Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội...

Tài liệu Phân tích nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội. nguyên tắc này được cụ thể hóa như thế nào trong pháp luật người khu

.DOC
16
139
87

Mô tả:

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................1 NỘI DUNG.......................................................................................................1 I. Lí luận chung về người khuyết tật..........................................................1 1. Khái niệm người khuyết tật.................................................................1 2. Đặc điểm người khuyết tật...................................................................1 2.1 Đặc điểm người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội..............1 2.2 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết tật...............................................................................................2 II Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật..................................................3 1, Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội...............................................................................................................3 1.1 Cơ sở nguyên tắc.............................................................................3 1.2 Nội dung nguyên tắc.......................................................................4 1.3. Mục đích của việc tham vấn..........................................................4 1.4 Qúa trình tham vấn.........................................................................6 2. Việc cụ thể hóa nguyên tắc tham vấn trong luật người khuyết tật..8 III. Liên hệ nguyên tắc tham vấn người khuyết tật trong thực tiễn.......9 1, Kết quả đạt được:.................................................................................9 2. Tồn tại thiếu sót:.................................................................................11 3. Phương hướng khắc phục..................................................................13 3.1 Nâng cao nhận thức xã hội về khuyết tật và người khuyết tật. 13 3.2 Cải cách soạn thảo văn bản pháp luật........................................13 KẾT LUẬN....................................................................................................14 LỜI NÓI ĐẦU Là đối tượng, thực thể tồn tại trong xã hội, người khuyết tật có đầy đủ những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong đó có quyền được tham vấn trong quá trình soạn thảo văn bản pháp luật, các vấn đề liên quan đến người khuyết tật. Để hiểu thêm về nguyên tắc này em xin đi vào tìm hiểu đề tài: " Phân tích nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội. Nguyên tắc này được cụ thể hóa như thế nào trong pháp luật người khuyết tật. Liên hệ với thực tiễn" NỘI DUNG I. Lí luận chung về người khuyết tật 1. Khái niệm người khuyết tật Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác. 2. Đặc điểm người khuyết tật 2.1 Đặc điểm người khuyết tật dưới góc độ kinh tế - xã hội Trước hết người khuyết tật là nhóm dân cư đặc biệt phải chịu nhiều thiệt thòi về mặt kinh tế - xã hội và nhân khẩu học: những gia đình có người khuyết tật có xu hướng hoặc thiếu nhân lực lao động hoặc có nhiều người sống phụ thuộc. Học vấn của các thành viên trong những gia đình người khuyết tật thường không cao. Nhiều chủ hộ gia đình lại chính là người khuyết tật có sức khỏe yếu. Tài sản của gia đình người khuyết tật thường nghèo nàn, thu nhập ở mức thấp, vì vậy điều kiện sống và sinh hoạt là không tốt, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống, sức khỏe, phúc lợi của các thành viên trong gia đình. Ngoài ra, người khuyết tật từ 15 tuổi trở lên rất khó có việc làm, hầu hết người khuyết tật hoặc chưa bao giờ đi làm hoặc đã từng đi làm nhưng lại bị thất nghiệp. Khuyết tật là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thất nghiệp của họ. Mặt khác, vì tình trạng khuyết tật gây ra, người khuyết tật phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi trong mọi mặt của cuộc sống: khuyết tật là nguyên nhân 1 chính gây ra nhiều khó khăn cho người khuyết tật trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày, trong giáo dục, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y tế, kết hôn, sinh con và tham gia các hoạt động xã hội. Để khắc phục những khó khăn này, người khuyết tật chủ yếu dựa vào gia đình, nguồn giúp đỡ chính đối với họ. Những khó khăn càng trở nên trầm trọng hơn do thái độ tiêu cực của cộng đồng đối với người khuyết tật. Quan niệm của xã hội về người khuyết tật còn tiêu cực dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử: Điều này diễn ra dưới nhiều hính thức, ở nhiều bối cảnh khác nhau. Trong cộng đồng, nhiều dân cư coi người khuyết tật là "đáng thương", không có cuộc sống bình thường, là gánh nặng của xã hội,,, Về nhận thức pháp luật nhiều người không hề biết đến quy định của pháp luật về người khuyết tật. Từ đó dẫn đến sự kì thị, phân biệt đối xử và nó diễn ra ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực: gia đình, nơi làm việc, giáo dục hôn nhân gia đình, tham gia hoạt động xã hội, thậm chí sự kì thị từ chính người khuyết tật Hoạt động hỗ trợ người khuyết tật còn nhiều hạn chế, thực tế cho thấy có sự khác biệt rất lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật và những giúp đỡ mà họ nhận được. Sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng mang tính từ thiện nhiều hơn là phát triển con người. Hầu hết người khuyết tật được hỗ trợ bảo hiểm y tê, bảo hiểm xã hội, lương thưc.. nhưng lại ít được trợ giúp trong việc làm, dạy nghề và tham gia hoạt động xã hội. 2.2 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật và mức độ khuyết tật Trên thế giới, ở mỗi quốc gia có thể có các quy định khác nhau về một số dạng tật song nhìn chung hầu hết và phổ biến là các dạng khuyết tật giống như đã được quy định tại luật người khuyết tật Việt Nam bao gồm: khuyết tật vận động, khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật thần kinh tâm thần, khuyết tât trí tuệ, khuyết tật khác. Mỗi dạng khuyết tật này đều có những đặc điểm riêng, chung về tâm, sinh lí, về khả năng qua đó có tác động đến các nhu cầu của bản thân và có 2 ảnh hưởng qua lại, tác động đáng kể tới môi trường xung quanh làm xuất hiện những hệ quả pháp lí trong quá trình hòa nhập cộng đồng Về đặc điểm chung: ở những người khuyêt tật vận động, khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn đều có bộ não phát triển bình thường. Nếu được quan tâm tạo môi trường thuận lợi, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn có thể tiếp thu được chương trình học tập, làm việc, tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội của cộng đồng, trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên do hạn chế về thể chât hoặc giác quan nên họ có tâm lí tự ti, mặc cảm về những khuyết tật của mình, thường gặp khó khăn trong giao tiếp và trên một số lĩnh vực thì hiệu xuất công việc không cao hoặc không thể tham giá. Do hoàn cảnh khuyết tật hoặc các yếu tố khác về kinh tế, môi trường… nên nhiều người không có điều kiện để rèn luyện, khắc phục những hạn chế ngay tư sớm, khiến họ trở nên lúng túng vụng về trong một số kĩ năng. Điều này làm cho họ dễ cảm thấy thiếu tự tin trong giao tiếp với người xung quanh - Tình trạng sẽ tồi tệ hơn nếu như khiếm khuyết của họ thay vì nhận được sự cảm thông lại vấp phải thái độ giễu cợt hoặc thiếu kiên nhẫn của mọi người. Tuy nhiên đại bộ phận trong số họ đều có ý chí và khát vọng vươn lên khắc phục những khiếm khuyết về thể chất hay giác quan của bản thân để tự khẳng định mình, tham gia học tập, làm việc và sinh hoạt như mọi thành viên khác trong xã hội II Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật Dưới góc độ lí luận nhà nước và pháp luật, các nguyên tắc của pháp luật được hiểu là quan điểm tư tưởng chỉ đạo trong quá trình ban hành, thực thi , áp dụng và sửa đổi bổ sung pháp luật 1, Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội 1.1 Cơ sở nguyên tắc Cơ sở của nguyên tắc này là cam kết của cộng đồng quốc tế trong công ước về quyền của người khuyết tật: "trong việc xây dựng và thực thi luật pháp 3 và chính sách để thực hiện Công ước này và trong quá trình ra quyết định về những vấn đề có liên quan tới người khuyết tật, các quốc gia thành viên cần có sự tham vấn chặt chẽ và tham gia tích cực cuả người khuyết tật, các quốc gia thành viên cần có sự tham vấn chặt chẽ và tham gia tích cực của người khuyết tật bao gồm trẻ em khuyết tật, thông qua các tổ chức đại diện của họ" (khoản 3 điều 4 các nghĩa vụ chung). 1.2 Nội dung nguyên tắc Nội dung nguyên tắc này được hiểu là khi ban hành hoặc phê chuẩn các văn bản pháp luật, chính sách về người khuyết tật các nhà lập pháp, xây dựng chính sách cần tham vấn rộng rãi mọi cá nhân hoặc tổ chức, đặc biệt là người khuyết tật và các tổ chức đại diện cho họ, các tổ chức xã hội liên quan (ví dụ: công đoàn và tổ chức đại diện của người sử dụng lao động) các tổ chức cung cấp dịch vụ cho người khuyết tật, các chuyên gia tư vấn độc lập.. mỗi tổ chức cá nhân này dưới góc nhìn và kinh nghiệm của họ đưa đến những cách tiếp cận khác nhau về vấn đề cần giải quyết. Tổng hợp lại sẽ cho người làm luật, hoạch định chính sách có cái nhìn tổng quát để giải quyết vấn đề trên cơ sở sự hài hòa giũa quyền của người khuyết tật với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể. Tuy nhiên phương pháp cách thức tổ chức tham vấn, vị trí cũng như giá trị tham vấn của tổ chức, cá nhân là khác nhau tùy thuộc vào mô hình tổ chức của mỗi quốc gia 1.3. Mục đích của việc tham vấn Tham vấn hay việc lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của công chúng khi soạn thảo hoặc điều chỉnh luật pháp, sẽ giúp những nhà lập pháp và hoạch định chính sách quy tụ được các ý kiến đóng góp của công chúng, qua đó bảo đảm hiệu lực, hiệu quả và tính dễ được chấp nhận của luật pháp và chính sách. Cụ thể  Đối với những tổ chức đại diện cho người khuyết tật thì những thông tin đầu tiên có thể thu thập được thông qua việc tham vấn với những tổ chức đại diện cho người khuyết tật hoặc vì người khuyết tật, hoặc trực tiếp thông qua những người khuyết tật là rất quan trọng. 4 Có rất nhiều loại người khuyết tật khác nhau. Một số tổ chức khác nhau có thể tồn tại để đại diện cho những quyền lợi của những nhóm người khuyết tật khác nhau. Ở bất kỳ trường hợp nào, tất cả các tổ chức có tính đại diện cao cần phải được tham vấn. Hội đồng người khuyết tật quốc gia hay một mạng lưới những tổ chức người khuyết tật quốc gia cũng thường tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tham vấn. Sự hỗ trợ từ cộng đồng đối với người khuyết tật rất quan trọng đối với sự thành công của bất kỳ chính sách nào. Nếu không có sự hỗ trợ này, người khuyết tật có thể tẩy chay chính sách, chẳng hạn, họ sẽ không đăng ký như một người khuyết tật; không xin sự hỗ trợ tài chính hay vật chất; không tìm kiếm người giám sát việc thi hành quyền lợi cá nhân thông qua tòa án. Nếu không có sự hỗ trợ này, luật hay chính sách đều có khả năng thất bại.  Đối với người người sử dụng lao động: Trong luật hay chính sách nhằm tăng cường cơ hội việc làm cho người khuyết tật phải quy định trách nhiệm đối với những người sử dụng lao động. Để có thể tác động được đến những người sử dụng lao động, điều quan trọng là cần phải hiểu quan điểm của họ trước khi thông qua hay sửa đổi luật pháp, chính sách. Cần khẳng định rằng, ở mọi nơi cần làm việc trong sự hợp tác với những người sử dụng lao động. Ở nhiều nước có tổ chức giới chủ có tính đại diện rất cao (đại diện cho một số đông giới sử dụng lao động). Những ngành công nghiệp khác nhau hay những khu vực khác nhau có khả năng cung cấp những cơ hội việc làm khác nhau cho người khuyết tật. Bằng việc tham vấn với các tổ chức đại diện người khuyết tật, các chính sách và luật pháp sẽ có tính hiệu quả và tính khả thi cao hơn. Trong thực tế người sử dụng lao động thường xuyên phản đối các trách nhiệm liên quan tới việc làm của người khuyết tật cũng như những nghĩa vụ trong các lĩnh vực khác. Thay vào đó, những người sử dụng lao động lại mong muốn một chính sách tự nguyện. Để áp dụng chính sách tự nguyện 5 này tức là phải thay đổi cách làm và chuyển sang việc hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật bằng việc áp đặt những nghĩa vụ theo luật định cho người sử dụng lao động.  Đối với tổ chức công đoàn: việc tham vấn là nhằm bảo vệ quyền lợi cho lao động khuyết tật khi tiến hành xây dựng luật. Một số tổ chức công đoàn có thể ủng hộ sự tham gia của người khuyết tật. Một số khác có cảm giác bị đe doạ khi đẩy mạnh việc làm cho người khuyết tật do thành viên của những tổ chức này chỉ gồm những người không khuyết tật. Mặt khác, công đoàn có thể tích cực tiếp cận thúc đẩy việc làm của người khuyết tật, có khả năng giúp mọi người hiểu giá trị của việc này trong việc xây dựng chính sách có hiệu quả. Một số công đoàn, đặc biệt những công đoàn đại diện cho những công nhân làm việc trong những ngành cần nhiều lao động, công việc cường độ cao hay nguy hiểm, ở những nơi mà người lao động dễ bị tai nạn lao động dẫn đến bị khuyết tật, họ có kinh nghiệm và kiến thức trực tiếp trong việc giải quyết, khôi phục và giúp đưa những công nhân bị khuyết tật này trở lại công việc. Hơn nữa, nhiều tổ chức công đoàn đại diện cho công nhân làm việc trong cùng ngành công nghiệp, nên họ biết rất rõ về những điều kiện làm việc không thuận lợi có thể gây nên tai nạn trong quá trình làm việc dẫn tới tàn tật hoặc bị thương. Do đó, họ là những người tốt nhất tư vấn cho người lao động và người chủ sử dụng lao động cách phòng tránh nó. 1.4 Qúa trình tham vấn  Bước Một: xác định sự cần thiết của luật pháp hay chính sách. Sự cần thiết này có thể được xác định bởi cơ quan lập pháp và những người hoạch định chính sách hoặc từ các nhóm mục tiêu. Đây là điểm bắt đầu của quá trình tham vấn. Khi những cá nhân hay những nhóm mục tiêu nhận ra sự cần thiết phải ban hành văn bản luật hay chính sách nào đó, việc xác định các nội dung cơ bản của chính sách thông qua sự hỗ trợ của các nhóm mục tiêu trong bước này rất quan trọng. 6  Bước Hai: Đây là một phần trong quá trình bắt đầu xác định và sắp xếp những vấn đề/nhu cầu đã được đưa ra. Thông thường những vấn đề ban đầu tưởng như khá đơn giản và chỉ một chiều, thật sự lại là một vấn đề phức tạp, ba chiều. Bước này bao gồm việc xác định một số kết quả bổ sung nào đó cho các văn bản luật pháp hoặc chính sách cần tham vấn. Chẳng hạn, số liệu thống kê đưa ra nhấn mạnh những tỷ lệ việc làm rất thấp của những người khuyết tật, trong khi thực tế đòi hỏi về việc phải cho ra đời văn bản luật hay chính sách không phân biệt đối xử. Thật ra, các số liệu thống kê có thể không thể hiện thực tế phân biệt đối xử. Có thể quốc gia có những số liệu chính xác về người khuyết tật tham gia trong chương trình bảo hiểm tàn tật và chương trình hiện tại không khuyến khích việc rời bỏ lợi ích để theo đuổi công việc. Vấn đề trung tâm khác có thể là những tổ chức không đủ số lượng công việc để bố trí theo nhu cầu của người khuyết tật.  Bước Ba: Bước này bắt đầu bằng việc tiếp tục tinh lọc sự tham vấn từ những nhóm mục tiêu để cung cấp một bức tranh toàn diện hơn về những nội dung và những kinh nghiệm cần được xem xét. Việc nhận ra vấn đề tiềm ẩn cần đề cập trong chính sách, luật pháp tại bước này đặc biệt quan trọng trước khi nó được làm sáng tỏ.  Bước Bốn: Khi vấn đề đã được phát hiện, có thể nghiên cứu sâu hơn và đưa ra công khai xin ý kiến nhằm đạt được sự đồng thuận trong bố cục của văn bản luật hay chính sách. Nếu đây là nguồn gốc cơ bản phát sinh vấn đề thì phiếu trình bày ý kiến có thể là phương tiện chuyển tải để nêu vấn đề với những người hoạch định chính sách. Nếu vấn đề đã được người hoạch định chính sách nắm vững, họ có thể giúp những cơ quan lập pháp trong việc soạn thảo các kiến nghị đối với việc điều chỉnh văn bản pháp luật hoặc chính sách.  Bước năm: Khi đề nghị đã được đưa ra công khai đối với tất cả các nhóm mục tiêu, việc tìm kiếm sự hỗ trợ của chuyên gia để giúp hiểu rõ yêu cầu của các nhóm mục tiêu là cần thiết, và điều đó sẽ được thể hiện 7 trong phác thảo cuối cùng. Đây là quá trình hiệu chỉnh theo đó các tác giả của các phiếu đóng góp ý kiến sẽ làm việc với cơ quan có thẩm quyền để trình bày các ý kiến và ý tưởng của họ.  Bước Sáu: Thực hiện tinh lọc các đề xuất lập pháp hay chính sách. Yêu cầu cơ bản của bước này là tạo sự cân bằng lợi ích giữa các nhóm khác nhau. Bước này bao gồm nghệ thuật thương lượng khi bạn cố gắng thiết lập sự cân bằng lợi ích giữa các nhóm liên quan.  Bước Bảy: Ý tưởng của bước cuối cùng là soạn thảo sơ bộ một Dự thảo luật hay chính sách. Tuy nhiên, quá trình tư vấn có thể bao gồm nhiều công đoạn riêng biệt trước khi bản Dự thảo này được đưa tới cấp bộ và được gửi tới Bộ Tư pháp hay một cơ quan chức năng tương đương, và sau đó lên Nội các của Chính phủ và các Ủy ban của Nghị viện để thông qua. Cách thức soạn thảo luật pháp được phát triển tùy thuộc vào Luật pháp của nước đó. 2. Việc cụ thể hóa nguyên tắc tham vấn trong luật người khuyết tật Trên cơ sở nguyên tắc đó, tại khoản 2 điều 7 luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010 quy định như sau: 2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm vận động xã hội trợ giúp người khuyết tật tiếp cận dịch vụ xã hội, sống hòa nhập cộng đồng; tham gia xây dựng, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật và chương trình, đề án trợ giúp người khuyết tật. Đồng thời điều 9 luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010 cũng quy định: "1. Tổ chức của người khuyết tật là tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên là người khuyết tật, tham gia xây dựng, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật. 8 2. Tổ chức vì người khuyết tật là tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động trợ giúp người khuyết tật. Theo đó thì khi xây dựng, ban hành một văn bản pháp luật nào liên quan đến người khuyết tật thì trong