Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật. n...

Tài liệu Phân tích nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật. nguyên tắc này được cụ thể hóa như thế nào trong pháp luật người khuyết

.DOC
17
133
52

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG I – KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT..........................................................1 1. Định nghĩa người khuyết tật..................................................................................1 2. Đặc điểm của người khuyết tật..............................................................................2 II - NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG VÀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT............................................................................................2 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc................................................................................2 2. Nội dung của nguyên tắc........................................................................................4 3. Ý nghĩa của nguyên tắc..........................................................................................6 III - VIỆC CỤ THỂ HÓA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG VÀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ TRONG PHÁP LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT........................................6 1. Hoạt động chăm sóc sức khỏe đối với người khuyết tật.........................................7 2. Hoạt động giáo dục, dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật.....................8 3. Hoạt động xã hội đối với người khuyết tật.............................................................9 4. Hoạt động bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật..............................................10 IV – LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT....................................................................................................................... 11 1. Liên hệ thực tiễn...................................................................................................11 2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật............................................................................14 KẾT LUẬN............................................................................................................. 15 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 MỞ ĐẦU Hiện nay vấn đề người khuyết tật đang thu hút sự quan tâm của cộng đồng thế giới cũng như quốc gia. Đây là vấn đề mang tính nhạy cảm, nếu không có những chính sách hợp lý, người khuyết tật có nguy cơ trở thành nhóm người bị xã hội loại trừ và phân biệt. Người khuyết tật có quyền được hưởng các quyền cơ bản của công dân và hơn thế nữa, họ phải được pháp luật cũng như cộng đồng xã hội bảo vệ và chăm sóc. Tuy nhiên, do có những khiếm khuyết không mong muốn về cơ thể mà người khuyết tật gặp phải nhiều trở ngại, khó khăn trong việc hòa nhập cộng đồng. Việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền đối với người khuyết tật luôn là mục tiêu hàng đầu của pháp luật mỗi quốc gia về vấn đề này. Trong đó, bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật là một trong những nội dung quan trọng của việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền đối với người khuyết tật. Chính vì vậy, em lựa chọn đề bài “Phân tích nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật. Nguyên tắc này được cụ thể hóa như thế nào trong pháp luật người khuyết tật. Liên hệ thực tiễn” làm bài tập cuối kì của mình. NỘI DUNG I – KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1. Định nghĩa người khuyết tật. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về người khuyết tật. Trước hết có thể kể đến quan điểm của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), theo Khoản 1 Công ước số 159 thì “người khuyết tật dùng để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài với công việc đó và khả năng thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được thừa nhận”. Điều 1 Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc năm 2006 thì: “ người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trong một thời gian dài, có ảnh hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác.” Theo pháp luật Việt Nam thì: “ người khuyết tật có một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác.” Qua các quan điểm trên đây, có thể đưa ra định nghĩa khái niệm người khuyết tật như sau: “Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc 1 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những chủ thể khác”. 2. Đặc điểm của người khuyết tật. Trước hết người khuyết tật là nhóm dân cư đặc biệt phải chịu thiệt thòi về mặt kinh tế, xã hội và nhân khẩu học: gia đình người khuyết tật thiếu nhân lực lao động; học vấn của các thành viên trong gia đình người khuyết tật thường không cao. Vì tình trạng khuyết tật gây ra, người khuyết tật phải gánh chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống xã hội; xã hội còn những quan niệm tiêu cực về người khuyết tật dẫn đến sự kì thị và phân biệt. hoạt động hỗ trợ cho người khuyết tật còn rất hạn chế, thực tế cho thấy sự khác biệt rất lớn giữa nhu cầu của người khuyết tật với những sự giúp đỡ mà họ nhận được. Theo Điều 2 Nghị định số 28/2012/NĐ – CP thì có các dạng khuyết tật sau: - Khuyết tật vận động là tình trạng giảm hoặc mất chức năng cử động đầu, cổ, chân, tay, thân mình dẫn đến hạn chế trong vận động, di chuyển. - Khuyết tật nghe, nói là tình trạng giảm hoặc mất chức năng nghe, nói hoặc cả nghe và nói, phát âm thành tiếng và câu rõ ràng dẫn đến hạn chế trong giao tiếp, trao đổi thông tin bằng lời nói. - Khuyết tật nhìn là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhìn và cảm nhận ánh sáng, màu sắc, hình ảnh, sự vật trong điều kiện ánh sáng và môi trường bình thường. - Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ, cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành động bất thường. - Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật, hiện tượng, giải quyết sự việc. - Khuyết tật khác là tình trạng giảm hoặc mất những chức năng cơ thể khiến cho hoạt động lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn khác. II - NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG VÀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc. Nguyên tắc tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng và được đối xử bình đẳng là một nguyên tắc mang tính nền tảng của khái niệm con người. Nguyên tắc này xuất phát từ tư tưởng cho rằng tất cả mọi người, bất kể họ khác nhau về trí lực, thể lực và các đặc điểm khác, đều có giá trị và tầm quan trọng ngang nhau. Mỗi người đểu được hưởng quyền và cần được hưởng sự quan tâm, sự tôn trọng như nhau. Nguyên 2 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 tắc bình đẳng không phân biệt đối xử đối với người khuyết tật được xây dựng trên ba văn bản pháp lý sau: - Tuyên ngôn thế giới của Liên hợp quốc về quyền con người năm 1948. Điều 1 và Điều 2 của Tuyên ngôn có quy định: “Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri và phải đối xử với nhau trong tình bác ái” (Điều 1 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền) và “Ai cũng được hưởng quyền tự do ghi trong bản Tuyên ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác” (Điều 2 Tuyên ngôn). - Tuyên bố của tổ chức lao động quốc tế tại Philadelphia được thông qua tại Hội nghị Lao động Quốc tế tổ chức năm 1944, trong đó chỉ rõ: “Tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, hoặc giới tính đều có quyền được mưu cầu một cuộc sống vật chất đầy đủ, được phát triển tinh thần trong điều kiện tự do và đảm bảo nhân phẩm, trong điều kiện an ninh kinh tế và cơ hội bình đẳng… ” Điều này có nghĩa tất cả mọi người, kể cả người khuyết tật cần được đối xử công bằng và có cơ hội bình đẳng để tham gia các hoạt động xã hội, cả kể trong lĩnh vực lao động. - Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật năm 2006 cũng đã ghi nhận nguyên tắc này tại Điều 5 và Điều 12 của Công ước. Trong đó: Điều 5 quy định về bình đẳng và không phân biệt đối xử như sau: “1. Các quốc gia thành viên thừa nhận rằng mọi người đều bình đẳng trước và chiểu theo pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng và cho hưởng quyền bình đẳng mà không có sự phân biệt đối xử nào. 2. Các quốc gia thành viên phải ngăn chặn mọi sự phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật và đảm bảo cho người khuyết tật được pháp luật bảo vệ hiệu quả khỏi sự phân biệt đối xử vì bất kỳ lý do gì. 3. Nhằm thúc đẩy công bằng và loại trừ phân biệt đối xử, các quốc gia thành viên sẽ tiến hành các bước cần thiết để tạo điều kiện cho các hoạt động điều chỉnh hợp lý. Các biện pháp cụ thể cần thiết nhằm đạt được mục tiêu bình đẳng với người khuyết tật sẽ không bị coi là phân biệt đối xử trong khuôn khổ Công ước này”. Điều 12 Công ước quy định về việc thừa nhận bình đẳng trước pháp luật của người khuyết tật như sau: “1. Các Quốc gia thành viên tái khẳng định rằng người khuyết tật có quyền được thừa nhận trước pháp luật như một con người tại bất kỳ nơi nào. 3 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 2. Các Quốc gia thành viên thừa nhận rằng người khuyết tật có năng lực pháp lý ngang bằng với mọi người khác trên mọi mặt của cuộc sống. 3. Các Quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp phù hợp để giúp người khuyết tật tiếp cận được trợ giúp nhằm thực hiện tốt năng lực pháp lý của họ. 4. Các Quốc gia thành viên đảm bảo rằng mọi biện pháp liên quan đến việc thực hiện năng lực pháp lý phải bao gồm việc bảo vệ phù hợp và hiệu quả để ngăn chặn sự lạm dụng theo tinh thần của luật pháp quốc tế về quyền con người…”. Trên đây là những cơ sở pháp lí quan trọng để pháp luật nước ta xây dựng nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử trong Luật Người khuyết tật năm 2010. 2. Nội dung của nguyên tắc. Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật liên quan mật thiết đến khái niệm nhân phẩm. Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm cho rằng tất cả mọi người dù có sự khác nhau về thể lực, trí lực và các đặc điểm khác đều có giá trị và tầm quan trọng ngang nhau. Vì vậy, họ có quyền được đối xử công bằng và không bị phân biệt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyên tắc bình đẳng bao gồm: bình đẳng trên danh nghĩa, bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về kết quả. Trong tài liệu “Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật” của Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) phân tích về 3 phương diện bình đẳng trên như sau: Bình đẳng trên danh nghĩa Theo quan điểm chính thống về sự bình đẳng, những người ở trong hoàn cảnh như nhau cần được đối xử giống nhau. Quan điểm này thường không tính đến sự khác biệt và bất lợi của từng cá nhân và hoàn cảnh cứ như thể những yếu tố này không có liên quan gì. Trong khi không cho phép đối xử người này hơn hoặc kém người kia, người ta lại không đặt ra về quy định phải có những điều chỉnh và cải thiện cần thiết. Do vậy, quan điểm này không phù hợp khi phải đáp ứng nhu cầu của một số đối tượng là người khuyết tật. Bình đẳng về cơ hội Bình đẳng có thể được định nghĩa theo một cách khác, đó là bình đẳng về cơ hội. Khái niệm này quy định về sự bình đẳng trong cơ hội chứ không nhất thiết phải là bình đẳng về kết quả. Cách nhìn này, thừa nhận vai trò quan trọng của những khác biệt của cá nhân và tập thể đồng thời nhận diện những rào cản bên ngoài mà người khuyết tật gặp phải có thể cản trở họ tham gia vào xã hội. Định kiến và môi trường không tiếp cận đều được coi là những vật cản đối sự tham gia toàn diện vào đời sống 4 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 xã hội của người khuyết tật.Theo cách nhìn nhận này, tình trạng khuyết tật không phải là vấn đề quan trọng mà chính những định kiến mới là cơ sở cho vấn đề cần giải quyết, và phải nhất thiết tính đến những định kiến này nếu muốn tạo ra những thay đổi cho môi trường xã hội cũng như môi trường vật thể để tạo điều kiện cho người khuyết tật tiếp cận và hòa nhập cùng xã hội. Bình đẳng về kết quả Bình đẳng về kết quả là sự bảo đảm các kết quả là như nhau đối với tất cả mọi người. Nếu nhìn nhận sự bình đẳng theo góc độ này, sự khác biệt giữa các cá nhân và các nhóm đối tượng sẽ được thừa nhận. Ví dụ, phải tính đến các chi phí thêm mà người lao động khuyết tật phải chi trả trong khi xem xét việc họ có nhận được tiền lương bằng mọi người hay không. Khái niệm này có một số nhược điểm. Nó không chỉ rõ trách nhiệm đáp ứng các nhu cầu của người khuyết tật nhằm đảm bảo sự bình đẳng thực sự về kết quả thuộc về ai. Ngoài ra, còn một điểm không rõ trong cách nhìn nhận này là người ta có thực sự hiểu rõ giá trị của một cá nhân hay không khi tìm cách để chứng minh rằng anh ta đã không làm ra được kết quả như những người khác. Trong thực tế, bình đẳng về cơ hội được sử dụng nhiều nhất trong văn bản pháp luật ở các quốc gia. Các hình thức phân biệt đối xử bao gồm: phân biệt đối xử trực tiếp, phân biệt đối xử gián tiếp, gây phiền nhiễu, chỉ đạo và khuyết khích phân biệt đối xử. Kinh nghiệm thực tế cho thấy cần phải có những quy định rõ ràng cả bốn hình thức phân biệt đối xử nói trên với người khuyết tật để có những biện pháp, chế tài xử phạt riêng với từng hình thức phân biệt. Về phương diện pháp lí, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử có thể tiếp cận với các khía cạnh khác nhau trong pháp luật và dẫn đến các hậu quả không giống nhau. Mặt khác để có thể xác định một hành vi có phải là bình đẳng hoặc phân biệt đối xử với người khuyết tật hay không cần có các tiêu chí xác định cụ thể mang tính pháp lí được các cơ quan có thẩm quyền quy định rõ ràng. Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử được hiểu là sự ngang nhau trong việc tiếp cận các cơ hội về học tập, việc làm, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ công… của người khuyết tật trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Tuy nhiên, nguyên tắc bình đẳng không có nghĩa là bằng nhau, như nhau; người khuyết tật gặp phải những dạng tật khác nhau và mức độ khuyết tật không giống nhau cần được sự đảm bảo khác nhau. Cũng cần phải hiểu rằng, việc ngăn cấm phân biệt đối xử với người khuyết tật không có nghĩa là mọi hình thức 5 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 phân biệt là trái pháp luật. Đơn cử như: Trong quan hệ lao động, người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động phải có những kĩ năng và trình độ cần thiết mà công việc hoặc môi trường làm việc đòi hỏi và những yêu cầu này là chính đáng; do đó, dẫn đến khả năng loại trừ một số ngươig khuyết tật khỏi danh sách người tham gia làm việc nhưng những trường hợp này không được coi là phân biệt đối xử. Hay một trường hợp khác như: một công ty vệ sĩ tuyển nhân viên và đưa ra những tiêu chuẩn về hình thức, sức khỏe, chiều cao, phản xạ... dẫn đến việc người khuyết tật (khiếm thính, khiếm thị…) không được vào làm việc; tuy nhiên, những yêu cầu trong trường hợp trên là hợp pháp, đúng mức, nó đơn thuần chỉ mang tính nghề nghiệp và không bị coi là hành vi phân biệt đối xử. 3. Ý nghĩa của nguyên tắc. Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử đối với người khuyết tật là một trong những nguyên tắc cơ bản, có ý nghĩa rất quan trọng, ngoài việc giúp đỡ những người khuyết tật vượt qua khó khăn của bản thân, hòa nhập với xã hội, thích nghi với hoàn cảnh sống thì nguyên tắc này còn thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, sự quan tâm, chú trọng của Nhà nước, xã hội đối với người khuyết tật. Đồng thời, nguyên tắc này cũng là tiền đề trong việc thực hiện các nguyên tắc khác như nguyên tắc tôn trọng và đảm bảo quyền của người khuyết tật và nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội. III - VIỆC CỤ THỂ HÓA NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG VÀ KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ TRONG PHÁP LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT. Trong Luật người khuyết tật năm 2010 không có điều luật nào quy định cụ thể nội dung của nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật; tuy nhiên, trong các quy định của Luật có những điều luật hướng tới việc thực hiện nguyên tắc đó đối với người khuyết tật. Điều 4 LNKT 2010 thể hiện sự bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật thông qua việc quy định cho họ các quyền và nghĩa vụ, cụ thể như sau: “1. Người khuyết tật được đảm bảo thực hiện các quyền sau đây: a, Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; b, Sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; c, Được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; d, Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; 6 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 đ, Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2. Người khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật”. Pháp luật người khuyết tật còn quy định cụ thể những hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 14 LNKT, trong đó có hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật và xâm phạm thân thể, nhân phẩm danh dự, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật. Phân biệt đối xử được hiểu là hành vi xa lánh, từ chối, ngược đãi, phỉ báng, có thành kiến hoặc hạn chế quyền của người khuyết tật vì lí do khuyết tật của người đó (khoản 3 Điều 2). Việc pháp luật đưa ra các quy định như vậy là rất hợp lí, điều đó tạo ra khung hành lang pháp lý để thực hiện quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử giữa con người với con người. Vốn dĩ người khuyết tật đã phải chịu những thiệt thòi do những khiếm khuyết của bản thân họ mang lại; do vậy, họ xứng đáng và cần nhận được sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, Nhà nước và xã hội. Ngoài những quy định về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật, những hành vi bị pháp luật nghiêm cấm thì Nhà nước ta còn thể hiện sự bình đẳng đối với người khuyết tật ở nhiều phương diện khác. 1. Hoạt động chăm sóc sức khỏe đối với người khuyết tật. Ở Việt Nam, với truyền thống nhân đạo “thương người như thể thương thân” Đảng, Nhà nước và toàn dân luôn tôn trọng và chăm lo bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật. trong quy định của hiến pháp đều khẳng định người khuyết tật được hưởng các quyền của công dân nói chung, trong đó có quyền được chăm sóc sức khỏe. Trước khi luật người khuyết tật có hiệu lực thì chế độ chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật được quy định trong pháp lệnh về người tàn tật năm 1998 và một số luật chuyên ngành khác. Sau khi Luật Người khuyết tật có hiệu lực thì chế độ chăm sóc sức khỏe của người khuyết tật được quy định cụ thể trong Chương III, từ Điều 21 đến Điều 26. Ngoài ra trong các luật chuyên ngành khác cũng có các điều khoản quy định về việc chăm sóc sức khỏe người khuyết tật, đó là: Luật Người cao tuổi (Điều 12), Luật Khám, chữa bệnh (Điều 3) … Tùy từng đối tượng và dạng tật hoặc nhu cầu của người khuyết tật mà pháp luật quy định chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật được thể hiện khác nhau, theo đó người khuyết tật được hưởng một hoặc nhiều chế độ trong quá trình chăm sóc sức khỏe. Tiếp cận dịch vụ y tế: Người khuyết tật có quyền hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đạt tiêu chuẩn cao nhất mà không bị phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Việc hưởng dịch vụ y tế đối với người khuyết tật là thiết yếu nhằm phục hồi chức năng, sức khỏe và khả năng lao động, học tập. Cụ thể như: 7 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 Thứ nhất, cung cấp cho người khuyết tật các dịch vụ và chương trình y tế cùng mức, có chất lượng, đạt tiêu chuẩn, miễn phí hoặc thu phí có thể chấp nhận được , tương tự như cung cấp dịch vụ cho những người không khuyết tật khác. Thứ hai, cung cấp các dịch vụ y tế cần thiết cần theo dạng tật của họ, bao gồm phát hiện sớm và can thiệp sớm, nếu phù hợp và các dịch vụ được thiết kế nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa khuyết tật, bao gồm trẻ em và người cao tuổi. Thứ ba, cung cấp các dịch vụ y tế này ở những nơi càng gần với cộng đồng mà người khuyết tật sinh sống càng tốt, kể cả ở vùng nông thôn. Đặc biệt cũng phải ngăn chặn sự từ chối cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc chăm sóc y tế, hoặc thực phẩm và thức uống mang tính phân biệt đối xử vì lý do khuyết tật. Hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng: Người khuyết tật cần được hỗ trợ và phụ hồi chức năng nhằm tăng cường khả năng hòa nhập của họ vào đời sống xã hội. 2. Hoạt động giáo dục, dạy nghề và việc làm đối với người khuyết tật. Về vấn đề giáo dục, Nhà nước ta tạo điều kiện để người khuyết tật được học tập phù hợp với nhu cầu và khả năng của người khuyết tật. Theo quy định của pháp luật người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với quy định về độ tuổi của giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh, được miễn giảm một số môn học; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo và các khoản đóng góp khác…bên cạnh đó người khuyết tật còn được cung cấp các phương tiện tài liệu trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng bảng chữ nổi Braille theo tiêu chuẩn quốc gia ( Điều 27 LNKT). Bên cạnh đó, Điều 30 Luật này có quy định về trách nhiệm của cơ sở giáo dục như sau: “1. Bảo đảm các điều kiện dạy và học phù hợp với người khuyết tật, không được từ chối tiếp nhận người khuyết tật nhập học trái với quy định của pháp luật. 2. Thực hiện việc cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất dạy và học chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận đối với người khuyết tật”. Về vấn đề dạy nghề, theo quy định tại Điều 32 LNKT 2010 về dạy nghề đối với người khuyết tật thì: “1. Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như những người khác. 2. Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo quy định của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề. 8 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 3. Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật …”. Về vấn đề việc làm, theo quy định tại Điều 33 LNKT như sau: “1. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật. 2. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật. 3. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật. 4. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật.…” Việc ngăn cấm phân biệt đối xử không có nghĩa là quy cho mọi hình thức phân biệt đối với người lao động và người tìm việc làm là trái pháp luật. Người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động và người tìm việc phải có những kỹ năng và trình độ cần thiết mà công việc hoặc môi trường công việc đòi hỏi – và những yêu cầu này là chính đáng. Những yêu cầu hoàn toàn chính đáng như vậy của công việc này có thể dẫn đến khả năng loại trừ một số người khuyết tật khỏi danh sách người có khả năng tham gia làm việc, nhưng những trường hợp như vậy không được coi là phân biệt đối xử. 3. Hoạt động xã hội đối với người khuyết tật. a. Đối với hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí và du lịch . Hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí và du lịch người khuyết tật có vai trò to lớn đối với người khuyết tật song do đặc thù của các dạng khuyết tạt khác nhau nên việc hưởng thụ và tham gia đối với họ hoàn toàn không đơn giản. Trên cơ sở đó, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006 xác định các quốc gia thành viên cam kết thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm khuyết khích và thúc đẩy người khuyết tật tham gia một cách đầy đủ nhất vào các hoạt động thể thao, đảm bảo rằng người khuyết tật tiếp cận được các địa điểm du lịch… ( Điều 30 Khoản 5 Công ước). 9 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 Là một quốc gia thành viên đã kí kết tham gia và đang trong quá trình phê chuẩn công ước, Việt Nam cũng có những quy định pháp luật quốc gia phù hợp để đảm bảo thực hiện cam kết này. Nhà nước hỗ trợ hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch phù hợp với đặc điểm của người khuyết tật, tạo điều kiện để người khuyết tật hưởng thụ văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho người khuyết tật phát triển tài năng, năng khiếu về văn hóa, nghệ thuật và thể thao, tham gia sáng tác, biểu diễn nghệ thuật, tập luyện, thi đấu thể thao (Điều 36 LNKT). b. Đối với việc sử dụng công trình, dịch vụ công công . Nhằm đảm bảo các công trình xây dựng nói chung nhà chung cư và công trình công cộng nói riêng có đủ điều kiện cho người khuyết tật tiếp cân và sử dụng , nghĩa là công trình đó tạo dựng được môi trường kiến trúc mà người khuyết tật có thể đến và sử dụng được các không gian chức năng trong công trình; Bộ xây dựng đã ban hành bộ quy chuẩn và tiêu chuẩn xây dựng công trình. Theo quy chuẩn xây dựng do Bộ Xây dựng ban hành năm 2002, các loại công trình phải đảm bảo cho người khuyết tật tiếp cận sử dụng gồm: công trình y tế, cơ quan hành chính các cấp (trụ sở Uỷ ban nhân dân, tòa án, viện kiểm sát...), các công trình giáo dục, công trình thể thao, công trình văn hóa, công trình dịch vụ công cộng (khách sạn, nhà ga xe lửa, bến xe, bưu điện, trung tâm thương mại, chợ...), nhà chung cư, đường và vỉa hè. Tiêu chuẩn Việt Nam 2009 cũng quy định việc xây dựng đường, hè phố đảm bảo người khuyết tật tiếp cận sử dụng. Khi thiết kế đường và hè phố phải đảm bảo giao thông đường bộ đơn giản, không bị vật cản và đủ rộng cho các xe lăn tránh nhau. Tại các nút giao thông, các lối vào công trình phải làm đường dốc để người khuyết tật tiếp cận công trình. Lối vào và trục đường chính của đường dạo trong công viên, khu vui chơi - giải trí, khu du lịch phải thiết kế để người khuyết tật đi lại được và phải có biển báo, biển chỉ dẫn người khuyết tật tiếp cận sử dụng. Tại các điểm đỗ xe và điểm chờ xe buýt có tính đến nhu cầu sử dụng của người khuyết tật phải bố trí biển báo, biển chỉ dẫn theo quy ước quốc tế. Các công trình được xây dựng trên đường và hè phố dành cho người đi bộ như trạm điện thoại công cộng, trạm rút tiền bằng thẻ tự động, biển quảng cáo, cột điện, cây trồng, các vật treo trên cao không được gây cản trở cho người khuyết tật … 4. Hoạt động bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. Ở Việt Nam có thể hiểu bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng gặp phải rủi ro, bất hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân dẫn đến không đủ khả 10 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 năng tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản than và gia đình nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật, giúp họ vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Tại Việt Nam bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật được quan tâm từ rất sớm và thực sự được ghi nhận trong pháp lệnh người tàn tật năm 1998 và một số pháp luật chuyên ngành khác. Đặc biệt kể từ khi luật người khuyết tật 2010 có hiệu lực thì chế độ bảo trợ đối với người khuyết tật chủ yếu bao gồm chế độ trợ cấp, hỗ trợ cho người khuyết tật và chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã hội - điều này được cụ thể hóa tại chương VIII trong Luật Người khuyết tật 2010. Từ những quy định cụ thể trên có thể thấy, Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng về mọi mặt trong cuộc sống của người khuyết tật, nhằm giúp đỡ người khuyết tật có thể phát triển ngang bằng với những người bình thường khác, xóa bỏ mọi rào cản mà những khiếm khuyết tạo ra cho người khuyết tật. Từ đó, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật được cụ thể hóa thành những quy định của pháp luật nhằm áp dụng vào thực tiễn đời sống. IV – LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 1. Liên hệ thực tiễn. Tính đến thời điểm năm 2011, Việt Nam có khoảng 6,7 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 7,8 % dân số và có tới 80% người khuyết tật sống phụ thuộc vào nguồn trợ cấp từ gia đình, xã hội thông qua Nhà nước và cộng đồng. Theo số liệu điều tra trong hội thảo “Tìm hiểu và đối phó với kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến người khuyết tật” năm 2011 thì có đến 98% người dân cho rằng người khuyết tật là những người rất đáng thương, 66% cho rằng họ không thể có cuộc sống bình thường như những người khác, 76% cho rằng nên gửi người khuyết tật vào các trung tâm để họ được chăm sóc và 63% cho rằng người khuyết tật không nên tham gia vào các hoạt động công cộng. Hiện nay, nước ta có khoảng 35,83% số người khuyết tật không biết chữ; 12,58% biết đọc, biết viết; 20,74 % có trình độ trung học phổ thông. Đáng chú ý là tỉ lệ người khuyết tật được học nghề mới chỉ đạt 12,1%. Mặc dù 58% số người khuyết tật đang tham gia làm việc nhưng chủ yếu là việc đơn giản, thu nhập thấp, trong đó 30% đang mong muốn có công việc ổn định. Thực tế cho thấy, phần lớn người khuyết tật nước ta chưa được tạo điều kiện để khắc phục những khó khăn liên quan đến chức năng cơ thể để phát huy năng lực, chủ động tham gia vào mọi khía cạnh của đời sống xã hội. a. Kết quả đạt được. 11 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 Việt Nam đã thực thi vào thực tiễn nhiều luật, chính sách, quy định và sáng kiến liên quan đến người khuyết tật, nhằm bảo vệ người khuyết tật không bị phân biệt đối xử và được bình đẳng như những công dân bình thường khác, người khuyết tật được hỗ trợ để được phát triển năng lực của mình. Một số văn bản pháp luật và chương trình hành động làm tiền đề để phát triển nguyên tắc này là: - Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua năm 1992 và sửa đổi năm 2001; vấn đề bảo vệ người khuyết tật được quy định cụ thể tại Điều 59 và Điều 67 của Hiến pháp; - Luật người khuyết tật năm 2010 (thay thế cho Pháp lệnh Người khuyết tật 1998) - Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2006, 2007. Phần III Chương XI của Bộ luật quy định về việc làm cho người khuyết tật tại cơ quan và doanh nghiệp; - Luật Dạy nghề năm 2006 , Chương VII quy định về dạy nghề cho người khuyết tật; - Bộ Quy chuẩn và Tiêu chuẩn về tiếp cận đối với người khuyết tật năm 2002 đưa ra những tiêu chuẩn tiếp cận quốc gia; - Ban Điều phối Quốc gia về vấn đề người khuyết tật năm 2001; - Đề án trợ giúp người khuyết tật của Chính phủ giai đoạn 2006 – 2010. Đề án đưa ra phương pháp tiếp cận toàn diện đối với vấn đề người khuyết tật với việc mở rộng đối tượng tham gia đề án và có sự tham gia của nhiều bộ ngành liên quan. Tiếp đến hướng tới Đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2011 – 2020. - Giáo dục hòa nhập tầm nhìn tới năm 2015. Chính phủ đặt mục tiêu thực hiện giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em khuyết tật năm 2015. Có thể thấy, về mặt lập pháp, những vấn đề liên quan đến người khuyết tật ở nước ta đã quy định khá hoàn thiện. Trong thời gian qua, Chính phủ đã từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách về người khuyết tật, triển khai các chương trình, đề án hỗ trợ người khuyết tật và huy động tối đa sự tham gia của xã hội trong việc trợ giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng và phát triển. Luật người khuyết tật ra đời đánh dấu một bước tiến lớn trong việc hỗ trợ pháp lý cho người khuyết tật ở Việt Nam. Thông tin, truyền thông, giáo dục được đẩy mạnh nhằm thay đổi thái độ và hành vi của mọi người, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật, tạo sự bình đẳng giữa mọi người là một trong những nội dung chính, quan trọng đã được cụ thể hóa trong Luật. 12 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 Chính phủ nước ta đã thông qua nhiều chính sách và văn bản pháp lý, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc huy động nguồn lực và thực thi các hoạt động trợ giúp người khuyết tật thực hiện quyền bình đẳng của mình trên nhiều lĩnh vực: Trong lĩnh lực giáo dục, việc thực hiện các quy định liên quan đến các nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử được diễn ra một cách nghiêm túc. Một bằng chứng cho thấy rằng, hầu hết các trường tiểu học, trung học và phổ thông trong cả nước đều có những học sinh bị khuyết tật; điều đó cho thấy các em được tham gia học tập bình thường như những học sinh khác. Thống kê cho thấy, trên địa bàn cả nước có 260 cơ sở dạy nghề cho người khuyết tật ở 56 tỉnh, thành phố; trong đó có 55 cơ sở chuyên biệt với 3 hình thức phổ biến là cơ sở sản xuất kinh doanh, gia đình và trung tâm dạy nghề. Hiện nay, cả nước có 107 cơ sở giáo dục chuyên biệt và 2.500 trường trung học phổ thông tiến hành giáo dục hòa nhập cho người khuyết tật, 4 trường Đại học sư phạm mở khoa giáo dục chuyên biệt, 3 trường cao đẳng sư phạm có ngành Tật học, có 700 giáo viên được đào tạo trình độ cao đẳng giáo dục hòa nhập cộng đồng, 10.000 giáo viên mầm non đã được bồi dưỡng kiến thức về giáo dục người khuyết tật, 239.000 trẻ là người khuyết tật ở độ tuổi đi học đã được đến trường. Trong lĩnh vực lao động, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách trợ giúp người khuyết tật, cộng đồng dân cư có nhiều trợ giúp cụ thể và đắc lực cho người khuyết tật nhằm cải thiện cuộc sống hàng ngày. Có thể thấy, rào cản đối với người khuyết tật trong lĩnh vực này cũng đang dần được xóa bỏ, cơ hội việc làm được cải thiện, rộng mở; trên thực tế xuất hiện ngày càng nhiều những cơ sở sản xuất kinh doanh tạo việc làm, tuyển dụng lao động là người khuyết tật; điều này không chỉ giúp người khuyết tật nhanh chóng hòa nhập hơn với xã hội mà còn giúp họ tự nuôi sống bản thân, trợ giúp gia đình, không còn là gánh nặng của xã hội. Từ những thống kê trên ta thấy được tầm quan trọng của việc thực hiện, triển khai nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật trong đời sống. Trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe, Nhà nước ta đã chú trọng thực hiện các chương trình chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật như: khám chữa mắt miễn phí, phát thuốc, kiểm tra sức khỏe, phục hồi chức năng vận động cho người khuyết tật… Ngoài ra, còn có các chương trình hỗ trợ nhân đạo như cấp phát phương tiện cho người khuyết tật vận động, mở các lớp học chữ nổi cho người khiếm thị…Các chương trình đó đều thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và xã hội cho người khuyết tật, giúp họ hòa nhập cộng đồng, tạo sự bình đẳng về cơ hội cho người khuyết tật. b. Hạn chế. 13 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật - Nguyễn Thế Quyền – N01 Hiến pháp là văn bản pháp luật cấp cao nhất trong hệ thống văn bản pháp luật nước ta nhưng có thể thấy, trong văn bản này chưa có một Điều luật nào quy định cụ thể về vấn đề liên quan đến người khuyết tật mà chỉ quy định rất chung chung, đại khái. Điều này gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật về người khuyết tật trên thực tế. - Việc áp dụng nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử với người khuyết tật vào thực tế đời sống chưa đạt hiệu quả cao, còn mang tính khẩu hiệu. Hiện nay, còn rất nhiều các công trình, dịch vụ công cộng mà người khuyết tật chưa thể tiếp cận, sử dụng. Điều đó vô hình chung tạo nên rào cản khiến cho người khuyết tật không thể hoặc hạn chế trong việc hòa nhập cộng đồng, khó có thể tiếp cận được những cơ hội thay đổi bản thân, giúp đỡ gia đình, xã hội. - Việc thực thi nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật còn gặp rất nhiều khó khăn trong thực tiễn. Trên thực tế, tuy đã có quy định, hướng dẫn của cơ quan chức năng về việc tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhưng việc sử dụng người khuyết tật tại các doanh nghiệp, xí nghiệp chưa nhiều vì các nguyên nhân khác nhau. Nhiều trường hợp các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp từ chối tuyển người khuyết tật vào làm việc, mặc dù họ đã trải qua những kỳ sát hạch tuyển dụng với lý do người khuyết tật làm việc không được như người bình thường. Đó là một trong những hạn chế cơ bản thường thấy nhất và đang rất cần được điều chỉnh kịp thời từ các cơ quan quản lý chuyên môn. - Hiện nay, trong hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề chế tài xử lý khi có hành vi vi phạm quyền bình đẳng, phân biệt đối xử với người khuyết tật. Trong khi đó, trên thực tế, vẫn còn tồn tại rất nhiều những hành vi kì thị, phân biệt đối xử với người khuyết tật, tạo nên bất bình đẳng trong quan hệ xã hội với người khuyết tật. 2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật. a. Nguyên nhân. Từ những vấn đề nêu trên, ta có thể thấy nguyên nhân còn tồn tại những hạn chế kể trên là do: - Những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn nhiều thiếu sót, chưa hoàn thiện, chưa thực sự phù hợp với yêu cầu thực tiễn. - Do ý thức thực hiện pháp luật của người dân chưa cao. - Bản thân người khuyết tật còn mặc cảm, tự ti, chưa nhận thức được hết các quyền mà đáng lẽ ra họ được hưởng nên nhiều khi phải chịu thiệt thòi. 14 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật - Nguyễn Thế Quyền – N01 Do điều kiện kinh tế nước ta còn nghèo, cơ sở vật chất, hạ tầng đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật còn hạn chế. b. Giải pháp hoàn thiện. Từ những hạn chế và nguyên nhân nêu trên, em xin đưa ra một vài giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật. Cụ thể như sau: - Cần phải đề cập đến người khuyết tật trong Hiến pháp thông qua các điều luật quy định nhiệm vụ cho Chính phủ phải đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật và các điều luật cấm phân biệt đối xử, cũng như đảm bảo rằng người khuyết tật sẽ có cơ hội tiếp cận với hệ thống tư pháp thông qua các cơ quan giám sát. - Đưa các điều khoản về quyền của người khuyết tật liên quan đến việc làm vào luật dân sự và lao động; bởi, đây là cách làm có hiệu quả nhất trong việc tạo cơ hội việc làm cho người lao động và người tìm việc bị khuyết tật. Bên cạnh đó, cần xây dựng những chế tài xử phạt những hành vi phân biệt đối xử, bất bình đẳng với người khuyết tật vào luật hình sự để tăng tính răn đe. - Các cơ quan ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm và hoạt động của quần chúng nhân dân trong việc xóa bỏ các rào cản xã hội đối với người khuyết tật, giúp họ hòa nhập với cuộc sống cộng đồng, đối xử bình đẳng, không phân biệt, kỳ thị đối với người khuyết tật. - Xây dựng các công trình dịch vụ công cộng, cải tạo cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho người khuyết tật chủ động hòa nhập, có cơ hội tham gia một cách bình đẳng vào các hoạt động của xã hội. KẾT LUẬN Nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử với người khuyết tật là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong pháp luật về người khuyết tật. Việc thực hiện và tuân theo nguyên tắc này trong thực tiễn đời sống có ý nghĩa rất lớn đến việc giúp người khuyết tật hòa nhập với cộng đồng, xóa bỏ rào cản giữa người khuyết tật với xã hội. Hơn lúc nào hết, người khuyết tật phải được đảm bảo rằng họ có quyền và nghĩa vụ tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất kì công dân nào với tư cách là các quyền của con người để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 15 Bài tập học kì môn Luật người khuyết tật Nguyễn Thế Quyền – N01 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình luật người khuyết tật Việt Nam. NXB. Công an nhân dân, năm 2011. 2. Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006. 3. Luật người khuyết tật Việt Nam năm 2010. 4. Nghị định số 28/2012/NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật 2010. 5. Văn phòng Tổ chức Lao động quốc tế, Hướng tới cơ hội việc làm bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật, tài liệu hướng dẫn của ILO. 6. Một số website: www.ilo.org/hanoi/Whatwedo/Publications/WCMS.../index.htm www.office33.gov.vn/front.../index.php?type www.gslhcm.org.vn/contents/hoat_dong...nguoi... dphanoi.org.vn/index.php?option=com_content&task...id... 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan