Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU …………………………………………………………………1
NỘI DUNG CHÍNH ………………………………………………………..... 2
I. ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN
NHÂN&GIA ĐÌNH NĂM 2000 ……………………………………………… 2
1. Một số vấn đề lí luận về điều kiện kết hôn ……………………………...2
2. Nội dung điều kiện kết hôn …………………………………………….. 2
II. NHỮNG ĐIỂM CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VỀ ĐIỀU KIỆN
KẾT HÔN …………………………………………………………………......11
1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuổi kết hôn …………………….11
2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tự nguyện kết hôn ……………... 12
3. Hoàn thiện quy định của pháp luật về các trường hợp cấm kết hôn …... 13
KẾT LUẬN …………………………………………………………………. 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………….. 16
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
0
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
LỜI MỞ ĐẦU
Hôn nhân và gia đình là vấn đề gắn liền với đời sống con người. Gia đình là
tế bào của xã hội, có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển của xã
hội. Chính vì thế mà đối với ngành khoa học pháp lý, Nhà nước đã quy định một
ngành luật riêng biệt để điều chỉnh về quan hệ hôn nhân và gia đình. Có thể thấy
rằng, vấn đề kết hôn luôn được các nhà làm luật quan tâm và đưa ra các quy định
nghiêm ngặt. Kết hôn chính là cơ sở để hình thành gia đình, vì vậy cần đảm bảo
việc quản lý chặt chẽ về điều kiện kết hôn để từ đó điều chỉnh quan hệ gia đình
được tốt hơn. Em xin chọn “ phân tích điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 và nêu những điểm cần sử đổi, bổ sung” là đề tài của bài tập
lớn học kì.
Bài làm không tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót, em rất mong nhận được
sự góp ý của quý thầy (cô) để bài làm thêm hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành
cảm ơn!
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
1
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÔN NHÂN &
GIA ĐÌNH NĂM 2000
1. Một số vấn đề lí luận về điều kiện kết hôn
Kết hôn là việc hai bên nam, nữ xác lập quan hệ vợ chồng, là mốc khởi đầu
của quan hệ hôn nhân. Sự kiện kết hôn có ý nghĩa rất quan trọng trong quan hệ hôn
nhân và gia đình, được xem là hợp pháp khi được Nhà nước công nhận. Nói cách
khác, việc kết hôn sẽ được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ bằng pháp luật khi các
chủ thể tham gia quan hệ này tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn. Nếu vi phạm các
điều kiện kết hôn thì việc kết hôn không có giá trị pháp lý. Với mục đích hướng
đến xây dựng hôn nhân bình đẳng, tự nguyện, tiến bộ, gia đình hạnh phúc bền
vững, pháp luật hôn nhân và gia đình nên việc đặt ra các quy định về điều kiện kết
hôn là rất cần thiết.
Điều kiện kết hôn bao gồm, những điều kiện về mặt nội dung và mặt hình
thức, pháp luật chỉ bảo vệ hôn nhân khi thỏa mãn đầy đủ những điều kiện này. Như
vậy, các điều kiện kết hôn được hiểu là các quy định của nhà nước đặt ra để buộc
các bên nam nữ khi tiến hành xác lập quan hệ vợ chồng thì phải đáp ứng các điều
kiện kết hôn theo Điều 9 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000:
“1, Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2, Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc,
lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3, Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại
Điều 10 của Luật này”
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
2
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
2. Nội dung điều kiện kết hôn
2.1 Tuổi kết hôn theo Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định tuổi kết hôn dựa trên cơ sở
khoa học và thực tiễn.
Nói về cơ sở khoa học:
Trên phương diện sinh lý, việc nam nữ kết hôn chính là xác lập quan hệ hôn
nhân – cơ sở của gia đình. Gia đình phải thực hiện chức năng sinh đẻ nhằm phát
triển nòi giống. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng nam từ khoảng 16 tuổi trở
lên, nữ từ khoảng 13 tuổi trở lên là đã có khả năng sinh sản. Nhưng để đảm bảo
cho con sinh ra khỏe mạnh, đảm bảo sức khỏe cho người phụ nữ khi mang thai, khi
sinh đẻ thì nam phải từ khoảng 18 tuổi trở lên, nữ từ khoảng 17 tuổi trở lên. Các
nhà nghiên cứu cũng cho hay các bà mẹ sinh con trước 18 tuổi thường hay gặp các
vấn đề về sức khỏe. Những đứa con của các cặp hôn nhân xác lập quan hệ trước
tuổi luật định thường hay mắc các bệnh về nhiễm sắc thể, sức đề kháng kém, tỷ lệ
tử vong sau khi sinh cao. Chính vì lẽ đó, Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 quy
định độ tuổi kết hôn đối với nam là từ 20 tuổi, nữ là từ 18 tuổi trở lên. Quy định
này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với sức khỏe, đảm bảo cho nam nữ có
thể đảm đương trách nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ, đảm bảo cho đứa
trẻ sinh ra được khỏe mạnh về thể lực và trí tuệ, có thể phát triển toàn diện để trở
thành người công dân có ích, đặt nền tảng cho một gia đình hạnh phúc.
Trên phương diện phát triển tâm lý, khi nam nữ đạt độ tuổi trưởng thành sẽ
có những suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình. Đó là một
trong những yếu tố đảm bảo cho quan hệ hôn nhân có thể tồn tại bền vững. Đồng
thời, khi đạt độ tuổi trưởng thành, nam nữ có thể tự mình lựa chọn và quyết định
việc kết hôn, đảm bảo sự tự nguyện của nam nữ khi kết hôn. Ngoài ra, khi đạt độ
tuổi trưởng thành, nam nữ có thể tham gia lao động và có thu nhập để bảo đảm cho
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
3
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
họ có cuộc sống ổn định về kinh tế sau khi kết hôn. Đây là những yếu tố đảm bảo
cho nam nữ xây dựng được cuộc sống gia đình ấm no hạnh phúc, bình đẳng, tiến
bộ và bền vững sau khi kết hôn.
Nói về cơ sở thực tiễn:
Từ khi Luật Hôn nhân & gia đình năm 1959 có hiệu lực đến nay, quy định
về tuổi kết hôn đến nay vẫn được giữ nguyên “1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ
từ mười tám tuổi trở lên;” ( điều 9 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000).
Sở dĩ như vậy, vì quy định này đã trở thành thói quen của mọi người trong
thực hiện pháp luật. Khi dự thảo Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000, có ý kiến đề
nghị tăng tuổi kết hôn lên 20 tuổi đối với nữ, 22 tuổi đối với nam hoặc 22 tuổi đối
với nữ, 25 tuổi đối với nam, với lý do hạn chế sự gia tăng dân số. Có nhận định là
việc tăng tuổi kết hôn như vậy chỉ phù hợp với hoàn cảnh sinh hoạt ở thành thị,
nhất là đối với gia đình cán bộ, thanh niên khi đã có việc làm và tự lập về kinh tế
mới kết hôn. Các cuộc khảo sát thống kê về tuổi kết hôn ở nông thôn và miền núi
còn nhiều trường hợp kết hôn dưới tuổi luật định (tảo hôn), nữ từ 16 đến 19 tuổi,
nam từ 18 đến 21 tuổi kết hôn còn chiếm trên 50% số nam nữ kết hôn. Điều đó,
cho thấy quy định tuổi kết hôn tối thiểu cần xem xét nhiều mặt, cần chú ý đến tập
quán trong nhân dân các dân tộc. Tăng tuổi kết hôn không phải là biện pháp cơ bản
nhằm hạn chế sự tăng dân số. Mặt khác, có ý kiến cho rằng để đảm bảo bình đẳng
giới, cần hạ thấp tuổi kết hôn của nam cho ngang bằng với nữ. Tuy nhiên, vấn đề
bình đẳng giới còn phải nhìn nhận dựa trên những khác biệt về giới tính, sự hình
thành và phát triển tâm sinh lí của nam và nữ. Việc quy định trên không phải là bất
bình đẳng giới mà căn cứ vào cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn. Cũng có ý kiến
cho rằng, xã hội phát triển, điều kiện kinh tế - xã hội ngày càng nâng lên đã tác
động mạnh mẽ, khiến tâm sinh lí của trẻ phát triển sớm hơn, do đó chúng ta cần hạ
thấp tuổi kết hôn. Nhưng căn cứ vào thực tế về Việt Nam thì quan điểm này không
có tính khả thi, bởi tình hình phát triển ở nước ta không có một mặt bằng chung
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
4
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
đồng đều nên chỉ có thể áp dụng ở thành thị. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000 vẫn giữ nguyên quy định về tuổi kết hôn tối thiểu của nam là 20 tuổi và
nữ là 18 tuổi. Đây là một quyết định cần thiết và hợp lí của các nhà làm luật nước
ta.
Theo điều 3, nghị định 70/ 2001/NĐ – CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết
thi hành Luật Hôn nhân và gia đình có nêu rõ: “Nam đang ở tuổi 20, nữ đang ở
tuổi 18 thì đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 9 Luật Hôn nhân
và gia đình”. Hay theo nghị quyết số 02/2000 NQ – HĐTP ngày 23/12/2000 của
HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình 2000 như sau: “ nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở nên chứ không bắt
buộc nam phải đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn mà
nam bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18; do đó, kết hôn thì sẽ không vi phạm
điều kiện về tuổi kết hôn.” Nhưng trên thực tế lại xuất hiện hai cách tính tuổi:
Thứ nhất, tính theo tuổi tròn, tức là phải đủ 12 tháng mới tính là đủ tuổi và
phải căn cứ vào ngày tháng năm sinh được ghi trong hộ tịch để tính.
Thứ hai, tính theo ngày đầu năm dương lịch. Theo cách này chỉ căn cứ vào
năm sinh, cứ bước qua ngày 1/1 dương lịch là tính thêm một tuổi.
Tuy nhiên, cách tính tuổi thứ nhất lại được áp dụng rộng rãi hơn trong việc
cho phép kết hôn của cơ quan đăng kí kết hôn ở các địa phương.
2.2 Tự nguyện kết hôn theo Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000
Tại Điều 16 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (UDHR) được Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10-12-1948 đã ghi nhận quyền kết hôn, lập gia
đình và bình đẳng trong hôn nhân. Ở Việt Nam, Điều 64 HP năm 1992 quy định:
“Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ,
một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Bộ luật dân sự cũng đã quy định: “Nam, nữ có
đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
5
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
tự do kết hôn”. Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 ghi nhận sự tự nguyện kết hôn
là một nguyên tắc cơ bản. Vậy nên để đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện
trên thực tế, thì cần phải ghi nhận tự nguyện kết hôn là một điều kiện kết hôn.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường biến động, quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam diễn ra mạnh mẽ đã tác động không nhỏ đến quan hệ hôn nhân. Trên
thực tế có nhiều trường hợp xác lập quan hệ hôn nhân để che đậy một mục đích
khác như kết hôn để nhập cảnh, nhập quốc tịch… Điều này đã gây những tác động
tiêu cực, làm mất đi bản chất vốn có của hôn nhân. Hôn nhân khi thiếu đi sự tự
nguyện sẽ không thể bền vững và nhanh chóng đi đến đổ vỡ. Để ngăn ngừa và hạn
chế hiện tượng tiêu cực này thì pháp luật Việt Nam cần ghi nhận sự tự nguyện trở
thành một điều kiện kết hôn đặt ra đối với các bên khi kết hôn.
Khoản 2, Điều 9 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 quy định: “Việc kết
hôn do nam nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên
nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”. Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000
quy định phải có sự tự nguyện kết hôn thực sự của các bên kết hôn nhằm xóa bỏ
hoàn toàn chế độ hôn nhân cưỡng ép, phụ thuộc vào cha mẹ của hôn nhân và gia
đình thời phong kiến; đảm bảo quyền tự do cá nhân, xây dựng chế độ hôn nhân gia
đình xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng,
bình đẳng.
Tự nguyện kết hôn được hiểu là việc hai bên nam nữ tự quyết định việc kết
hôn và thể hiện ý chí mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi bên nam nữ
không bị tác động của bên kia hoặc của người nào khác khiến họ phải kết hôn trái
với nguyện vọng. Sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí, hai bên nam nữ
mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ, họ mong
muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu tình cảm giữa họ, cùng nhau xây dựng gia đình. Đây là yếu tố quan
trọng đảm bảo cho hôn nhân tồn tại lâu dài và bền vững.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
6
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
Sự tự nguyện kết hôn phải phản ánh các nội dung sau:
Sự tự nguyện kết hôn của các bên nam nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ
là họ mong muốn được chung sống với nhau suốt đời trong quan hệ vợ chồng. Mục
đích của sự tự nguyện của các bên nam nữ trong việc kết hôn phải xuất phát từ tình
yêu chân chính giữa họ. Đồng thời sự tự nguyện của nam nữ trong việc kết hôn là
nhằm xây dựng gia đình và cùng nhau chung sống lâu dài. Vì vậy, trong các trường
hợp các bên có sự tự nguyện, nhưng không vì mục đích hôn nhân mà nhằm mục
đích vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội thì sẽ không được nhà nước công nhận và
sẽ bị xử hủy.
Việc kết hôn do hai bên nam nữ tự quyết định, không chịu tác động của bên
kia hoặc của bất kỳ người nào. Kết hôn do bị cưỡng ép là hành vi buộc người khác
phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Người cưỡng ép có thể tác động về thể
chất và tinh thần, đe dọa xâm hại hoặc xâm hại đến thân thể, tài sản, danh dự, uy
tín… của người bị cưỡng ép. Trường hợp hành vi cưỡng ép (chỉ ở mức độ tác động
đến tư tưởng mà chưa đặt người bị cưỡng ép vào tình trạng buộc phải kết hôn thì
việc kết hôn vẫn được coi là tự nguyện). Còn lừa dối là việc một người dùng lời
nói hay thủ đoạn làm cho người nam hoặc nữ bị lầm tưởng nên đồng ý kết hôn sẽ
không được pháp luật công nhận.
Việc kết hôn tự nguyện của nam nữ cũng có thể bị cản trở bởi hành vi của
người thứ ba. Thông thường, hành vi cản trở được thực hiện bởi gia đình, những
người mà bản thân bên nam nữ kết hôn có sự lệ thuộc. Đối với hành vi cản trở hôn
nhân phải lên án, đồng thời phải kịp thời ngăn chặn, nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội
cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ được quy định tại Điều
146 Bộ luật hình sự năm 1999 thì cần tiến hành xử lý.
Các bên kết hôn phải có ý chí minh mẫn tại thời điểm kết hôn. Tại thời điểm
kết hôn mà một bên hoặc cả hai bên nam và nữ đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không có khả năng điều chỉnh được năng lực hành vi hoặc họ đang ở
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
7
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
trong tình trạng bị kích động mạnh thì cơ quan đăng ký kết hôn từ chối đăng kí kết
hôn cho họ, trường hợp cơ quan đăng ký kết hôn vẫn đăng ký cho họ thì việc kết
hôn đó không được nhà nước thừa nhận.
Sự tự nguyện của các bên nam nữ trong kết hôn phải được biểu hiện thông
qua thủ tục đăng ký kết hôn. Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, hai
bên nam nữ phải cùng có mặt tại cơ quan có thẩm quyền về đăng ký kết hôn, nộp
tờ khai đăng ký kết hôn. Ngày mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành đăng
ký kết hôn trao giấy chứng nhận kết hôn thì cả hai bên nam nữ vẫn phải có mặt, để
một lần nữa hai người phải trả lời trước cán bộ hộ tịch và đại diện cơ quan đăng ký
kết hôn rằng đến lúc đó họ vẫn không thay đổi ý định kết hôn với nhau. Pháp luật
không thừa nhận người đại diện trong kết hôn, trong lễ đăng ký kết hôn bắt buộc cả
hai bên nam nữ có mặt tại cơ quan đăng ký để đảm bảo việc kết hôn là hoàn toàn
tự nguyện.
2.3 Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
a, Người đang có vợ hoặc có chồng (khoản 1, Điều 10 Luật Hôn nhân & gia
đình năm 2000).
Điều 64 Hiến pháp 1992 quy định: “… Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia
đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng…”. Trên cơ sở đó, Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 khẳng
định hôn nhân phải dựa trên nguyên tắc một vợ một chồng. Do vậy, khoản 1, Điều
10 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 đã quy định việc kết hôn bị cấm đối với
người đang có vợ hoặc chồng. Trước khi Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 có
hiệu lực, nhà nước ta vẫn thừa nhận những trường hợp nam nữ sống chung với
nhau như vợ chồng, tuy không đăng ký kết hôn gọi là “hôn nhân thực tế”. Nghị
quyết số 02/2000/NQ - HĐTP ngày 23/12/2000 đã hướng dẫn cụ thể về các trường
hợp được gọi là “người có vợ, có chồng”:
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
8
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
“Người đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về Hôn nhân và gia
đình nhưng chưa li hôn.
Người đang chung sống với người khác như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987 và đang sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng kí
kết hôn.
Người chung sống với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có
đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng kí kết hôn (trường hợp này chỉ áp
dụng từ ngày nghị quyết này có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003).”
Và thông tư liên tịch số 1/2001/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BTP ngày
3/1/2001 đã quy định cụ thể về các trường hợp được coi là chung sống như vợ
chồng, bao gồm:
“Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
Việc họ về chung sống với nhan được gia đình (một bên hoặc cả hai bên)
chấp nhận;
Việc họ về chung sống với nhan được người khác hay tổ chức chứng kiến;
Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhan xây
dựng gia đình.”
Các trường hợp chung sống như vợ chồng thuộc quy định trên thì được
pháp luật công nhận là “hôn nhân thực tế” và được coi là người đang có vợ, có
chồng mặc dù không thực hiện đăng ký kết hôn. Luật Hôn nhân & gia đình năm
2000 không cho phép người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác, chỉ có
những người chưa kết hôn hoặc đã kết hôn rồi nhưng vợ hoặc chồng đã chết, hoặc
cả hai người đã ly hôn thì mới có quyền kết hôn với người khác. Đối với trường
hợp nam nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 1/1/2001 trở đi,
mà không đăng ký kết hôn thì họ không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
9
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
b, Người mất năng lực hành vi dân sự (khoản 2, Điều 10 Luật Hôn nhân &
gia đình năm 2000).
Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định người mất năng lực hành vi dân
sự là người “do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình”. Khoản 2, Điều 10 Luật Hôn nhân & gia đình
năm 2000 quy định như vậy là bởi các lý do:
Khi nam nữ kết hôn, họ phải thực hiện các nghĩa vụ của bản thân đối với vợ,
chồng, con cái. Những người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn
đến không thể nhận thức và thực hiện được trách nhiêm làm chồng, làm vợ,
làm cha, làm mẹ.
Điều 22 Bộ luật dân sự quy định: “Giao dịch dân sự của người mất năng lực
hành vi dân sự phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện”.
Mà quyền kết hôn là quyền nhân thân của mỗi người và pháp luật không
thừa nhận người đại diện trong kết hôn để đảm bảo yếu tố tự nguyện (Điều 9
Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000).
c, Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ
trong phạm vi ba đời (khoản 3, Điều 10 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000).
Khoản 12, Điều 8 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 quy định “Những
người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu nội
và cháu ngoại”, khoản 13 Điều 18 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 quy định:
“Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra:
cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ
ba”. Việc quy định như vậy là để đảm bảo cho con cái sinh ra khỏe mạnh, nòi
giống phát triển bình thường. Thực tế, y học đã chứng minh những đứa con được
sinh ra từ những người có quan hệ huyết thống có nhiều khả năng bị dị dạng hoặc
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
10
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
mắc các bệnh di truyền như: Bệnh tan máu bẩm sinh, mù màu, biến dạng xương
mặt, bạch tạng, bụng phình to, da vảy cá,… Những đứa trẻ này có nguy cơ tử vong
cao gấp 2 lần và nguy cơ dị tật gấp khoảng 6 lần so với những người bình thường
khác.
d, Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với
con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ,
mẹ kế với con riêng của chồng (khoản 4, Điều 10 Luật Hôn nhân & gia đình năm
2000).
Để xác nhận người kết hôn rơi vào một trong những quan hệ trên cần dựa
vào quyết định nhận nuôi con nuôi đối với quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, hoặc giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn đối với quan hệ giữa người đã từng là bố chồng với con dâu, mẹ vợ với
con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Luật Hôn
nhân & gia đình năm 2000 quy định cấm kết hôn đối với những trường hợp này
nhằm đảm bảo thuần phong mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội và trật tự, truyền
thống của gia đình Việt, ngăn chặn trường hợp lợi dụng mối quan hệ phụ thuộc để
ép buộc đối phương phải kết hôn với mình.
đ, Giữa những người cùng giới tính (khoản 5, Điều 10 Luật Hôn nhân & gia
đình năm 2000).
Kết hôn giữa những người cùng giới tính là việc thiết lập quan hệ vợ chồng
giữa hai người đều là nam hoặc đều là nữ. Những người đồng tính cho rằng mình
đang sống với giới tính thật của mình còn các đặc điểm về mặt sinh học (thân thể,
cơ quan sinh dục,…) thì không nói lên giá trị thật của con người. Trong khi các
nhà làm luật coi nhận thức này là biểu hiện của bệnh tâm lý cần phải chữa. Đây là
một quy định mới của Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 trước thực trạng xuất
hiện các cặp nam hoặc cặp nữ cùng chung sống với nhau như vợ chồng, tổ chức
đám cưới công khai. Có quy định này là vì việc kết hôn giữa những người cùng
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
11
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
giới tính không phù hợp với đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, truyền thống của
gia đình Việt và mục đích kết hôn xây dựng gia đình, duy trì nòi giống.
II. NHỮNG ĐIỂM CẦN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG VỀ ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN
1. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuổi kết hôn
Quy định như Khoản 1, Điều 9 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 là chưa
đảm bảo tính pháp lí và tính thống nhất trong các quy định của pháp luật. Ở đây
xuất hiện sự không phù hợp giữa quy định của Luật Hôn nhân & gia đình năm
2000 với thực tiễn thi hành pháp luật. Theo quy định của các văn bản pháp luật liên
quan thì không bắt buộc nam phải đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải đủ 18 tuổi trở lên mà
nam chỉ cần bước sang tuổi 20, nữ bước sang tuổi 18 là có thể kết hôn mà không vi
phạm về điều kiện về độ tuổi kết hôn. Còn theo Bộ luật dân sự thì người chưa đủ
18 tuổi là người chưa thành niên, người vợ 17 tuổi 1 ngày là người chưa thành niên
khi thực hiện các quyền của mình. Xuất phát từ vấn đề đó gây ảnh hưởng tới thực
tiễn thực thi pháp luật và giải quyết các tranh chấp có liên quan.
Mặt khác, việc quy định độ tuổi kết hôn đối với “nữ là từ mười tám tuổi trở
lên” là hơi bất cập, làm mất đi tính tương thích giữa các ngành luật với nhau. Bởi
trong Bộ luật dân sự có quy định: “ Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành
niên” (điều 18), “ Người thành niên là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự,
trừ trường hợp quy định tại điều 22, 23 của Bộ luật này” (điều 19). Theo đó, người
chưa thành niên sẽ đặt ra yêu cầu về người đại diện, bởi họ không tự bảo vệ quyền
lợi của mình và không thể độc lập tham gia mọi giao dịch trong quan hệ pháp luật
được. Đồng thời, kéo theo những vướng mắc, khó giải quyết trong tố tụng dân sự,
cũng như vấn đề xác định người đại diện của vợ (chồng) là chồng (vợ) hay cha mẹ,
…
Vì thế, các nhà làm luật nên sửa đổi khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân & gia
đình như sau: “ Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên”.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
12
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về tự nguyện kết hôn
Thứ nhất, cần bổ sung quy định về mục đích của việc kết hôn. Trên thực tế,
hiện tượng kết hôn giả tạo để thực hiện các mục đích diễn ra không ít nhưng việc
kết hôn này có bị coi là vi phạm sự tự nguyện kết hôn hay không thì pháp luật lại
chưa có quy định. Vậy nên, để hạn chế, ngăn ngừa và có hướng giải quyết đối với
những trường hợp này cần quy định mục đích của việc kết hôn là nhằm xây dựng
gia đình và chung sống trong quan hệ vợ chồng, việc kết hôn nhằm mục đích khác
thì coi là vi phạm sự tự nguyện và cần xử lý theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, cần bổ sung các quy định cụ thể về hướng dẫn cách thức phỏng
vấn, nội dung phỏng vấn, vấn đề phiên dịch trong phỏng vấn để thực hiện thủ tục
kết hôn hiệu quả, thống nhất giải pháp, đảm bảo có hiệu quả quyền lợi cho các bên
tham gia quan hệ kết hôn, đặc biệt là kết hôn có yếu tố nước ngoài.
3. Hoàn thiện quy định của pháp luật về các trường hợp cấm kết hôn
Cần sửa thuật ngữ “người mất năng lực hành vi dân sự” thành “người mắc
bệnh tâm thần hoặc bệnh khác không có khả năng nhận thức, làm chủ được hành
vi của mình” tại khoản 2, Điều 10 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 để dễ hiểu,
thuận lợi cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, áp dụng pháp
luật.
Nên đưa ra những trường hợp ngoại lệ được kết hôn tại khoản 4, Điều 10
Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 để đảm bảo quyền tự do kết hôn của công
dân. Vì về mặt huyết thống, những người trong quan hệ được quy định tại điều
khoản này không hề có liên quan đến nhau. Vì vậy, việc kết hôn giữa họ không gây
ra hậu quả về sức khỏe và nòi giống của thế hệ sau.
Cần giải thích và có hướng dẫn cụ thể, làm rõ vấn đề giới tính là gì? Những
người cùng giới tính là những người như thế nào? Vấn đề xác định lại giới tính vẫn
còn nhiều vướng mắc. Trường hợp cặp đôi đồng tính Quanh Minh và Thùy Linh ở
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
13
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
Hà Nội chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn nhưng Tòa án
không thể tuyên hủy kết hôn vì không hề có quy định nào. Tuy nhiên, những người
đồng tính cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc riêng. Nhưng trong tình hình thực tế,
ta không thể cấp giấy chứng nhận kết hôn cho họ nhưng cũng không nên cấm đoán
họ yêu nhau, chấp nhận việc họ sống chung, có tài sản chung và có con chung,
không nên xa lánh miệt thị họ. Có nghĩa là, ta nên thục hiện từng bước việc hợp
pháp hóa hôn nhân của những người cùng giới tính để họ xây dựng cho mình một
gia đình riêng hạnh phúc, bền vững.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
14
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
KẾT LUẬN
Luật Hôn nhân & gia đình năm 2000 quy định điều kiện kết hôn thể hiện tính
khoa học và phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, đồng thời cũng phù
hợp với tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Thông qua việc phân tích để làm rõ và
đưa ra những ý kiến cá nhân về hoàn thiện chế định điều kiện kết hôn trên đây để
góp phần ổn định quan hệ hôn nhân, qua đó giảm thiểu số lượng án về hôn nhân và
gia đình, đảm bảo việc quản lý xã hội theo kỉ cương pháp luật, ổn định chính trị,
bảo vệ nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
15
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
3. Bộ luật Dân sự năm 2005;
4. Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
5. Nghị định 70/ 2001/NĐ – CP ngày 3/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình 2000;
6. Nghị quyết số 02/2000 NQ – HĐTP ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2000;
7. Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình – Trường Đại học Luật Hà Nội –
2009.
8. Các trường hợp cấm kết hôn – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn – Trần Thị
Quỳnh Trang – Khóa luận tốt nghiệp – 2012.
9. Các trường hợp cấm kết hôn – Cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
– Tô Thị Thu Trang – Khóa luận tốt nghiệp – 2012.
10. Tuổi kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn – Vũ Thị Hồng Điệp – Khóa luận tốt nghiệp – 2012.
11. Tự nguyện kết hôn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn – Phạm Thu Thảo –
Khóa luận tốt nghiệp – 2012.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
16
Nguyễn Thị Hương – 361026
Lớp: N06
Đề số: 02
12. Một số vấn đề cần sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 –
Nguyễn Quỳnh Anh – Khóa luận tốt nghiệp – 2010.
Bài tập học kì môn luật Hôn nhân và gia đình
17
- Xem thêm -