quá trình soạn thảo, cơ quan có chức năng sẽ phải tham vấn ý kiến của các tổ chức của người khuyết tật, mặt trận tổ quốc Việt Nam để lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo. Việc lấy ý kiến này có thể bằng nhiều hình thức từ việc tổ chức các buổi hội thảo trực tiếp hoặc chuyển văn bản, qua các phiếu câu hỏi để lấy ý kiến của từng cơ quan tổ chức có liên quan. Đây là hoạt động rất quan trọng vì trước hết là tạo ra được sự công, minh bạch trong xã hội theo nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Nhờ vậy sẽ tạo được sự đồng thuận trong nhân dân, đặc biệt là những đối tượng yếu thế trong xã hội đó là người khuyết tật, là cơ sở pháp lí để bảo vệ quyền của người khuyết tật khi được biết về những chính sách, quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến bản thân mình, tránh sự quan liêu. Mặt khác việc cụ thể hóa nguyên tắc tham vấn trong luật sẽ giúp các chính sách pháp luật từng bước hoàn thiện hơn bởi vì thực chất luật pháp cũng phải dựa trên nền tảng thực tiễn, những đòi hỏi của thực tiễn mà ra. III. Liên hệ nguyên tắc tham vấn người khuyết tật trong thực tiễn 1, Kết quả đạt được: Theo số liệu báo cáo khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006 của Tổng cục thống kê, số người khuyết tật chiếm 15,3% tổng dân số Việt Nam, tức là khoảng 12 triệu người.Vấn đề liên quan đến người khuyết tật đã có được sự quan tâm của chính phủ, thể hiện qua hệ thống chính sách khá đầy đủ, trong đó có Pháp lênh về người tàn tật 1998. Năm 2008, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật vừa được Liên Hiệp Quốc thông qua. Luật về người khuyết tật đã có hiệu lực từ 01/01/2011. 9 Trong giai đoạn soạn thảo luật người khuyết tật, việc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và các tổ chức xã hội được thực hiện khá đầy đủ. Bởi lẽ tiếng nói của người khuyết tật thông qua nhóm/hội của họ là rất quan trọng và cần thiết trong giai đoạn này. Hỗ trợ việc thành lập và tăng cường năng lực của các nhóm tư vấn đồng cảnh này sẽ giúp họ tham gia hiệu quả và có tiếng nói đoàn kết giúp thúc đẩy chính sách bảo về quyền của chính người khuyết tật. Đồng thời việc tham vấn cũng được thực hiện tại cấp chính quyền địa phương. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban Các vấn đề Xã hội của Quốc hội tổ chức Hội thảo khu vực phía Nam “Tham vấn về dự án Luật Người khuyết tật và việc thực hiện pháp luật về lao động đối với lao động nữ” đã được nghe 7 bài tham luận và đóng góp ý kiến của các địa phương như: Sở LĐ –TBXH Cần Thơ, Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động các tỉnh thành nói trên cùng với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động tàn tật nêu lên nhiều vấn đề bức xúc và kiến nghị với các Bộ, ngành và Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội về các vấn đề liên quan đến người khuyết tật tại các địa phương như: TP.HCM khiến nghị các chính sách cho người khuyết tật gồm: trợ cấp xã hội, chỉnh hình phục hồi chức năng, chăm sóc sức khỏe, học văn hóa, học nghề và tạo công ăn việc làm, các dịch vụ tiếp cận các công trình công cộng (xây dựng, giao thông), lĩnh vực văn hóa, thể thao và các hoạt động trợ giúp khác cho người khuyết tật. Bình Dương, Đồng Nai và Cần Thơ cũng có chung kiến nghị về quy định rõ các nguồn lực để thể hiện các chính sách, giải pháp trợ giúp đối với người khuyết tật; mở rộng chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối tượng để họ dễ dàng được nhận sự hỗ trợ để hòa nhập cộng đồng, làm giảm những khó khăn cho bản thân và gia đình họ. Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tạo việc làm cho người tàn tật đã được đào tạo nghề; khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia xã hội hóa những hoạt động hỗ trợ người khuyết tật; cần có quy định bắt buộc đối với việc xây dựng các công trình 10 công cộng, cơ sở vật chất của các cơ quan nhà nước, phải có thiết kế tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận được. Ngoài ra, cần có sự thống nhất giữa các tổ chức xã hội có liên quan đến người khuyết tật như: Hội Người mù, Hội Bảo trợ Người tàt tật và trẻ em mồ côi và ở một số địa phương thành lập Hội người khuyết tật. Hội thảo cũng được nghe nhiều tham luận và ý kiến đóng góp và các kiến nghị về việc thực hiện pháp luật lao động nữ tại các doanh nghiệp cụ thể như: Sửa đổi một số chính sách, chế độ áp dụng đối với lao động nữ; thực hiện ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nữ. Sau khi nghe các ý kiến, kiến nghị và đề xuất của các địa phương, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội đã ghi nhận những ý kiến tham vấn và cho rằng: đây chính là cơ sở để Uỷ ban trình Quốc hội lưu ý khi sửa đổi Bộ luật Lao động về những quy định đối với lao động nữ phù hợp trên cơ sở hài hoà lợi ích giữa các bên, đảm bảo sự bình đẳng mọi mặt của người lao động nữ, đồng thời đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và các bên liên quan. 2. Tồn tại thiếu sót: Vì tình trạng do khuyết tật gây ra, người khuyết tật phải gánh chịu rất nhiều thiệt thòi trong mọi mặt cuộc sống: khuyết tật là nguyên nhân chính gây ra nhiều khó khăn cho người khuyết tật trong việc thực hiện các công việc sinh hoạt hàng ngày. Hơn hết việc cần thiết là phải giúp đỡ họ hòa nhập vào cuộc sống. Nhà nước phải đảm bảo điều chỉnh mối quan hệ của cái chung giữa người khuyết tật với công dân bình thường khác trong xã hội. Trong khi đó việc ban hành một số văn bản luật dường như đã loại bỏ họ người khuyết tật ra khỏi đời sống cộng đồng. Cụ thể có thể kể đến như việc ban hành tiêu chuẩn sức khỏe của người khuyết tật điều khiển xe máy. Quy định lần này bổ sung các tiêu chuẩn sức khỏe cho từng loại phương tiện như xe gắn máy, môtô, ôtô, máy kéo... có tính 11 đến lái xe chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp. Quy định chia làm 3 nhóm: Nhóm 1 gồm lái xe hạng A2, C, D, E, F; nhóm 2 gồm hạng A3, A4, B1, B2; nhóm 3 gồm lái xe hạng A1. Theo đó với nhóm lái xe chuyên nghiệp, những người đã có bằng lái, cần khám tuyển lại, yêu cầu chiều cao 1,60m trở lên, với những người tuyển mới, tối thiểu phải đạt 1,62m. Đặc biệt, quy định mới cũng nêu rõ, những người mắc chứng rối loạn tâm thần cấp/mạn tính; động kinh; gù, vẹo hoặc quá ưỡn, cứng/dính cột sống... không đủ điều kiện được lái xe máy, ôtô. Người đủ 16 tuổi trở lên được lái xe gắn máy có dung tích xi-lanh dưới 50cm3. Người đủ 18 tuổi trở lên được lái xe môtô hai bánh, xe môtô ba bánh có dung tích xi-lanh từ 50cm3 trở lên và các loại xe có kết cấu tương tự... Đối với người khuyết tật phải đáp ứng đủ các điều kiện như trên, ngoài ra, người có hai chân lệch nhau 2,5-3cm không được lái xe chuyên nghiệp, cụt ngón 1-2 hoặc cụt cả bốn ngón/bàn tay không được điều khiển xe máy... Nếu chiếu theo bản tiêu chuẩn trên, thì rất nhiều người khuyết tật không đủ tiêu chuẩn. Trong khi đó, người khuyết tật không thể đi xe buýt, vì nhiều người khuyết tật không thể tự lên xe buýt được. Trước khi ban hành quy định tiêu chuẩn sức khỏe kể trên, ban soạn thảo quy định có tổ chức một vài buổi lấy ý kiến đóng góp của người khuyết tật nhưng những ý kiến của đa phần người khuyết tật gần như không được đưa vào trong bản tiêu chuẩn vừa được ban hành. Điều này cho thấy việc thực hiện tham vấn trong việc soạn thảo văn bản luật còn thực hiện nửa vời, mang nặng tính hình thức. Có tham vấn đấy nhưng không thực sự thể hiện được đúng nguyện vọng của toàn thể nhân dân nói chung và người khuyết tật nói riêng. 3. Phương hướng khắc phục 12 3.1 Nâng cao nhận thức xã hội về khuyết tật và người khuyết tật Chất lượng ban hành văn bản luật, quy định cho người khuyết tật nhằm bảo đảm các quyền của người khuyết tật phụ thuộc vào trình độ nhận thức của xã hội về vấn đề này như thế nào. Nhận thức xã hội về người khuyết tật không đầy đủ và đúng đắn được coi là một trong những rào cản lớn nhất trong việc bảo đảm quyền của người khuyết tật. Một trong những quyền đó là được tham vấn trong quá trình soạn thảo dự án luật liên quan đến mình. Các chủ thể trong xã hội nếu có nhận thức đúng đán về khuyết tật và người khuyết tật họ sẽ tôn trọng phẩm giá vốn có, quyền tự quyết cá nhân và khả năng độc lập của người khuyết tật, không phân biệt đối xử 3.2 Cải cách soạn thảo văn bản pháp luật Qua thực tiễn triển khai Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 nói chung, và việc ban hành những quy định, văn bản pháp luật liên quan đến người khuyết tật nói riêng cho thấy cần quy định cụ thể cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia góp ý kiến đối với dự thảo văn bản, đồng thời phải tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, đặc biệt là người khuyết tật, những đối tượng yếu thế trong xã hội. Thực ra vấn đề này đã được Luật ban hành quy phạm pháp luật quy định tại Điều 4 nhưng chỉ dừng ở việc quy định chung chung, chưa rõ ràng và chưa mang tính bắt buộc. Do đó, luật sửa đổi, bổ sung cần phải quy định việc tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu tác động là thủ tục bắt buộc trong quy đình xây dựng văn bản. Đồng thời cần phải quy định cơ chế kiểm tra, giám sát và chế tài như: Cơ quan thẩm định không tiếp nhận hồ sơ thẩm định nếu không có bảng tổng hợp tiếp thu ý kiến của nhân dân, đối tượng chịu tác động của văn bản... hoặc sẽ xem là vi phạm thủ tục, không công nhận hiệu lực pháp lý của văn bản 13 Cần phát triển Điều 4 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 thành một chương, hoặc mục. Trong đó quy định cụ thể, chi tiết nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch trong việc xây dựng pháp luật; quyền và nghĩa vụ của công dân, cơ quan, tổ chức trong việc tham gia góp ý kiến xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của người khuyết tật; trách nhiệm tiếp thu, giải trình, phản hồi ý kiến góp ý của các cơ quan chủ trì soạn thảo; cơ chế kiểm tra, giám sát và chế tài để xử lý vi phạm; quy trình lấy ý kiến và thời gian cụ thể của từng công đoạn của quy trình... Đồng thời pháp luật cần quy định bắt buộc đăng tải dự thảo văn bản trên mạng Internet để công khai, minh bạch lấy ý kiến rộng rãi như cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. KẾT LUẬN Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật là một nguyên tắc quan trọng của luật người khuyết tật Việt Nam. Từ nguyên tắc này quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật sẽ được đảm bảo. Tuy nhiên trong thực tiễn việc vận dụng nguyên tắc này còn nhiều tranh cãi. Do đó trong tương lai cần thực hiện nguyên tắc này nghiêm túc hơn nữa. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam 14 2. Công ước về Quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc (năm 2006) 3. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 4. các website: http://nccd.molisa.gov.vn http://www.fad.danang.gov.vn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan