với lí do: mình không biết về hợp đồng bảo lãnh khi giao kết hợp đồng vay tiền và việc chuyển giao quyền yêu cầu này chưa được sự đồng ý của người vay tiền. Sau đó, anh C đã gửi đơn kiện lên tòa án nhân dân quận X (nơi 3 người đang sinh sống), đề nghị Tòa yêu cầu anh A trả cho mình số tiền gốc + lãi đã vay của anh B cho mình. Căn cứ vào hợp đồng vay tiền, hợp đồng bảo lãnh, các qui định của pháp luật, Tòa ra phán quyết yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho C với tổng số tiền là 1 tỷ 160 triệu đồng (bao gồm cả gốc + lãi ở trên). 2. Phân tích. Ở tình huống dân sự trên, ta thấy đây là một quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu trong hợp đồng bảo lãnh, mà bản chất là sự thỏa thuận giữa người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự với người thứ ba nhằm chuyển giao quyền yêu cầu cho người đó.  Chủ thể: Bên bảo lãnh: C Bên nhận chuyển giao quyền yêu cầu: C Bên nhận bảo lãnh: B Bên chuyển giao quyền yêu cầu:B Người được bảo lãnh: A  Khách thể: Là sử xự của các bên chủ thể, thông qua đó, quyền yêu cầu cũng như nghĩa vụ của các chủ thể mới được thực hiện. Ở tình huống này, bên nhận bảo lãnh chuyển quyền yêu cầu cho bên bảo lãnh, tiếp đó, bên bảo lãnh yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình, lúc này, bên có nghĩa vụ có hành vi tác động vào tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ với bên bảo lãnh, mà cụ thể đối tượng tác động ở đây là tiền.  Nội dung của các quan hệ pháp luật chuyển giao quyền yêu cầu chính là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu đó. - Việc anh B chuyển giao quyền yêu cầu cho anh C là hoàn toàn có căn cứ pháp luật. Điều 367 BLDS: “Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, nếu không có thỏa thuận khác”. - Tiếp theo, B cũng đã tuân thủ việc chuyển giao quyền yêu cầu đúng với qui định của pháp luật. Thứ nhất, B đã cung cấp thông tin và chuyển giao giấy tờ có liên quan cho bên thế quyền (Điều 311 BLDS), cụ thể là B đã chuyển giao hợp đồng vay tài sản giữa mình và A cho C. Thứ hai, B cũng đã tuân thủ qui định tại khoản 2 Điều 309 BLDS, khi đã thông báo bằng giấy viết tay cho A biết việc chuyển giao và kèm theo đó là hợp đồng bảo lãnh giữa B với C, giấy xác nhận C đã thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho B để chứng minh tính xác thực của việc chuyển giao. Cho dù A không đồng ý nhưng việc chuyển giao vẫn có hiệu lực, A vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với C. - Quan hệ chuyển giao trong tình huống này thực chất là việc chuyển giao quyền yêu cầu trả nợ, mà quyền này thì không thuộc trường hợp pháp luật cấm chuyển giao được qui định tại khoản 1 Điều 309. Theo đó, người có quyền không được chuyển giao quyền yêu cầu trong các trường hợp sau đây: + Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Dễ thấy, các quyền trên là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân và về nguyên tắc nó không được chuyển giao. + Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận không được chuyển giao quyền yêu cầu. Việc dân sự “cốt ở hai bên”, sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện, thể hiện nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận trong pháp luật dân sự. + Những trường hợp khác mà pháp luật qui định, có thể kể ra như: người có quyền không được chuyển giao quyền yêu cầu về đặt tên cho tác phẩm, quyền yêu cầu về sửa chửa, cắt xén tác phẩm (Điều 738, Điều 742 BLDS)…  Có thể rút ra kết luận, quyền yêu cầu chỉ gắn liền với tài sản thì luôn được pháp luật cho phép chuyển giao, miễn là đúng qui định và không có sự thỏa thuận khác. 3. Nhận xét. Việc pháp luật qui định quan hệ chuyển giao quyền yêu cầu là hoàn toàn phù hợp với thực tế xã hội phức tạp hiện nay, nó làm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự linh hoạt hơn mà vẫn đảm bảo quyền lợi của các bên chủ thể. Cũng cần lưu ý rằng, chuyển giao quyền yêu cầu và việc thực hiện quyền yêu cầu thông qua người thứ ba (ủy quyền yêu cầu) là hai quan hệ pháp luật khác nhau. Đặt giả sử, trong tình huống này, giữa B và C không có hợp đồng bảo lãnh, B ủy quyền cho C thực hiện thay mình việc đòi nợ với A khi đã hết hạn cho vay. Điểm giống nhau giữa hai quan hệ này là đều có sự tham gia của chủ thể thứ ba. Về sự khác biệt, người được ủy quyền là C chỉ thực hiện quyền yêu cầu trong phạm vi ủy quyền và quyền lợi thu về vẫn thuộc B (bên có quyền yêu cầu). Còn đối với chuyển giao quyền yêu cầu thì chủ thể thứ ba (người thế quyền) ở đây là C có toàn quyền trong việc yêu cầu A (người có nghĩa vụ) thực hiện toàn bộ nghĩa vụ với mình và quan trọng quyền lợi thu được sẽ thuộc về mình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan