Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân tích biện pháp tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hính ự...

Tài liệu Phân tích biện pháp tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hính ự

.DOC
16
98
120

Mô tả:

Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự A. Đặt vấn đề: Thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm luôn đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải tiến hành các hoạt động của mình một cách nhanh chóng, chính xác nhất, bảo đảm tính trung thực, công minh, đúng người đúng tội, không gây oan cho người vô tội đồng thời không bỏ sót kẻ phạm tội. Để công tác điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tố tụng diễn ra hiệu quả, Luật tố tụng hình sự quy định một số biện pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Mỗi biện pháp được áp dụng nhằm mục đích, ý nghĩa khác nhau, thể hiện ở mức độ nhất định tính nghiêm minh của pháp luật. Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, bài viết tập trung phân tích các nội dung của chế định tạm giam hiện hành quy định tại Chương VI Bộ luật tố tụng hình sự 2003, đồng thời đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này trên thực tế. B. Giải quyết vấn đề: I. Khái niệm: 1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố (trong những trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Theo pháp luật hiện hành, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Chương VI Bộ luật Tố tụng hình sự 2003, gồm có: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Những biện pháp ngăn chặn là một nhóm trong số các nhóm biện pháp cưỡng chế, được cơ quan có thẩm quyền áp dụng nhằm tạo điều kiện thuận lợi -1 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự nhất cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Việc áp dụng các biện pháp này có tác dụng ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật hay hành vi gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, đảm bảo thi hành án. Khi được áp dụng, những biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác (như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại và cư trú...), do đó việc áp dụng đòi hỏi phải dựa trên những căn cứ chính xác, thuyết phục, không được áp dụng tùy tiện. 2. Khái niệm tạm giam: Biện pháp tạm giam được quy định tại Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Theo đó, tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tự trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Biện pháp tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự. Trong tạm giam, sự bắt buộc của Nhà nước đối với bị can, bị cáo được thể hiện ở chỗ, biện pháp tạm giam được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân (quyền học tập...). Do vậy cú thể thấy, tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự. Là một biện pháp ngăn chặn, nên mục đích của biện pháp tạm giam khi được áp dụng là ngăn chặn không để bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, ở mỗi giai đoạn tố tụng khác nhau, biện pháp tạm giam còn có những ý nghĩa nhất định nhằm -2 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự phục vụ cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp cho việc quản lý giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên án đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được thuận lợi hơn. II. Biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành: 1. Đối tượng áp dụng: 1. 1 Đối tượng áp dụng thông thường: Khoản 1 Điều 88 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003 quy định: "Tạm giam có .. được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây: a. Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng; b. Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tự trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội" Như vậy, trước hết, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo, những người không phải là bị can, bị cáo thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Bị can là những người đã cú quyết định khởi tố về một tội phạm cụ thể trong BLHS (khoản 1 Điều 49 Bộ luật TTHS 2003), còn bị cáo là những người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử (khoản 1 Điều 50 Bộ luật TTHS 2003). Những bị can, bị cáo thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật TTHS thì bị áp dụng biện pháp tạm giam. Các trường hợp đó là: -3 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự a. Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng. Tội phạm được phân loại theo tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS. Theo đó, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tự, tự chung thân hoặc tử hình. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tự. Trong trường hợp này, người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể ra lệnh tạm giam ngay đối với bị can, bị cáo mà không cần thêm căn cứ gì. b. Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tự trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Cũng theo quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS, tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tự; tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tự. Theo quy định của Bộ luật TTHS, trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, biện pháp ngăn chặn tạm giam chỉ được áp dụng nếu BLHS quy định hình phạt tự trên 2 năm, còn nếu hình phạt được quy định là thấp hơn 2 năm tự hoặc hình phạt khác không phải hình phạt tự thì không được áp dụng biện pháp tạm giam. Như vậy, đối với những điều luâ ̣t có nhiều khoản thì những trường hợp bị can, bị cáo phạm tô ̣i quy định ở khoản có mức cao nhất ở khung hình phạt từ hai năm trở xuống cũng không được tạm giam họ. Cơ quan tố tụng phải tiến hành các biện pháp ngăn chặn khác nếu thấy cần thiết như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong trường hợp này, để áp dụng biện pháp tạm giam, cơ quan tố tụng cần kết hợp với một điều kiện nữa, đó là có căn cứ cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm -4 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự tội. Việc xem xét nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc khác là cơ sở để cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng biện pháp tạm giam. 1.2 Đối tượng áp dụng đặc biệt: Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kì nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng là những đối tượng áp dụng đặc biệt của biện pháp tạm giam. Theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Bộ luật TTHS 2003, cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác mà không được áp dụng biện pháp tạm giam với những đối tượng này, trừ những trường hợp: - Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã. - Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử. - Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Đây là quy định thể hiện tính nhân đạo, tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng của pháp luật. Bởi lẽ, nếu áp dụng biện pháp tạm giam với những đối tượng này, điều kiện sinh hoạt trong các trại tạm giam không thể đảm bảo đầy đủ những nhu cầu thiết yếu của phụ nữ mang thai, phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu và người bị bệnh nặng. Hơn nữa, khi bị can, bị cáo đã có nơi cư trú rõ ràng, nếu họ không thuộc các trường hợp đặc biệt trên, các Cơ quan tiến hành tố tụng có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng. Ngoài ra, trường hợp bắt người chưa thành niên cũng phải tuân thủ những điều kiện quy định tại Điều 303 BLTTHS: -5 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự "1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. 2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng." 2. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam: Bộ luật TTHS 2003 quy định các căn cứ chung để áp dụng biện pháp ngăn chặn tại Điều 79. Theo đó, có 4 căn cứ chung để áp dụng các biện pháp ngăn chặn là: - Để kịp thời ngăn chặn tội phạm - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. - Để đảm bảo thi hành án. Như đã phân tích ở trên, biện pháp tạm giam có đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo. Đây là những người phạm tội đã cú quyết định truy tố hoặc quyết định xét xử và hành vi phạm tội của họ là hành vi đã được thực hiện trong quá khứ. Do đó, căn cứ "để kịp thời ngăn chặn tội phạm" không phải là căn cứ áp dụng của biện pháp tạm giam. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm: - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử: căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử được thể hiện qua việc bỏ trốn, làm giả chứng cứ hoặc tiêu hủy chứng cứ, có sự câu kết, bàn bạc giữa những người đồng phạm với nhau nhằm trốn tránh pháp luật, mua chuộc, đe dọa, khống chế người làm -6 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự chứng, người bị hại... gây khó khăn cho hoạt động xác định sự thật khách quan của vụ án. - Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội: những căn cứ này được xác định dựa trên các phương diện: nhân thân bị can, bị cáo (bị can, bị cáo có nhân thân xấu như thuộc diện lưu manh, côn đồ, hung hãn; bị can, bị cáo đã có nhiều tiền án, tiền sự hoặc những đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp); hành vi của bị can, bị cáo (đe dọa trả thù người tố giác, đe dọa trả thù người bị hại, người làm chứng và đã có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện hoặc các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm, có khả năng thực hiện được sự đe dọa đó). - Để đảm bảo thi hành án: ở cấp xét xử sơ thẩm, biện pháp tạm giam được áp dụng để loại trừ hoàn toàn khả năng trốn tránh hay gây khó khăn cho việc thi hành án của bị cáo khi có cơ sở cho rằng nếu không hạn chế tự do của bị cáo thì bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Ở cấp xét xử phúc thẩm, biện pháp tạm giam được áp dụng để đảm bảo thi hành án chỉ trừ trường hợp bị cáo có lý do để hoãn thi hành án phạt tù. Như vậy, các căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam chủ yếu dựa vào đặc điểm nhân thân và dấu hiệu động thái của bị can, bị cáo, dựa vào khả năng "bỏ trốn" hay "gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử" hoặc "tiếp tục phạm tội" của những người này. Khi không có những căn cứ này, các Cơ quan tố tụng chỉ cần áp dụng những biện pháp ngăn chặn ít nghiêm khắc khác như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh... 3. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam: Khoản 3 Điều 88 Bộ luật TTHS 2003 quy định, người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra lệnh tạm giam. Quy định này dẫn chiếu đến quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật về thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Theo đó, thẩm quyền ra lệnh tạm giam thuộc về: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát -7 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp (riêng trường hợp này, lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành). Như vậy, thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Viện Kiểm sát với chức năng là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt là với lệnh tạm giam của Thủ trưởng, Phó Thủ trường cơ quan điều tra các cấp. 4. Thủ tục tạm giam: Biện pháp ngăn chặn tạm giam khi được áp dụng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến các quyền công dân của người bị tạm giam, do đó, biện pháp này phải tuân theo những thủ tục nhất định. Thứ nhất, việc tạm giam phải có lệnh viết của người có thẩm quyền. Lệnh tạm giam phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam. Lệnh tạm giam phải giao cho người bị tạm giam một bản để họ xem xét và thấy rõ rằng việc mình bị tạm giam là hoàn toàn đúng pháp luật hay chưa đúng pháp luật. Trong trường hợp chủ thể ra lệnh tạm giam là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp, thì lệnh tạm giam đó phải được phê chuẩn bởi Viện Kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Thời hạn để Viện kiểm sát xem xét ra quyết định phê chuẩn là ba ngày kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn dự có phê chuẩn hay không. -8 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự Thứ hai, sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam nhằm xác định đúng đối tượng cần tạm giam, tránh trường hợp nhầm lẫn Thứ ba, sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan đã ra lệnh tạm giam cần phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết để gia đình họ cũng như các cơ quan tổ chức biết được sự việc, không phải tiến hành những thủ tục tìm kiếm không cần thiết, đồng thời để chính quyền địa phương thực hiện tốt chức năng phối hợp. 5. Thời hạn tạm giam: Thời hạn tạm giam trong tố tụng hình sự được chia thành: thời hạn tạm giam để điều tra; thời hạn tạm giam để truy tố; thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm; thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam để thi hành án. Mỗi loại thời hạn tương ứng với một giai đoạn của quá trình tố tụng, do đó những thời hạn này là không giống nhau. Trong Bộ luật TTHS 2003, thời hạn tạm giam được quy định rải rác ở các điều luật: Điều 120, khoản 2 Điều 166, Điều 177, Điều 228, Điều 243. 5.1. Thời hạn tạm giam để điều tra: Theo khoản 1 Điều 120, thời hạn tạm giam để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 2 của Điều này quy định về việc gia hạn thời hạn tạm giam trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Theo đó, thời hạn tạm giam để điều tra tối đa đối với tội phạm ít nghiêm trọng là 3 tháng, đối với tội phạm nghiêm trọng là 6 tháng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng là 9 tháng, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng. Riêng đối với tội phạm xâm phạm -9 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự an ninh quốc gia, theo khoản 5 Điều 120 quy định, thời hạn tạm giam có thể lên đến 20 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam để điều tra theo Điều 120 bằng với thời hạn điều tra quy định tại Điều 119 Bộ luật TTHS còn thời hạn gia hạn tạm giam để điều tra đối với tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng ngắn hơn thời hạn gia hạn điều tra. Việc quy định như vậy có ý nghĩa nhằm hạn chế việc lạm dụng biện pháp tạm giam trong khi không tiến hành điều tra hiệu quả, đảm bảo cho các cơ quan tố tụng phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết vụ án trong khi biện pháp ngăn chặn vẫn còn thời hạn áp dụng. 5.2 Thời hạn tạm giam để truy tố: Thời hạn tạm giam để truy tố được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 166 Bộ luật TTHS. Theo đó, thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến ba mươi ngày, đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể lên đến bốn mươi lăm ngày, còn đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thời hạn này có thể lên đến sáu mươi ngày. 5.3 Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm: Theo Điều 177 “thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này” thì biện pháp tạm giam có thể được áp dụng trước và sau khi cú quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn. Tuy nhiên, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa (kể cả gia hạn) là 75 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 90 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 120 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng, riêng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, thời hạn này có thể lên đến 150 ngày. 5.4 Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm: Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 242, khoản 1 Điều 243 Bộ luật TTHS 2003. Thời hạn này không được quá thời hạn - 10 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự chuẩn bị xét xử phúc thẩm, cụ thể Điều 242 quy định: ”Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án”. Như vậy, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm tối đa là 90 ngày. Riêng đối với trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa, thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, Tòa án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa. 5.5 Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án: Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, hội đồng xét xử có thể quyết định áp dụng biện pháp tạm giam để đảm bảo việc thi hành án. Việc tạm giam đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm được quy định tại Điều 228, đối với giai đoạn xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 243 Bộ luật TTHS. Thời hạn này là bốn mươi lăm ngày kể từ ngày tuyên án. 6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam: 6.1 Chế độ tạm giam: Là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong số các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, nhưng tạm giam không phải là hình phạt tự bởi mục đích áp dụng của biện pháp này không phải là mục đích trừng phạt. Do đó, chế độ tạm giam khác với chế độ người đang chấp hành hình phạt tự. Theo quy định tại Điều 89 Bộ luật TTHS: “Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Cụ thể, Chính phủ đã ban hành các văn bản: Nghị định 89/1998/NĐ-CP về Quy chế tạm giữ, tạm giam; Nghị định 98/2002 sửa đổi bổ sung Quy chế tạm giữ tạm giam ban hành kèm theo Nghị định 89; gần đây nhất là - 11 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự Nghị định 09/2011 (có hiệu lực từ ngày 15/3/2011) tiếp tục sửa đổi bổ sung Nghị định 89/1998. 6.2 Chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giam: Việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giam được quy định tại Điều 90 Bộ luật TTHS. Theo đó, nếu người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì những người này sẽ được đảm bảo chăm nom bởi những người thân thích khác hoặc chính quyền sở tại. Tài sản của người bị tạm giam nếu không có người trông nom, bảo quản thì cũng được áp dụng những biện pháp bảo quản thích đáng. Đây là một quy định thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước, bảo đảm cuộc sống cho người phụ thuộc vào người bị tạm giam cũng như tài sản của họ trong trường hợp không có người trông nom, bảo quản. 6.3 Khấu trừ thời hạn tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt tự: Điều 33 Bộ luật Hình sự quy định, thời hạn tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tự, cứ mỗi ngày tạm giam bằng một ngày tự. Những hình phạt khác không phải hình phạt tự có thời hạn như cảnh cáo, phạt tiền hoặc tử hình thì không áp dụng quy định này. Riêng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỉ luật của quân đội và hình phạt tự chung thân thì thời hạn tạm giam được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tự. 6.4 Quyền của người bị tạm giam: Đối tượng áp dụng của biện pháp tạm giam là bị can, bị cáo. Vì vậy, những người này khi bị tạm giam có đầy đủ các quyền của bị can, bị cáo. Các quyền của bị can, bị cáo được quy định tại Điều 49, Điều 50 Bộ luật TTHS, ngoài ra trong trường hợp người bị tạm giam là người bị kết án đang chờ thi hành hình phạt tự thì quyền của họ được quy định tại Điều 260 Bộ luật TTHS. Theo đó, bị can, bị cáo có các quyền như quyền được nhận thông tin cần thiết về vụ án; quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; quyền tự bào chữa - 12 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự hoặc nhờ người khác bào chữa; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Những quyền này được quy định vừa nhằm đảm bảo cho bị can, bị cáo chủ động tham gia tố tụng, vừa góp phần vào việc tránh bỏ lọt tội phạm, tránh bắt giam người vô tội khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Đối với người bị tạm giam là người đã bị kết án, đang chờ thi hành hình phạt tự, Bộ luật TTHS quy định cho họ quyền được gặp người thân thích trước khi thi hành án theo yêu cầu của người thân thích của người bị kết án. III. Hoàn thiện pháp luật về tạm giam trong tố tụng hình sự: Thực tiễn thời gian gần đây cho thấy, việc áp dụng biện pháp tạm giam đã tuân thủ các quy định của pháp luật về căn cứ áp dụng, thẩm quyền, thời hạn và thủ tục áp dụng. Tuy vậy, có không ít trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam không có hoặc không đủ căn cứ theo quy định đã xâm phạm đến quyền tự do cá nhân, các quyền cơ bản của công dân. Có thể kể ra các sai sót thường gặp như tạm giam người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng, tạm giam khi không cần thiết, tạm giạm người không có tội, trong các lệnh tạm giam của cơ quan điều tra, quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của VKS chỉ nêu chung chung là căn cứ vào hành vi phạm tội, căn cứ vào các Điều luật của Bộ luật…Nguyên nhân của thực trạng trên, mô ̣t phần do nhâ ̣n thức không thống nhất giữa cơ quan tiến hành tố tụng, do những người tiến hành tố tụng thực hiê ̣n không đúng, không đầy đủ các quy định về tạm giam, nhưng mô ̣t phần cũng do các quy định về tạm giam chưa được hợp lý, gây nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng. Từ việc phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về biện pháp ngăn chặn tạm giam, bài viết xin đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Về trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam: Điểm a khoản 1 Điều 88 quy định biện pháp tạm giam áp dụng khi bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. Quy định này có lẽ xuất phát từ suy đoán - 13 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự của nhà làm luật rằng người phạm tội sẽ cân nhắc mối tương quan về lợi ích giữa việc chấp nhận bị truy cứu trách nhiệm hình sự với việc bỏ trốn thì việc bỏ trốn luôn mang lại lợi ích cao hơn, từ đó lấy tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và khả năng phải gánh chịu hình phạt tương ứng để làm căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Sự suy diễn này là không đủ căn cứ thuyết phục. Do đó, không nên sử dụng kết quả phân loại tội phạm như cơ sở độc lập để xây dựng căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn như vậy mà cần coi khả năng bị can, bị cáo có thể cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định biện pháp tạm giam. Về vấn đề phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Hiện nay khoản 3 Điều 88 quy định thời hạn để VKS xem xét là "trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến việc tạm giam". Tuy nhiên, do tính chất mức độ nghiêm trọng và phức tạp của các vụ án là không giống nhau, nếu vụ án đơn giản, hồ sơ tài liệu đầy đủ thì VKS có thể chỉ cần xem xét trong một ngày nhưng có những vụ án mà hồ sơ, tài liệu nhiều, phức tạp thì cần phải có nhiều thời gian hơn để VKS nghiên cứu trước khi phê chuẩn. Vì vậy, Bộ luật TTHS nên quy định các mức thời hạn phê chuẩn lệnh của VKS, theo từng loại vụ án đơn giản hay phức tạp, kể từ khi nhận được công văn đề nghị phê chuẩn và tài liệu của vụ án. Về chế độ tạm giam: Trong trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam đối với đối tượng đặc biệt là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng, chế độ tạm giam cần phải được quy định thêm những điều kiện đặc biệt để đảm bảo sức khỏe và những nhu cầu thiết yếu riêng của những đối tượng này. Về trách nhiệm của người đề xuất, người ra lệnh và người phê chuẩn trong trường hợp tạm giam trái pháp luật. Cần phải có quy định rõ ràng Điều tra viên phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải chịu trách nhiệm của người ra lệnh. Nếu việc tạm giam sau đó lại được VKS - 14 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự phê chuẩn thì người đã đề xuất phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người đề xuất, người đã phê chuẩn phải chịu trách nhiệm của người phê chuẩn. Về việc hạn chế tạm giam đối với một số loại tội phạm: Trên thực tế, có những trường hợp bị can, bị cáo phạm tội thuộc nhóm tội phạm về kinh tế chức vụ, họ có nơi cư trú rõ ràng, có đủ điều kiện để có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc hơn biện pháp tạm giam như: cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh hoặc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, họ không có khả năng và điều kiện thực tế để có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Vì vậy, việc tạm giam trong những trường hợp này là không cần thiết. Trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay cần nghiên cứu hạn chế tạm giam đối với một số loại tội phạm như: nhóm tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế; nhóm tội phạm về môi trường; một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu (trừ cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản…), một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp. C. Kết luận: Trong số các biện pháp ngăn chặn đang được pháp luật tố tụng hình sự quy định, một lần nữa có thể khẳng định rằng, tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc nhất, triệt để nhất phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, đấu tranh với tội phạm đạt hiệu quả. Nếu biện pháp này được áp dụng hiệu quả trên thực tế, đây sẽ là phương thức hỗ trợ đắc lực cho hoạt động của các Cơ quan tố tụng. Ngược lại, nếu lợi dụng biện pháp tạm giam để giam giữ người không có căn cứ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích cơ bản của công dân, gây mất lòng tin trong quần chúng. Trong phạm vi nghiên cứu của mình, bài viết đã phân tích và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tạm giam, nhằm làm cho công tác áp dụng biện pháp này trở nên có hiệu quả hơn trên thực tế. - 15 Bài tập lớn học kì – Môn Luật Tố tụng hình sự Tài liệu tham khảo: 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, "Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam", nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2006. 2. Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003. 3. Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi bổ sung 2009) 4. PGS.TS. Vị Khánh Vinh chủ biên, "Bình luận khoa học bộ luật tố tụng hình sự", Nxb CAND, Hà Nội 2004. 5. Hà Đình Hiệu,"Tạm giam trong tố tụng hình sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" - Khó luận tốt nghiệp; Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Ngọc Khanh, Hà Nội, 2010. 6. Nguyễn Văn Điệp, "Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp" - Luận án tiến sĩ Luật học; Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Hiện, PGS.TS. Vị Khánh Vinh, Hà Nội, 2005 7. Lê Thanh Bình, "Căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam" - Luận văn thạc sĩ luật học; Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Văn Độ, Hà Nội, 2010 - 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan