Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri t...

Tài liệu Phân tích nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức

.DOC
15
297
64

Mô tả:

Phân tích nội dung công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức Mục lục I.Cơ sở lý luận 1.Khái niệm công nghiệp hóa hiện đại hóa 2.Nền kinh tế tri thức Khái niệm Vai trò Đặc trưng II.Định hướng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tê tri thức 1.Vì sao phải gắn CNH HĐH với phát triển kinh tế tri thức 2.Nội dung định hướng III.Đẩy mạnh CNH HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay Nội dung bài làm: I.Cơ sở lý luận 1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa Theo văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa X, công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, quản lý xã hội từ dựa vào lao động thủ công là chính sang dựa vào lao động kết hợp cùng với phương tiện, phương pháp công nghệ, kỹ thuật, tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao. Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao động, về giá trị gia tăng, v.v..Đây là quá trình chuyển biến kinh tế-xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. 2. Nền kinh tế tri thức a.Khái niệm Kinh tế tri thức là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ, phục vụ cho phát triển kinh tế.Từ đó, nền kinh tế tri thức được hiểu là nền kinh tế chủ yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao. Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật, văn hóa-xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo.Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội. Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học-công nghệ cao mà là việc phát triển một nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho việc sản xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại. b. Vai trò  Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển chưa từng thấy của nhân loại.Kinh tế tri thức ngày càng trở nên quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các ngường tài nguyên hiện hữu.  Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Kinh tế tri thức được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao, từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế.Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh, cách mạng sinh học…; thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học-kỹ thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp;thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại, tiền tệ,…với nhiều hình thức phong phú; thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn. c. Đặc trưng Theo tiến sĩ Đặng Ngọc Dinh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Khoa học và Công nghệ) thì nền kinh tế tri thức có 5 đặc trưng nổi bật:  Vai trò quan trọng của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin  Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp  Thời gian để tiến hành công nghiệp hóa được rút ngắn  Nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng được tri thức hóa  Cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức xã hội thay đổi cơ bản Còn theo Giáo sư, Viện sĩ Đặng Hữu - nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Trưởng Ban Khoa giáo Trung ương thì tri thức, thông tin, công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy phát triển sản xuất và vai trò ấy tăng dần cùng với quá trình phát triển. Nền kinh tế tri thức có 10 đặc trưng chủ yếu:  Thứ nhất là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Trong 15 năm qua, các nền kinh tế phát triển trên thế giới đã có những chuyển đổi to lớn, sâu sắc về cơ cấu kinh tế, về cách thức hoạt động và các qui tắc hoạt động; đang phát triển nhanh các ngành kinh tế dựa vào tri thức; các ý tưởng đổi mới và công nghệ là chìa khoá cho việc tạo ra việc làm mới và nâng cao chất lượng cuộc sống.  Thứ hai là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tương lai. Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không còn phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.  Thứ ba là việc ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của công nghệ thông tin để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế mạng.  Thứ tư là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển. Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì công ty khác tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không muốn bị phá sản.  Thứ năm là xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá. Mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần thiết. Dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội được mở rộng. Người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các quyết định của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu thấy không phù hợp.  Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rất phát triển. Hệ thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi người có thể học tập bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.  Thứ bảy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức. Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng. Không phải như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức do đó là một nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm.  Thứ tám, sự sáng tạo, đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới.  Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới. Quá trình toàn cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.  Thứ mười là sự thách thức đối với văn hoá. Trong nền kinh tế tri thức xã hội thông tin, văn hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng. Nhu cầu thưởng thức văn hoá của người dân cũng tăng cao. Nhờ các phương tiện truyền thông tức thời, nhất là Internet, một sáng tác ra đời tức thời lan truyền đến mọi nơi trên thế giới. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền văn hoá có thể tiếp thu các tinh hoa của nhân loại để phát triển nền văn hoá của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro rất lớn: bị pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm văn hoá độc hại tấn công phá hoại, mà rất khó ngăn chặn. Nền văn hoá bị pha tạp lai căng không còn là chính mình nữa thì sẽ suy thoái, tiêu tan. Nhiệm vụ gìn giữ, phát huy bản sắc văn hoá mỗi dân tộc trở nên rất nặng nề. Cái chính là phải giáo dục truyền thống, phát huy các giá trị truyền thống, xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có đủ sức mạnh nội sinh. II.Định hướng phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức 1.Vì sao phải kết hợp công nghiệp hóa hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức Ở nước ta, sau 25 năm đổi mới, với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng khá; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, kinh tế phát triển chưa bền vững ;chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước. Nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào tài nguyên và lao động, giá trị do tri thức tạo ra không đáng kể; chưa khơi dậy và phát huy tối đa năng lực sang tạo của con người; nền kinh tế còn chứa đựng nhiều yếu tố phát triển không bền vững, đặc biệt đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước khác. Bởi vậy, để tiếp tục đưa đất nước phát triển trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc chuyển nền kinh tế sang hướng phát triển dựa vào tri thức trở thành yêu cầu cấp thiết, không thể trì hoãn. Báo cáo chính trị tại Đại Hội X của Đảng đã chỉ ra: "Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN gắn với phát triển KTTT, coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại." Trong dự thảo dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển mạnh khoa học, công nghệ làm động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước” 2.Nội dung của phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức a)Đẩy mạnh CNH HĐH nông nghiệp và nông thôn  Hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái nhiệt đới đa dạng sản phẩm hàng hóa, tỷ suất hàng hóa, chất lượng, năng suất và khả năng cạnh tranh cao, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.  Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ.  Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, các vùng chuyên hóa tập trung. Ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn phù hợp với điều kiện của từng vùng.  Xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Xây dựng nông thôn mới theo hướng dân chủ, công bằng, nông dân có cuộc sống no đủ, có đời sống văn hóa lành mạnh, có môi trường sạch. b)Thứ hai, phát triển kinh tế vùng  Đẩy mạnh CNH, HĐH đòi hỏi tập trung phát triển trước hết một số vùng có khả năng tăng trưởng mạnh nhất, tạo động lực lan tỏa đến các vùng khác trong nước.  Quy hoạch phát triển các vùng trọng điểm phải đặt trong quy hoạch phát triển tổng thể của cả nước và tạo các mối liên kết kinh tế cơ bản giữa các vùng và trong nội bộ từng vùng trên cơ sở phân công lao động, đưa vào lợi thế phát triển của mỗi vùng.  Cần đặc biệt quan tâm phát triển những vùng có thế mạnh tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập... Đồng thời, có cơ chế chính sách để tạo điều kiện cho các vùng còn nhiều khó khăn phát huy được tiềm năng của mình để phát triển nhanh, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo, các vùng Tây Nguyên Tây Nam và Tây Bắc. c) Thứ ba, phát triển nhanh hơn công nghiệp xây dựng và dịch vụ  Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công nghiệp phần mềm, công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động. Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất.  Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển mạnh các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế và các công ty xuyên quốc gia.  Trên cơ sở bổ sung và hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát triển công nghiệp năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Hoàn chỉnh một bước cơ bản mạng lưới giao thông, thủy lợi, cấp thoát nước... Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính - viễn thông.  Phát triển vượt bậc các ngành dịch vụ.Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng được yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn rất lớn của nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế để tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP.  Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống, mở mang các dịch vụ mới, nhất là những dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hiện đại hóa và mở rộng các dịch vụ ngân hàng theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế.  Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ. d) Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển  Phát triển nguồn nhân lực là khâu quyết định triển vọng của quá trình CNH, HĐH rút ngắn. Điều này thể hiện như sau: + Khắc phục những yếu kém về chất lượng nguồn nhân lực nước ta để đạt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế thành công và củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững. + Đây là cách thức đúng đắn để đạt mục tiêu phát triển con người. + Phát triển nguồn nhân lực chính là tạo lập cơ sở quan trọng để tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức.  Bởi vậy, chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải được xác định là một nội dung trung tâm của phát triển bền vững và của quá trình hiện đại hóa. Phát triển nguồn nhân lực cần được thực hiện theo hai hướng: Phát triển con người và hiện đại hóa khâu giáo dục, đào tạo. Ở đây, phát triển con người là nền tảng, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo là trung tâm. Ở nước ta hiện nay, giáo dục, đào tạo còn lạc hậu và chưa thích ứng với việc hình thành nguồn nhân lực của quá trình hiện đại hóa. Do đó, hiện đại hóa giáo dục, đào tạo chứ không chỉ dừng ở cải cách là một vấn đề trọng tâm, mang tính tiên quyết của quá trình hiện đại hóa. Gắn với quá trình hiện đại hóa giáo dục, đào tạo, việc đầu tư cho giáo dục đào tạo trong mối quan hệ với hiện đại hóa nguồn nhân lực, được xem là đầu tư cho sản xuất, thuộc “ngành công nghiệp nặng” và là đầu tư mang tính hiệu quả nhất.  Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp xu thế phát triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ. Chú ý đi ngay từ đầu vào công nghệ hiện đại đối với các lĩnh vực then chốt và từng bước mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế. Đồng thời, chú trọng đúng mức việc phát triển công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm.Trong vấn đề này, có ba điểm nhấn quan trọng. 1. Phát triển khoa học tự nhiên và công nghệ. Phát huy những năng lực nội sinh đi đôi với tiếp thu, làm chủ, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ thế giới. Phát triển các công nghệ cao, công nghệ thông tin, viễn thông, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa và sản xuất các dạng năng lượng mới. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ. 2. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm; xóa bỏ cơ chế hành chính bao cấp, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập. Huy động các thành phần kinh tế, đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp. 3. Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, công nghệ tài giỏi ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. III.Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay Vấn đề đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT đã được Đại hội X của Đảng đề cấp. Trong Dự thảo Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã phát triển và cụ thể hoá thêm một bước “Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới” Thực ra, từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX cho tới nay, khoa học và công nghệ đã có những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là sự bùng nổ và sự hội tụ của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô, đúng như những tiên đoán của C. Mác và Ph. Ăngghen từ giữa thế kỷ XIX, “tri thức sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”; “giá trị của lao động cơ bắp trong sản phẩm làm ra sẽ giảm còn cực nhỏ”; “lực lượng sản xuất tinh thần”; “sự xuất hiện công nhân khoa học”... thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển đổi từ kinh tế công nghiệp sang KTTT. Phát triển kinh tế tri thức ở nước ta thực chất là vận dụng tri thức mới, công nghệ mới vào tất cả các ngành kinh tế, làm tăng nhanh giá trị gia tăng của sản phẩm; giảm thiểu tiêu hao nguyên liệu và lao động; tăng hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm; dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá. Giải pháp có tính đột phá cho thành công của chiến lược này là giải phóng các nguồn lực, quan trong nhất là nguồn lực con người, phát huy năng lực sáng tạo đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN. Bởi, sáng tạo và đổi mới là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội, là năng lực nội sinh của nền KTTT ngày nay. Là một nước nông nghiệp đi lên, trong bối cảnh toàn cầu hoá, để phát triển nền KTTT cần tiến hành đồng thời và lồng ghép hai quá trình: quá trình chuyển từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp và quá trình chuyển từ kinh tế nôngcông nghiệp lên KTTT trong điều kiện chuyển đổi cơ chế từ kế hoạch hoá, từ tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng XHCN. Đây là cả một sự nghiệp vô cùng khó khăn. Trong khi đối với các nước đi trước đó là hai quá trình kế tiếp nhau. Nền kinh tế Việt nam do đó phải theo theo mô hình kinh tế hai tốc độ, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước phát triển nhảy vọt. Một mặt tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Mặt khác đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế, phát triển các ngành, các vùng kinh tế mũi nhọn tạo thành đầu tàu có sức kéo lôi mạnh toàn bộ nền kinh tế đi lên1[6]. Trong thời đại kinh tế tri thức, Việt Nam có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian để đi ngay vào các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, không lệ thuộc vào cơ sở hạ tầng đã có. Trong các lĩnh vực công nghiệp dựa vào tri thức, nhất là công nghệ thông tin, Việt Nam có thể chọn một số lĩnh vực để bứt phá lên trước. Nhiệm vụ trung tâm là sử dụng tri thức mới, công nghệ mới của thời đại kết hợp với sáng tạo tri thức mới, công nghệ mới để nhanh chong chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng cao. Đây chính là yêu cầu và nội dung của công cuộc CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển KTTT ở nước ta đòi hỏi tiến hành một cuộc đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc hơn nữa - một cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trong đó trọng tâm là: Đổi mới tư duy và cách thức phát triển kinh tế: đổi mới giáo dục đào tạo; đổi mới các hoạt động khoa học và công nghệ; đổi mới thể chế, chính sách và cơ chế quản lý… Trong tổng thế những nội dung đổi mới toàn diện, cần tập trung trọng tâm vào việc nhận thức lại và thực hiện đúng chức năng, vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế, từ điều khiển, chỉ huy sang là “kiến trúc sư” của nền KTTT, định hướng phát triển, tạo môi trường thuận Tài liệu tham khảo www.ajc.edu.vn Tạp chí thông tin công tác tư tưởng www.thanhnien.com.vn 1
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan