Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích, làm sáng rõ đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên theo pháp luật hi...

Tài liệu Phân tích, làm sáng rõ đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên theo pháp luật hiện hành – những khó khăn và ý kiến pháp lý nhằm khắc phục của nhóm thự

.DOC
16
48
134

Mô tả:

A. MỞ ĐẦU "Chúng ta đang tiêu tốn nguồn tài nguyên nhanh hơn khả năng phục hồi của nó. Chúng ta đã sử dụng nhưng không nghĩ đến chuyện phải "trả nợ" cho thiên nhiên, trừ khi chính phủ mỗi quốc gia phải cân bằng được giữa nguồn tiêu thụ và tái tạo nó" - người đứng đầu tổ chức Quĩ quốc tế bảo vệ động vật hoang dã (WWF)1. Vấn đề tài nguyên thiên nhiên đang là vấn đề nóng của thế giới cũng như tại Việt Nam. Vậy pháp luật Việt Nam đã có các quy định pháp quy nào để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá này. Chúng ta cùng đi tìm hiểu đề bài số 8 “Phân tích, làm sáng rõ đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên theo pháp luật hiện hành – những khó khăn và ý kiến pháp lý nhằm khắc phục của nhóm thực hiện đối với những khó khăn trong quá trình thu thuế tài nguyên” B. NỘI DUNG I. Tổng quan về thuế tài nguyên. 1. Sự cần thiết của thuế tài nguyên: Tài nguyên thiên nhiên có trên trái đất, trong không gian mà con người có thể khai thác, sử dụng, phục vụ cuộc sống, sự phát triển của mình và của xã hội. Tài nguyên thiên nhiên đặc biệt quan trọng đối với đời sống của con người, là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, là nền tảng cơ bản đảm bảo cho sự phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, các loại tài nguyên là hữu hạn và khó có khả năng tái sinh. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống con người, là môi trường sống duy nhất, là nơi cung cấp các yếu tố vật chất phục vụ cho sản xuất, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, đảm bảo cho sự phát triển của nhân loại. chính vì vậy, tài nguyên phải được quản lý một cách khoa học và hiệu quả Hiện nay hoạt động khai thác tài nguyên ở Việt Nam diễn ra với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, nhanh, đồng nghĩa với trữ lượng tài nguyên của nước ta ngày càng cạn kiệt và mức độ ô nhiễm môi trường do hoạt động khai thác tài nguyên gây ra càng thêm trầm trọng. Chính vì vậy, để quản lý có hiệu quả việc khai thác khoáng sản để bảo vệ tài nguyên môi trường, nhà nước đã quy định các nghĩa vụ mà tổ chức, cá nhân khi tiến hành khai thác phải tuân theo. Trước đây, hoạt động 1 Nguồn: Vietbao.vn 1 khai thác tài nguyên do Pháp lệnh thuế tài nguyên(năm 1988) và pháp lệnh sửa đổi bổ sung năm 2008. Quá trình thực hiện Pháp lệnh thuế tài nguyên đã góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, Pháp lệnh thuế tài nguyên cũng bộc lộ những ạn chế nhất định đòi hỏi phải được khắc phục, đảm bảo xây dựng hệ thống thuế động bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn và các luật có liên quan. Chính vì vậy cần thiết phải ban hành Luật thuế tài nguyên. Tại kỳ họp thứ 6 ngày 25/11/2009, Quốc hộ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật thuế tài nguyên thay thế cho Pháp lệnh thuế tài nguyên số 05/1998/PL – UBTVQH10 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung Điều 6 Pháp lệnh thuế tài nguyên số 07/2008/PL – UBTVQH12 nhằm góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, có hiệu quả, gó phần bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho NSNN 2. Ý nghĩa của thuế tài nguyên: Thuế tài nguyên, cũng giống như các loại thuế khác là một biện pháp can thiệp kinh tế của Chính phủ nhằm tăng doanh thu cho Nhà nước và cải thiện công bằng xã hội. Đó là một biện pháp đặc biệt có nhiều ý nghĩa trong điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta, một quốc gia có nền kinh tế đang phát triển gặp nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội. Nhà nước sử dụng thuế để điều tiết đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên để tạo nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, các quy định của luật thuế tài nguyên tạo nguồn lực tài chính phục vụ cho bảo tồn, phát triển các nguồn tài nguyên và thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững do Đảng và Nhà nước đặt ra, đảm bảo đông bằng xã hội. 3. Khái niệm và đặc điểm của thuế tài nguyên Thuế tài nguyên là loại thuế gián thu, thu vào hoạt động khai thác tài nguyên thuộc tài sản quốc gia của các tổ chức, cá nhân khai thác nhằm khuyến khích việc khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, góp phần bảo vệ tài nguyên đất nước, bảo đảm cho ngân sách nhà nước có nguồn thu để bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò tài nguyên. Xét về bản chất, thuế tài nguyên là loại thuế gián thu. Tuy nhiên, nó mang tính chất là một khoản thu về chuyển nhượng tài nguyên thiên nhiên quốc gia mà tổ chức, cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi khai thác tài nguyên, tương tự như 2 trường hợp cơ sở kinh doanh phải trả tiền mua các loại tài nguyên khác về để sản xuất. Đặc điểm của thuế tài nguyên. Thứ nhất, đối tượng chịu thuế tài nguyên là các loại tài nguyên thiên nhiên. Nếu tài nguyên đó được hình thành có sự can thiệp của con người thì nó không còn là đối tượng chịu thuế tài nguyên nữa. Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên là đối tượng chịu thuế phải tồn tại trên lãnh thổ Việt Nam, thuộc chủ quyền Việt Nam theo luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế. Thứ ba, thuế tài nguyên không đánh vào tất cả các hành vi tác động vào tài nguyên mà chỉ điều tiết vào hành vi của các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp pháp theo quy định của pháp luật. Thứ tư, mục tiêu cơ bản của thuế tài nguyên là nhằm điều tiết một phần thu nhập của tổ chức, cá nhân có hành vi khai thác tài nguyên vào ngân sách Nhà nước trên cơ sở đó quản lý hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của quốc gia. II. Phân tích đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên 1. Đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên Chính phủ ban hành Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 về quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Thuế tài nguyên 2009. Theo đó: Đối tượng chịu thuế tài nguyên bao gồm: Khoáng sản kim loại; khoáng sản không kim loại; dầu thô là hydrocarbon ở thể lỏng trong trạng thái tự nhiên, asphalt, ozokerite và hydrocarbon lỏng thu được từ khí thiên nhiên bằng phương pháp ngưng tụ hoặc chiết xuất) quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Dầu khí năm 1993; khí than (là hydrocarbon, thành phần chính là methane ở thể khí hoặc lỏng, được chứa trong các vỉa than hoặc trong các vỉa chứa lân cận) theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Dầu khí năm 2008; Khí thiên nhiên (là toàn bộ hydrocarbon ở thể khí, khai thác từ giếng khoan, bao gồm cả khí ẩm, khí khô, khí đầu giếng khoan và khí còn lại sau khi chiết xuất hydrocarbon lỏng từ khí ẩm) Trong danh sách các đối tượng chịu thuế tài nguyên còn có: sản phẩm của rừng tự nhiên, bao gồm các loại thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự 3 nhiên, trừ động vật và hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người nộp thuế trồng tại khu vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ; hải sản tự nhiên, bao gồm cả động vật và thực vật biển; nước thiên nhiên và tài nguyên khác do bộ ngành liên quan báo cáo chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế tài nguyên thì đối tượng chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, bao gồm vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và quốc gia liên quan thuộc chủ quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các loại tài nguyên nhân tạo không thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên. 1.1. Khoáng sản Khoáng sản là tài nguyên trong lòng đất, trên mặt đất dưới dạng tích tụ tự nhiên khoáng vật, khoáng chất có ích ở thể rắn, thể lỏng, thể khí, hiện tại hoặc sau này có thể được khai thác. Khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ mà sau này có thể được khai thác lại, cũng là khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của loài người và khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản có tác động mạnh mẽ đến môi trường sống. Một mặt, tài nguyên khoáng sản là nguồn vật chất để tạo nên các dạng vật chất có ích và của cải của con người. Bên cạnh đó, việc khai thác tài nguyên khoáng sản thường tạo ra các loại ô nhiễm như bụi, kim loại nặng, các hoá chất độc và hơi khí độc (SO2, CO, CH4 v.v...). Hoạt động khoáng sản phải phù hợp với qui hoạch khoáng sản, gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác, bảo đảm an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư, áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với qui mô, đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản. Điều 2 Luật Khoáng sản năm 2010 qui định: “Khoáng sản là khoáng vật, khoáng chất có ích được tích tụ tự nhiên ở thể rắn, thể lỏng, thể khí tồn tại trong lòng đất, trên mặt nước, bao gồm cả khoáng vật, khoáng chất ở bãi thải của mỏ”. Hoạt động khoáng sản bao gồm hoạt động thăm dò khoáng sản, hoạt động khai thác 4 khoáng sản. Tuy nhiên Luật thuế Tài nguyên chỉ đánh vào hoạt động khai thác khoáng sản. Khai thác khoáng sản là hoạt động nhằm thu hồi khoáng sản, bao gồm xây dựng cơ bản mỏ, khai đào, phân loại, làm giàu và các hoạt động khác có liên quan. Hầu hết các loại khoáng sản được khai thác đều là đối tượng chịu thuế tài nguyên. Cụ thể, khoáng sản thuộc đối tượng chịu thuế bao gồm: 1) Khoáng sản kim loại: khoáng sản kim loại đen (sắt, mangan, titan,…), khoáng sản kim loại màu (vàng, đất hiếm, bạch kim, thiếc, won fram, đồng, chì, kẽm, nhôm) 2) Khoáng sản không kim loại: đất làm gạch, đất khai thác san lấp, xây dựng công trình, đất khai thác sử dụng cho các mục đích khác; đá, cát, sỏi; than; đá quý, kim cương, thạch anh…; nước khoáng, nước nóng thiên nhiên thuộc đối tượng quy định tại Luật Khoáng sản; 1.2. Dầu thô Khoản 2 Điều 3 Luật Dầu khí năm 1993 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2008) qui định: “Dầu thô là hydrocarbon ở thể lỏng trong trạng thái tự nhiên, asphalt, ozokerite và hydrocarbon lỏng thu được từ khí thiên nhiên bằng phương pháp ngưng tụ hoặc chiết xuất”. Dầu thô là một chất lỏng sánh đặc màu nâu hoặc ngả lục. Dầu thô tồn tại trong các lớp đất đá tại một số nơi trong vỏ Trái Đất. Dầu mỏ là một hỗn hợp hóa chất hữu cơ ở thể lỏng đậm đặc, phần lớn là những hợp chất của hydrocarbon, thuộc gốc alkane, thành phần rất đa dạng. Hiện nay dầu mỏ chủ yếu dùng để sản xuất dầu hỏa, diezen và xăng nhiên liệu. Ngoài ra, dầu thô cũng là nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất ra các sản phẩm của ngành hóa dầu như dung môi, phân bón hóa học, nhựa, thuốc trừ sâu, nhựa đường... Khoảng 88% dầu thô dùng để sản xuất nhiên liệu, 12% còn lại dùng cho hóa dầu. Do dầu thô là nguồn năng lượng không tái tạo nên nhiều người lo ngại về khả năng cạn kiệt dầu trong một tương lai không xa, hơn nữa nó lại là một trong những loại tài nguyên đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên khi khai thác dầu thô trên thềm lục địa gây lún đất, ô nhiễm dầu đối với đất, không khí, nước. Khai thác trên biển gây ô nhiễm biển (50% lượng dầu ô nhiễm trên biển gây ra là do khai thác trên biển). 5 1.3. Khí thiên nhiên Khí thiên nhiên là toàn bộ hydrocarbon ở thể khí, khai thác từ giếng khoan, bao gồm cả khí ẩm, khí khô, khí đầu giếng khoan và khí còn lại sau khi chiết xuất hydrocarbon lỏng từ khí ẩm. Khí thiên nhiên, thường tìm thấy cùng với các mỏ dầu ở trong vỏ Trái Đất, được khai thác và tinh lọc thành nhiên liệu cung cấp cho khoảng 25% nguồn cung năng lượng thế giới. 1.4. Khí than. Khí than là hydrocarbon, thành phần chính là methane ở thể khí hoặc lỏng, được chứa trong các vỉa than hoặc trong các vỉa chứa lân cận. Việc quy định các đối tượng này là đối tượng chịu thuế tài nguyên trước hết xuất phát từ giá trị kinh tế bởi chúng có trữ lượng lớn, vì trữ lượng lớn nên hoạt động khai thác diễn ra mạnh và vì vậy cần phải thu thuế để đảm bảo khai thác hợp lý cũng như bảo vệ môi trường. Cũng cần lưu ý là Luật Thuế Tài nguyên chỉ đánh vào hoạt động khai thác 3 loại dầu khí nói trên chứ không đánh vào toàn bộ các hoạt động dầu khí bởi hoạt động dầu khí là hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ và khai thác dầu khí, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các hoạt động này. 1.5. Sản phẩm của rừng tự nhiên, trừ động vật Tài nguyên rừng tự nhiên gồm các loại thực vật, động vật được phép khai thác là sản phẩm của rừng tự nhiên, như: gỗ (kể cả cành, ngọn, củi, gốc, rễ... tre, nứa, giang, vầu; các loại dược liệu... và các loại thực vật, động vật được phép khai thác khác. Khoản 1 điều 3 Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 quy định: “ Rừng là một hệ sinh thái bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các yếu tố môi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng”. Rừng là lá phổi xanh của trái đất. Chúng ta không thể phủ nhận những giá trị mà rừng mang lại về nhiều mặt như kinh tế, môi trường, phòng chống thiên tai, cải tạo đất… Vì các nhu cầu ngày càng tăng của mình, con người không thể không khai thác rừng. Tuy nhiên, nếu biết khai thác một cách hợp lý và có kế hoạch trồng rừng 6 thích hợp, chúng ta sẽ vẫn vừa thoả mãn được các nhu cầu của mình, vừa không làm tổn hại đến rừng. Theo quy định của Luật thuế tài nguyên và Nghị định 50/2010/NĐ-CP thì đối tượng chịu thuế là các sản phẩm của rừng tự nhiên, bao gồm các loại thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự nhiên như gỗ các loại từ gỗ nhóm I đến nhóm VIII và các loại gỗ khác; cành, ngọn, gốc, rễ; củi; tre, trúc, nứa, mai, giang, tranh, vầu, lồ ô; trầm hương, kỳ nam; hồi, quế, sa nhân, thảo quả trừ hồi, quế, sa nhân, thảo quả do người nộp thuế trồng tại khu vực rừng tự nhiên được giao khoanh nuôi, bảo vệ. Thuế tài nguyên cũng loại trừ động vật không phải là đối tượng chịu thuế, bởi chúng ta không khai thác động vật trong rừng mà thuế tài nguyên đánh vào hoạt động khai thác tài nguyên nên không thể xếp động vật vào đối tượng chịu thuế. 1.6. Hải sản tự nhiên. Hải sản tự nhiên bao gồm các loại động vật, thực vật tự nhiên ở biển, sông, ngòi, hồ, ao, đầm... thiên nhiên. 1.7.Nước thiên nhiên . Nước mặt (biển, hồ, sông, suối, kênh, rạch, ao, đập ...); nước ngầm dưới đất, trừ nước nóng, nước khoáng thiên nhiên theo quy định của Luật Khoáng sản. Nguồn nước chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai thác, sử dụng được, bao gồm: sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao; các tầng chứa nước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác. Nước mặt là nước tồn tại trên mặt đất liền và hải đảo. Nước dưới đất là nước tồn tài trong các tầng chứa nước dưới mặt đất. 1.8. Yến sào thiên nhiên Yến sào chính là tổ chim yến, là tên một loại thực phẩm nổi tiếng được làm bằng tổ chim yến. Yến sào là sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, yến sào tự nhiên vẫn phải thuộc đối tượng chịu thuế. Yến sào chịu thuế là yến sào tự nhiên chứ không phải yến sào nuôi và như vậy nếu yến sào do con người nuôi rồi khai thác bán ra thị trường thì không phải chịu thuế. 1.9. Tài nguyên thiên nhiên khác. Tài nguyên thiên nhiên khác có thể là các loại tài nguyên đã được phát hiện hoặc chưa được phát hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi xét thấy cần bổ sung vào diện 7 chịu thuế tài nguyên thì Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, báo cáo Chính phủ để trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. 2. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định đối tượng chịu thuế của thuế tài nguyên. Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới của con người. Tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng. Do yêu cầu quản lý nhà nước đối với loại tài nguyên, nên các loại tài nguyên được quy định tại các văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Khoáng sản; Luật Dầu khí, Luật Đất đai... Vì vậy, công tác quản lý thuế tài nguyên cũng phải đảm bảo thống nhất, đồng bộ với các quy định tại văn bản luật đó. Tài nguyên thiên nhiên là nguồn tài sản quý giá của quốc gia thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Đối với nước ta, một nước có nguồn tài nguyên tương đối dồi dào, phong phú, nếu được quản lý khai thác, sử dụng hiệu quả thì là nguồn lợi lớn và lâu dài cho sự phát triển của quốc gia. Ngược lại, nếu việc quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên bừa bãi, lãng phí sẽ gây ra hậu quả xấu không chỉ cho sự phát triển kinh tế mà còn gây ra hậu quả xấu với môi trường sống. Để đảm bảo cho việc bảo vệ, việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên đạt hiệu quả, tránh việc khai thác, sử dụng bừa bãi, lãng phí, gây ảnh hưởng đến môi trường sống, các quốc gia thưởng sử dụng nhiều công cụ và biện pháp quản lý khác nhau, trong đó có việc đánh thuế vào hoạt động khai thác tài nguyên. Hơn nữa, pháp luật thuế tài nguyên sẽ một mặt, góp phần khuyến khích việc khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả, hướng dẫn sử dụng tài nguyên theo hướng có lợi cho nền kinh tế quốc dân, bảo vệ tài nguyên đất nước; mặt khác, đảm bảo cho ngân sách có nguồn thu ổn định để thực hiện các biện pháp bảo vệ, tái tạo, tìm kiếm, thăm dò các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, góp phần bảo đảm tính công bằng giữa các đơn vị khai thác, sử dụng tài nguyên với các đơn vị sản xuất kinh doanh khác trong nền kinh tế. 8 Việc đánh thuế vào hoạt động khai thác bởi đối tượng khai thác là tài nguyên như khoáng sản, nước, hải sản… Những loại tài nguyên này là tài nguyên của quốc gia nên với những loại tài sản này, người hưởng lợi từ việc khai thác phải có nghĩa vụ chia sẻ lợi ích cho nhà nước để nhà nước tái phân phối cho xã hội. Theo quy định hiện hành của pháp luật thuế tài nguyên thì đối tượng chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, bao gồm vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và quốc gia liên quan thuộc chủ quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các loại tài nguyên nhân tạo không thuộc đối tượng chịu thuế tài nguyên. III. Một số khó khăn trong quá trình thu thuế tài nguyên Việc ban hành và áp dụng thuế tài nguyên đã tác động tích cực tới tổ chức và cá nhân khai thác và sử dụng tài nguyên, góp phần tạo ý thức khai thác và sử dụng tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Đồng thời, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước để có thể đầu tư cho việc giữ gìn và phát triển tài nguyên, môi trường. Hàng năm, thuế tài nguyên đóng góp khoảng 1% trên tổng số thu ngân sách nhà nước. 2 Đây là nguồn thu không nhỏ nếu chúng ta so sánh với nguồn thu từ các sắc thuế khác như thuế nhà đất, đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất hay thuế sử dụng đất nông nghiệp. Mặc dù vậy, qua tình hình thực tế áp dụng pháp luật thuế tài nguyên, nhiều bất cập đã được bộc lộ, làm hạn chế vai trò của thuế tài nguyên. Những bất cập cơ bản là: Thứ nhất, về mức thuế suất và căn cứ xây dựng mức thuế suất còn chưa hợp lý. Theo quy định của pháp luật thuế tài nguyên hiện hành, thuế suất đối với từng loại tài nguyên phụ thuộc vào chất lượng của tài nguyên, điều kiện khai thác, vận chuyển tài nguyên, có tính đến thông lệ quốc tế và đối sách về thị trường tiêu thụ. Việc áp dụng thuế suất tài nguyên không thỏa mãn yêu cầu phân biệt chất lượng, điều kiện khai thác, vận chuyển từng loại tài nguyên như mong muốn của các nhà làm luật. Ví dụ: Quặng sắt khai thác ở Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Lào Cai, Cao Bằng… tuy có điều kiện khai thác khác nhau, nhưng tất cả lại chịu chung một mức thuế 2 Nguồn : Vietbao.vn 9 suất.3 Đối với với thuế sử dụng đất chưa thể hiện rõ nét ở căn cứ tính thuế, thuế suất cũng chưa hợp lý, đối với thuế nhà đất, mức thuế được tính căn cứ vào mức thuế sử dụng đất nông nghiệp nhân với hệ số. Như vậy là khá phức tạp, thiếu cơ sở khoa học và không còn phù hợp với thị trường bất động sản đang hình thành ở nước ta hiện nay. Thứ hai, quy định căn cứ tính thuế dựa trên giá bán một đơn vị tài nguyên là chưa hợp lý. Mục đích quy định giá tính thuế là giá bán tại nơi khai thác chứ không phải giá bán tại nơi tiêu thụ như trước đây là nhằm đảm bảo sự bình đẳng, công bằng cho các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên, tạo điều kiện khuyến khích việc khai thác tài nguyên thiên nhiên tại những địa bàn có khó khăn, vị trí địa lý không thuận lợi. Song giá bán thực tế rất đa dạng và phụ thuộc vào nhiều yếu tố: thời điểm, địa điểm, thời giá, thỏa thuận giữa người bán và người mua… Sự thay đổi của một trong các yếu tố này có thể kéo theo sự thay đổi về giá bán. Trong kinh tế thị trường, giá bán luôn là một yếu tố động, cơ quan thuế khó và không thể kiểm soát được giá bán thực tế. Do vậy, phổ biến cơ quan thuế thường áp dụng giá bán tính thuế tài nguyên theo hai cách: hoặc “ áp đặt” về giá bán tài nguyên cho doanh nghiệp, hoặc tính trên tổng giá bán trong kỳ nộp thuế của doanh nghiệp. Thứ ba, vấn đề xác định sản lượng tính thuế, như việc tính thuế tài nguyên khoáng sản đá xây dựng. Theo Điều 5 Luật thuế tài nguyên năm 2009: “Đối với tài nguyên khai thác xác định được số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng thì sản lượng tài nguyên tính thuế là số lượng, trọng lượng hoặc khối lượng của tài nguyên thực tế khai thác trong kỳ tính thuế.” Trên thực tế, đối với khoáng sản đá xây dựng thì sản lượng tính thuế tài nguyên thực tế tại nơi khai thác là đá nguyên khai (thường tính theo m 3). Cũng theo nghị định 50 của Chính phủ thì giá tính thuế tài nguyên là giá bán đơn vị sản phẩm tài nguyên tại nơi khai thác là đá nguyên khai. Tuy nhiên hiện nay, các doanh nghiệp phần lớn không bán đá nguyên khai mà đưa vào chế biến thành các sản phẩm đá 4x6, 1x2, đá mi bụi…mỗi loại sản phẩm lại có giá bán khác nhau cho nên giá tính thuế tài nguyên là giá bán của đá nguyên 3 . Trang 26, Phạm Thị Thu Khánh, khóa luận tốt nghiệp, Bước đầu tìm hiểu chính sách thuế nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường ở Việt Nam, HN 2009. 10 khai phải được quy đổi từ giá bán của các loại đá khác nhau nên rất khó khăn, phức tạp cho việc tiến hành thu thuế. Bên cạnh đó, sự chênh lệch quá cao giữa biểu thuế suất quy định so với thực tế cũng gây không ít khó khăn cho cơ quan tính thuế. Chẳng hạn, quy định khoáng sản không kim loại có khung biểu thuế suất (từ 3 – 30%). Với biên độ khá lớn này, khi nào tính thuế suất 3% và khi nào tính 30% là điều không đơn giản. Vì vậy, sẽ gây không ít những khó khăn trong quá trình thu thuế.4 Thứ tư, công tác điều tra đánh giá nguồn tài nguyên khoáng sản của quốc gia cũng như những điểm mỏ do địa phương quản lý không được coi trọng. Và theo đó công tác quy hoạch phát triển ngành khai khoáng của địa phương hoàn toàn bị bỏ qua. Các điểm mỏ hàng ngày bị xé nhỏ, cấp phép tràn lan cho các doanh nghiệp không có kinh nghiệm kỹ thuật công nghệ, không có tiềm lực tài chính, không có đánh giá địa chất đầy đủ để có thể quyết định đầu tư chế biến sâu ra các sản phẩm có giá trị thương mại cao hơn sản phẩm thô. Từ đó hạn chế nguồn thu thuế. Tài nguyên vốn được xem là tài sản của quốc gia và phần lớn không thể tái tạo được, vì thế để tận thu nguồn thuế từ tài nguyên theo ý kiến của các cơ quan chức năng thì cần tăng cường công tác kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc khai thác, đồng thời kiên quyết xử lý mọi trường hợp khai thác trái phép, góp phần quản lý, khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. IV. Ý kiến pháp lí nhằm khắc phục khó khăn trong quá trình thu thuế tài nguyên Thuế tài nguyên là một trong những công cụ tài chính, thể hiện vai trò sở hữu nhà nước đối với tài nguyên quốc gia và thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên của các tổ chức, cá nhân. Quá trình thực hiện Luật thuế tài nguyên đã góp phần bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, với việc chỉ ra những khó khăn trong quá trình thu thuế tài nguyên được đề cập ở trên, nhóm chúng tôi xin đưa ra một số kiến mang tính pháp lý nhằm khắc phục những khó khăn đó, cụ thể là: 1. Xây dựng hoàn thiện pháp luật thuế tài nguyên theo hướng: 4 Theo Cổng TTĐT Đồng Nai 11 + Cần quy định cụ thể hơn về mức thuế suất đối với các đối tượng tính thuế. Về giá tính thuế, thuế suất và thực hiện phương pháp quản lý thu: cần sửa đổi, bổ sung qui định cho phù hợp với thực tiễn hoạt động khai thác tài nguyên theo từng giai đoạn. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia tài chính thì việc tính thuế Tài nguyên cần thay đổi theo hướng dựa vào trữ lượng có thể khai thác được xét đến lợi thế về điều kiện khai thác mỏ và lợi thế thị trường tiêu thụ… chứ không đơn thuần dựa trên báo cáo sản lượng khai thác của DN. Đơn cử trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, hiện nay, nguồn thu trực tiếp từ việc khai khoáng vẫn dựa chủ yếu vào thuế Tài nguyên. DN tự kê khai sản lượng khoáng sản thực tế khai thác hàng năm và cơ quan chức năng sẽ lấy đó làm cơ sở cho việc tính thuế tài nguyên khoáng sản. Nhưng trên thực tế, nhiều trường hợp báo cáo chưa đúng sản lượng khai thác gây thất thoát nguồn thu ngân sách. Ngoài ra, việc duy trì phương thức tính thuế tài nguyên dựa theo hóa đơn xuất của DN cũng có thể dẫn tới tình trạng DN bắt tay với đối tác ghi giá trên hóa đơn thấp hơn so với giá thực tế nhằm trốn thuế và các loại phí liên quan. Bên cạnh đó, để giải quyết triệt để tình trạng "chảy máu" tài nguyên, gây thất thu cho ngân sách, Nhà nước cần phải đánh thuế ở mức cao các loại quặng xuất khẩu. Điều đó đòi hỏi tăng cường công tác thanh kiểm tra trên cơ sở tập trung những vấn đề nóng, phân loại các loại hình vi phạm (bao nhiêu DN chuyển giá, bao nhiêu DN trốn thuế bất động sản…) và các loại tài nguyên bị khai thác trái phép. Trong biểu khung thuế suất thuế tài nguyên trong Luật thuế tài nguyên năm 2009 đều chỉ có quy định khung mà không quy định rõ mức thuế suất là bao nhiêu; sau đó Nghị định hướng dẫn cũng không ghi cụ thể điều này. Việc xác định mức thuế suất gặp nhiều khó khăn. Vì thế, cần có những văn bản quy định rõ ràng hơn về mức thuế suất dành cho các đối tượng của thuế tài nguyên, tạo điều kiện cho các cơ quan tính thuế dễ dàng hơn trong quá trình thu thuế tài nguyên. Thuế suất cần được hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa cơ cấu thuế suất để nâng cao khả năng kiểm soát, chống gian lận thương mại, theo đó cần giảm bớt số lượng các mức thuế suất, loại bỏ việc áp dụng nhiều mức thuế suất đánh vào các sản phẩm cùng loại. Đồng thời cần xác lập rõ hệ thống phân loại các mức thuế suất. 12 + Quy định rõ chế độ tự chịu trách nhiệm khai báo và nộp thuế của từng đối tượng nộp thuế; đối tượng được ủy quyền, bảo lãnh nộp thay thuế + Chính sách miễn thuế phải được quy định một cách cụ thể, chi tiết và xem xét đến tính công bằng cho các tổ chức, cá nhân + Đối với công tác giá, tính thuế, cần phân công cán bộ giá chuyên trách, không kiêm nhiệm. Cán bộ làm công tác giá, thuế phải được phân công dựa trên kiến thức chuyên môn được đào tạo (tốt nghiệp các chuyên ngành thuế, kinh tế, tài chính, kế toán,v.v…). Ưu tiên bố trí những cán bộ đã làm công tác thuế, giá lâu năm, dày dặn kinh nghiệm thực tế. + Kiến nghị hoàn chỉnh các qui trình, qui chế thực hiện các biện pháp chế tài để đảm bảo thực thi nghiêm túc Luật thuế Tài nguyên, không để nợ thuế quá hạn hàng quý, hàng năm. Lập danh sách và có biện pháp cương quyết xử lý mạnh tay, dứt điểm tạo tính răn đe những cơ sở để nợ thuế tiếp diễn, ứ đọng thuế; kiên quyết áp dụng các biện pháp thu nợ đọng kịp thời. 2. Dưới góc độ quản lý các doanh nghiệp khai thác Thắt chặt hoạt động cấp phép khai thác tài nguyên cho các doanh nghiệp; theo đó, những doanh nghiệp không có kinh nghiệm, không đủ thiết bị kĩ thuất cũng như trình độ khai thác các mỏ khoáng sản sẽ không được cấp phép khai thác. Động tác này sẽ giúp cơ quan thuế có thể thắt chặt quản lí hơn theo sát được sản lượng khai thác và khi tính thuế sẽ chuẩn xác hơn hạn chế được việc thất thoát. Các cơ quan chức năng cần tăng cường rà soát, kiểm tra sản lượng khai thác thật, phải kiểm tra và rà soát thường xuyên hơn để tránh trường hợp các doanh nghiệp khai báo sai mà cơ quan thuế không biết. Xử lý nghiêm những trường hợp khai thác trái phép cũng như là khai báo sai sản lượng khai thác để chốn thuế. Do đối tượng của loại thuế này là tài nguyên cách tính thuế dựa trên sản lượng khai thác, dựa trên bảng khai của doanh nghiệp, vì vậy các doanh nghiệp rất dễ khai gian lận sản lượng khai thác thật của mình. Xảy ra thực tế khai thác được nhiều mà thuế thu về lại không tương xứng. Sở tài nguyên và môi trường và Cục thuế, chính quyền địa phương cần phải hợp tác triển khai công tác rà soát và kiểm tra việc khai thác tài nguyên trên địa phương mình một cách thường xuyên và chi tiết nhất để nắm bắt được việc khai 13 thác của các doanh nghiệp ra sao để khi thu thuế sẽ có thể nắm bắt được sản lượng thực là khoảng bao nhiêu để có thể thu thuế tương xứng tránh làm thất thoát thuế Bên cạnh đó thì các cơ quan thuế cũng cần nâng cao trình độ của các cán bộ, công chức đi làm công tác thanh tra, kiểm tra và thu thuế. Để có thể biết được doanh nghiệp có gian dối trong quá trình khai báo hay không cần có những cán bộ, công chức nắm chắc nghiệp vụ, có kinh nghiệm để tìm ra được những sai sót đó. Tài nguyên vốn được xem là tài sản quốc gia và phần lớn không thể tái tạo được, vì thế để tận thu nguồn thuế từ tài nguyên theo ý kiến của các cơ quan chức năng thì cần tăng cường công tác kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc khai thác, đồng thời kiên quyết xử lý mọi trường hợp khai thác trái phép, góp phần quản lý, khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. 3. Về công tác quy hoạch phát triển ngành khai khoáng Việc cấp phép mỏ mới cho các doanh nghiệp nên dừng lại và phải tập hợp các điểm mỏ, lập danh sách theo nhóm nguyên liệu và tổ chức đấu thầu theo nhóm. Lựa chọn nhà đầu tư có năng lực tài chính, có kinh nghiệm trong ngành khai khoáng, có dự án đầu tư chế biến và có khả năng tiêu thụ sản phẩm. Yêu cầu nhà đầu tư lập đề án và triển khai đánh giá thăm dò địa chất, quy hoạch các điểm mỏ làm nguồn nguyên liệu, báo cáo kết quả đánh giá thăm dò địa chất. C. KẾT LUẬN Pháp luật Việt Nam đã có những quy định về đối tượng chịu thuế tài nguyên nhằm hạn chế quá trình “chảy máu tài nguyên”, các quy định của pháp luật đã có nhứng thành tựu đáng kể. Song bên cạnh đó, vẫn còn một vài bất cập trong quá trình thu thuế tài nguyên. Nhóm hi vọng, qua bài phân tích này, sẽ làm rõ được các vấn đề bất cập trong quy định hiện hành của pháp luật và các nhà làm luật có thể có các kiến nghị để sửa đổi, bổ sung luật tài nguyên sao cho việc thực thi được hợp lý. 14 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009. 2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011. 3. Dự án Việt - Pháp về tăng cường năng lực đào tạo quản lí tài chính công, Học viện tài chính, Giáo trình pháp luật tài chính, Nxb. Lao động-xã hội, Hà Nội, 2008 4. Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội, 2007 5. Phạm Thị Thu Khánh, khóa luận tốt nghiệp, Bước đầu tìm hiểu chính sách thuế nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường ở Việt Nam, HN 2009. 6. Văn bản pháp luật: - Luật thuế tài nguyên năm 2009. - Nghị định số 50/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 về quy định chi tiết và hướng dẫn Luật Thuế tài nguyên 2009. 7. Website: Vietbao.vn Cổng TTĐT Đồng Nai 15 MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU......................................................................................................................................1 B. NỘI DUNG...................................................................................................................................1 I. Tổng quan về thuế tài nguyên.....................................................................................................1 1. Sự cần thiết của thuế tài nguyên:................................................................................................1 2. Ý nghĩa của thuế tài nguyên:......................................................................................................2 3. Khái niệm và đặc điểm của thuế tài nguyên................................................................................2 Đặc điểm của thuế tài nguyên..........................................................................................................3 II. Phân tích đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên..................................................................3 1. Đối tượng tính thuế của thuế tài nguyên....................................................................................3 1.1. Khoáng sản............................................................................................................................4 1.2. Dầu thô..................................................................................................................................5 1.3. Khí thiên nhiên...........................................................................................................................6 1.4. Khí than......................................................................................................................................6 1.5. Sản phẩm của rừng tự nhiên, trừ động vật..............................................................................6 1.6. Hải sản tự nhiên.........................................................................................................................7 1.7.Nước thiên nhiên .......................................................................................................................7 1.8. Yến sào thiên nhiên....................................................................................................................7 1.9. Tài nguyên thiên nhiên khác.....................................................................................................7 2. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định đối tượng chịu thuế của thuế tài nguyên.................8 III. Một số khó khăn trong quá trình thu thuế tài nguyên...........................................................9 IV. Ý kiến pháp lí nhằm khắc phục khó khăn trong quá trình thu thuế tài nguyên...............11 1. Xây dựng hoàn thiện pháp luật thuế tài nguyên theo hướng:................................................11 2. Dưới góc độ quản lý các doanh nghiệp khai thác....................................................................13 3. Về công tác quy hoạch phát triển ngành khai khoáng...........................................................14 C. KẾT LUẬN................................................................................................................................14 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................15 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan