Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân loại tội phạm trong luật hình sự việt nam​...

Tài liệu Phân loại tội phạm trong luật hình sự việt nam​

.PDF
80
95
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ GIANG PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà nội – 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ GIANG PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101,03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ Hà nội – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Trần Văn Độ. Các thông tin và kết quả nghiên cứu được trong luận văn do tự tôi thu thập, tìm hiểu, tổng hợp và phân tích một cách khách quan. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả Trần Thị Giang MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM ...........6 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm..........................................................6 1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm ...........................................................................6 1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm ......................................................................11 1.2. Các cách phân loại tội phạm ..............................................................................17 1.2.1. Phân loại tội phạm căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm....17 1.2.2. Phân loại căn cứ vào hình thức lỗi ..................................................................19 1.2.3. Căn cứ vào khách thể loại của tội phạm .........................................................20 1.2.4. Căn cứ chủ thể của tội phạm ...........................................................................22 1.2.5. Căn cứ cấu trúc cấu thành tội phạm: ...............................................................23 1.2.6. Căn cứ vào bị hại:............................................................................................23 1.3. Phân loại tội phạm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam ...........................24 1.3.1. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự trước pháp điển hoá (1985) ........24 1.3.2. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1985 ..............................................26 1.3.3. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999 ..............................................28 1.4. Phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam ...................................................................................................................28 1.4.1. Phân loại tội phạm theo Bộ Luật hình sự Đức Error! Bookmark not defined. 1.4.2. Vấn đề phân loại tội phạm trong luật hình sự Thụy Điển ...............................34 1.4.3. Vấn đề phân loại tội phạm trong Luật hình sự Liên Bang Nga............................34 1.4.4. Phân loại tội phạm trong Luật hình sự nước Cộng Hòa Pháp.........................34 1.4.5. Kinh nghiệm cho Việt Nam...................................................................................34 Chương 2. PHÂN LOẠI TỘI PHẠM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................................................................................36 2.1. Phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 .................................................36 2.1.1. Các dạng phân loại tội phạm trong phần chung Bộ luật Hình sự ...................36 2.1.2. Thể hiện của phân loại tội phạm trong các chế định phần chung ...................46 2.1.3. Thể hiện của phân loại tội phạm trong phần thứ hai .......................................54 2.2. Đánh giá việc phân loại tội phạm và một số kiến nghị ......................................58 2.2.1. Đánh giá việc phân loại tội phạm trong Bộ luật Hình sự 2015 .......................58 2.2.2. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện phân loại tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam ......................................................................................................63 KẾT LUẬN ..............................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................72 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự. Nghiên cứu về tội phạm là vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của Luật Hình sự Việt Nam. Bởi lẽ, tội phạm là đối tượng đấu tranh chống và phòng ngừa của chính sách hình sự của Nhà nước. Do đó, việc phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy định các nguyên tắc xử lý, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp, v.v... Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa TNHS, quy định khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc cá thể hóa TNHS và hình phạt. Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa đối với việc quy định một số chế định tạm giam, tạm giữ trong BLHS. Phân loại tội phạm trong Luật Hình sự là chia những hành vi nguy hiểm trong xã hội bị Luật Hình sự cấm thành từng loại nhất định theo những tiêu chí này hay những tiêu chí khác để làm tiền đề cho cá thể hóa TNHS và hình phạt hoặc tha miễn TNHS và hình phạt. Có thể nói, Bộ luật Hình sự năm 2015 so với Bộ luật Hình sự năm 1999 đã có rất nhiều điểm mới và sự thay đổi, đặc biệt là những quy định về phần tội phạm, phân lọai tội phạm. Điều này góp phần tích cực cho hoạt động cải cách tư pháp trong nền Pháp luật Việt Nam nói chung và việc áp dụng, thực thi Bộ luật Hình sự nói riêng vào đời sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Phân loại tội phạm trong luật Hình sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học. 1 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu cuối cùng, chung nhất của vấn đề nghiên cứu là nhằm hoàn thiện và áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự như: Chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Nguyên tắc xử lý người phạm tội; Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự... và đặc biệt để cá thể hoá hình phạt được chính xác. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài 3.1. Tính mới của đề tài Đề tài này sẽ nghiên cứu và phân tích từng loại tội phạm cũng như một số tội danh cụ thể theo những điểm mới tích cực của Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều này sẽ là điểm mới rõ rệt nhất so với những đề tài nghiên cứu đã được hoàn thành. 3.2. Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học Một là, phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các biện pháp pháp lý hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, xác định chính sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể (chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội - chương X Bộ luật Hình sự, chính sách xử lý hành vi chuẩn bị phạm tội…vv…) Hai là, mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển khai chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó chi phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về tội phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử…vv… Ba là, trong hoạt động lập pháp, phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các chế định về tội phạm và hình phạt, là cơ sở thống nhất để xây dựng các khung hình phạt cho tội phạm cụ thể. Bốn là, ngoài ra, phân loại tội phạm còn là cơ sở để xác định đường lối đấu tranh với các tội phạm khác nhau cũng như các ngành tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, mà yêu cầu phân hóa trách nhiệm hình sự được đặt ra và trở thành nguyên tắc của Luật hình sự. Năm là, phân loại tội phạm thành các nhóm khác nhau là biểu hiện của sự phân hóa trách nhiệm hình sự ở góc độ lập pháp. Bên cạnh đó, nghiên cứu chế định phân 2 loại tội phạm trong mối quan hệ thống nhất các chế định khác sẽ tạo tiền đề cho việc nhận thức đúng bản chất của tội phạm, đánh giá đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật hình sự. 3.3. Những đóng góp của đề tài về mặt thực tiễn Một là, phân loại tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc áp dụng nhiều quy phạm phần chung và phần các tội phạm Bộ luật Hình sự, như: chế định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chế định các giai đoạn phạm tội, chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự… Chẳng hạn, theo quy định của pháp luật hiện hành, những người chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu tội họ chuẩn bị phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; ...v.v... Hai là, ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn đưa vụ án ra xét xử hoặc ra các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm cụ thể...v.v... Ba là, kết luận, phân loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc phân loại tội phạm, các cách phân loại tội phạm trong luật hình sự, các quy định về 3 tội phạm và hình phạt trong Bộ luật Hình sự và nghiên cứu sự phân loại từng tội phạm cụ thể. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về các hình thức, cách thức cũng như ý nghĩa của việc phân loại tội phạm theo Luật Hình sự Việt Nam hiện nay, cụ thể là theo Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực ngày 01/01/2018. Bên cạnh đó, có sự so sánh, phân tích những điểm mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Đồng thời, đề tài nêu ra việc phân loại tội phạm trong lịch sử lập pháp hình sự, trước khi pháp điển hóa luật hình sự và sau khi nước ta ban hành BLHS, quy định về phân loại tội phạm trong luật hình sự của một số nước. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu việc xây dựng và hoàn thiện các chế định về tội phạm và CTTP, các chế định về hình phạt và quyết định hình phạt của BLHS hiện hành trên cơ sở quy định về phân loại tội phạm. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm về chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, trên cơ sở tri thức của các ngành khoa học khác như luật học, tâm lý học, xã hội học, thống kê học… để nhận thức và luận chứng các vấn đề nghiên cứu. Cụ thể, các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu đề tài luận văn là: phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, quy nạp, tổng hợp, hệ thống, phương pháp luật học so sánh, phương pháp thống kê, … 6. Tình hình nghiên cứu Trong khoa học luật Hình sự, vấn đề phân loại tội phạm đã sớm được các nhà khoa học luật quan tâm và nghiên cứu. Do ý nghĩa của việc phân loại tội phạm đối với việc xây dựng và áp dụng luật hình sự nên trong BLHS của các nước đều có quy định về phân loại tội phạm. Ở nước ta việc phân loại tội phạm cũng được thực hiện và quy định theo những tiêu chí và quan niệm khác nhau. Trong các công trình nghiên cứu và trong các giáo trình giảng dạy ở nước ta, việc phân loại tội phạm trong luật hình sự đã được 4 đề cập dưới những góc độ và mức độ khác nhau. Vấn đề phân loại tội phạm được quy định tại Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bên cạnh đó, được phân tích và đề cập trong các công trình nghiên cứu khác như: Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội; Đỗ Ngọc Quang, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Ngọc Hòa (1997) Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong Khoa học luật Hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Lê Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,.. Từ trước pháp điển hóa năm 1985 đến nay, không có nhiều công trình luận án, luận văn viết về đề tài phân loại tội phạm. Chỉ đáng kể đến là Luận án tiến sỹ với đề tài "Phân loại tội phạm theo luật hình sự Việt Nam" của tác giả Trương Minh Hạnh được hoàn thành và bảo vệ năm 2004. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI TỘI PHẠM 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phân loại tội phạm 1.1.1. Khái niệm phân loại tội phạm Trước khi tìm khái niệm phân loại tội phạm thì một vấn đề cần quan tâm đó là tìm hiểu khái niệm tội phạm. Khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự. Chế định tội phạm là chế định trung tâm thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự ở mỗi nước. Tội phạm là một hiện tượng xã hội, cho nên khái niệm của nó luôn luôn gắn liền với sự phát triển xã hội và ngày càng được nghiên cứu hoàn thiện. Hiện nay, một số quốc gia trên thế giới có quy định khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự (BLHS), tuy nhiên cũng có một số quốc gia không đưa khái niệm tội phạm vào Bộ luật Hình sự. Bộ luật Hình sự Cộng hòa Liên bang Đức không có điều luật về khái niệm tội phạm nhưng có cả một chương quy định về hành vi phạm tội. Trong đó, các quy định tập trung vào các vấn đề như: chủ thể của tội phạm, vấn đề lỗi và các trường hợp sai lầm, vấn đề thực hiện qua không hành động và vấn đề thực hiện cho người khác, các căn cứ biện hộ (các căn cứ loại trừ tính trái pháp luật của hành vi), phạm tội chưa đạt, người thực hiện phạm tội và người tòng phạm 37. Hay như ở Cộng hòa Pháp, trong Phần chung của Bộ luật Hình sự không nêu các dấu hiệu của hành vi phạm tội. Tuy nhiên, tại Phần các tội phạm lại quy định các dấu hiệu của hành vi phạm tội như: mức độ nghiêm trọng của thiệt hại gây ra cho cá nhân, xã hội, Nhà nước (Điều 111 – 1); tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt của hành vi (Điều 111 – 2, 111 – 3); tính có lỗi cố ý hoặc vô ý của hành vi (Điều 121 – 3) 16. Và ở luật hình sự nước Anh không quy định khái niệm tội phạm và dấu hiệu của một số tội cụ thể được quy định trong các đạo luật hình sự chuyên biệt. Bên cạnh đó, ở một số quốc gia có quy định khái niệm tội phạm trong Luật hình sự và cách thể hiện khái niệm tội phạm cũng có nhiều điểm khác nhau, có 6 những quốc gia chỉ quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức, có những quốc gia quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp dấu hiệu hình thức và dấu hiệu nội dung. Thứ nhất, quy định khái niệm tội phạm với dấu hiệu hình thức Ngay từ thời kỳ đầu khi xã hội tư sản vừa bước ra khỏi sự hạn chế của chủ nghĩa phong kiến, với tư tưởng đề cao vai trò của tự do dân chủ và bình đẳng, tư tưởng nhà nước pháp quyền thì quan niệm con người được phép làm những gì pháp luật không cấm… được thể hiện rất rõ nét trong khái niệm tội phạm. Do đó, khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự ở một số nước tư sản đã được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau: là hành vi bị đạo luật hình sự cấm hoặc là “vi phạm pháp luật bị Bộ luật Hình sự trừng trị” hoặc là “hành vi do luật hình sự cấm bằng nguy cơ xử phạt”… Theo các luật gia tư sản thời kỳ này thì tội phạm là các hành vi do luật hình quy định. Trong khái niệm tội phạm này tính luật định được coi là đặc điểm duy nhất của tội phạm. Thực hiện nguyên tắc “không có tội phạm nếu điều đó không bị cấm trong Bộ luật Hình sự”, các luật gia tư sản chứng minh được thế tiến bộ của nước mình trước luật hình phong kiến 55. Cho tới nay, trong Bộ luật Hình sự ở một số nước cũng vẫn quy định tội phạm dưới dạng hình thức là hành vi do Luật định. Cụ thể như: tại Điều 1 BLHS Thụy Điển quy định: “Tội phạm là hành vi được quy định trong Bộ luật này hoặc luật hoặc các văn bản pháp luật khác và bị áp dụng các hình phạt theo quy định của Luật này” 51. Điều 10 Bộ luật Hình sự Cộng hòa Tây Ban Nha thì tội phạm là hành vi bằng hành động hoặc không hành động, có lỗi cố ý hoặc vô ý và bị áp dụng hình phạt theo quy định của Bộ luật Hình sự. Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Hình sự Cộng hòa Thụy Sĩ, chỉ người nào thực hiện hành vi bị Bộ luật Hình sự cấm bằng nguy cơ bị áp dụng hình phạt mới phải chịu hình phạt. Thứ hai, quy định khái niệm tội phạm với sự kết hợp cả dấu hiệu hình thức và dấu hiệu nội dung Hiện nay, cùng với dấu hiệu hình thức, ở một số nước đã đưa dấu hiệu nội dung vào khái niệm tội phạm. Tội phạm không chỉ là hành vi được luật hình quy định mà 7 còn là hành vi chống lại lợi ích xã hội, là hành vi có hại. Các khái niệm tội phạm được quy định trong Luật hình sự thể hiện ở hai dạng: khái niệm đầy đủ và khái niệm tổng quát về tội phạm. - Khái niệm đầy đủ về tội phạm: Trong khái niệm này các tác giả đưa ra đầy đủ các dấu hiệu tội phạm. Một số cho rằng “tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự do người ở một độ tuổi luật định có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý và vì nó người phạm tội phải bị xử phạt”. Theo khái niệm nêu trên, tội phạm được đưa ra với đầy đủ các dấu hiệu của nó là: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự; Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt đến một độ tuổi nhất định thực hiện; tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc vô ý (có lỗi) và người phạm tội phải bị xử phạt. Điều 14 Bộ luật Hình sự Liên bang Nga năm 1996, sửa đổi năm 2010 quy định: “Tội phạm là hành vi có lỗi gây nguy hiểm cho xã hội, bị cấm bởi Bộ luật Hình sự và phải chịu hình phạt. Hành động (hoặc không hành động), mặc dù về hình thức có bao hàm những dấu hiệu của một hành vi nào đó được Bộ luật này quy định nhưng do tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm”54. Cùng với quan điểm như trên, những người khác không coi tình tiết phải bị xử phạt là dấu hiệu của tội phạm, và vì vậy không đưa đặc điểm này vào khái niệm đầy đủ về tội phạm. Những tác giả này cho rằng: phạm tội thì không tránh khỏi phải chịu hình phạt, đó là một trong những nguyên tắc quan trọng của luật hình sự. Phải chịu xử phạt, đó là hậu quả tất yếu của việc thực hiện tội phạm chứ chính nó không phải là thuộc tính của tội phạm. Mặt khác, trong thực tế có nhiều trường hợp tội phạm không bị xử phạt do nhiều nguyên nhân khác nhau (quá thời hiệu, không khám phá được, được miễn trách nhiệm hình sự…), vậy thì trong những trường hợp ấy hành vi có được coi là tội phạm hay không nếu có đủ các yếu tố cấu thành. Thực vậy, khi một người thực hiện hành vi chứa đựng đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì hành vi đó đã là tội phạm, không phụ thuộc người đó có bị xử phạt hay 8 không. Điều 13 Bộ luật Hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997, sửa đổi năm 2005 quy định: “Mọi hành vi gây nguy hại đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia; chia cắt quốc gia; lật đổ chính quyền chuyên chính dân chủ nhân dân và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa; phá hoại trật tự kinh tế xã hội; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu nhà nước và tài sản thuộc sở hữu tập thể của quần chúng lao động; xâm phạm tài sản thuộc sở hữu riêng của công dân; xâm phạm các quyền nhân thân dân chủ và các quyền khác của công dân cũng như các hành vi khác gây nguy hại cho xã hội được quy định là tội phạm. Những hành vi nhỏ nhặt gây hại không lớn thì không phải là tội phạm” 9. - Khái niệm tổng quát về tội phạm: Những người có quan điểm này cho rằng tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được Bộ luật Hình sự quy định hay nói cách khác tội phạm có hai đặc tính cơ bản: nội dung là hành vi nguy hiểm cho xã hội và hình thức được Bộ luật Hình sự quy định. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng tuy là khái niệm được đưa ra mang tính khái quát cao nhưng nó vẫn thể hiện đầy đủ các đặc điểm của tội phạm. Không phải bất kỳ một hành vi nguy hiểm nào (tức gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại) cũng là tội phạm. Chỉ hành vi nguy hiểm cho xã hội mới được quy định là tội phạm. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bao gồm cả hai mặt: mặt thực tế (gây thiệt hại hoặc nguy cơ gây thiệt hại) và mặt xã hội. Khái niệm tội phạm có thể được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam. Khái niệm này một mặt là cơ sở thống nhất cho việc xác định những tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, mặt khác trực tiếp thể hiện một cách rõ nét những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam và là cơ sở để quy định các chế định khác của Luật hình sự, trong đó có phân loại tội phạm. Nội dung của khái niệm tội phạm xác định giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác. Khái niệm tội phạm là cơ sở để xây dựng các cấu thành tội phạm cụ thể với ý nghĩa là mô hình pháp lý của từng loại tội phạm và qua đó cũng là cơ sở để quy định khung hình phạt 9 tương ứng. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, người và cơ quan có thẩm quyền tuy dựa vào cấu thành tội phạm để xác định tội phạm nhưng chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ về bản chất cũng như những đặc điểm của tội phạm nói chung mới có thể áp dụng luật hình sự một cách đúng đắn qua việc xác định đúng tội danh, đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội 38. Hiện nay khái niệm tội phạm được ghi nhận tại Điều 8 BLHS năm 2015. Và khái niệm này cũng cơ bản được tiếp nhận trong khoa học Luật hình sự. “1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác” 2, Điều 8. Khái niệm tội phạm đầy đủ với cách thể hiện đầy đủ các dấu hiệu cơ bản như tính nguy hiểm (tính chất và mức độ) cho xã hội, tính có lỗi, các nhóm khách thể bị xâm hại… không chỉ thể hiện chính sách pháp luật hình sự, mà còn là cơ sở quan trọng trong phân loại tội phạm. Tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thông qua chế tài (hình phạt) được quy định, hình thức lỗi khi thực hiện tội phạm, các nhóm khách thể (khách thể loại) luôn được sử dụng làm tiêu chí phân loại tội phạm trong khoa học luật hình sự nước ta từ xưa đến nay. Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự của Nhà nước ta rất đa dạng, phức tạp, xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Phân loại tội phạm là cực kỳ cần thiết vì phân loại tội phạm để thực hiện chính sách pháp luật hình sự có phân biệt; sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo 10 từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng. Phân loại tội phạm theo tính chất và mức độ nguy hiểm, theo hình thức lỗi, theo khách thể xâm hại là cơ sở để từ đó quy định hình phạt và áp dụng hình phạt cũng như các biện pháp trách nhiệm hình sự khác; thực hiện nguyên tắc phân hoá trong chấp hành hình phạt đối với các loại tội phạm… Ngoài ra việc phân loại tội phạm có mục đích để áp dụng, thực hiện các chế định khác nhau của pháp luật tố tụng hình sự như biện pháp ngăn chặn do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định cho phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm; xác định thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn xóa án tích cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể; thực hiện các loại thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng... Như vậy, Phân loại tội phạm là việc phân chia các tội phạm thành những nhóm khác nhau dựa trên những tiêu chí và nhằm những mục đích nhất định. Phân loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn. 1.1.2. Ý nghĩa của phân loại tội phạm - Ý nghĩa chính trị xã hội Phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đánh giá chính trị, pháp lý về tội phạm. Việc xây dựng chính sách pháp luật hình sự trên cơ sở phân loại tội phạm có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục người phạm tội, từ đó nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhằm hạn chế các sự việc phạm tội có thể xảy ra. Mặt khác, xây dựng hệ thống hình phạt đúng trên cơ sở phân loại tội phạm còn là yếu tố quan trọng để đạt được các mục đích của hình phạt, vừa mang tính giáo dục, vừa thể hiện được sự công minh và nghiêm khắc của pháp luật. Như vậy, việc phân loại tội phạm góp phần xây dựng nên ý thức pháp luật của người dân, tạo ra xã hội ổn định. Phân 11 loại tội phạm là đòi hỏi cần thiết cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật cũng như áp dụng luật, chính vì thế vấn đề này được đặt ra trong các bộ luật. Việc phân loại tội phạm chẳng những hỗ trợ cho việc áp dụng đúng luật mà nếu nhìn rộng ra, nhà làm luật còn có thể dựa vào tính nguy hiểm cho quan hệ xã hội mà nó xâm hại để đánh giá, nhằm bảo vệ cho chế độ chính trị hiệu quả hơn. Việc phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa để sắp xếp, hệ thống hóa các tội phạm trong Bộ luật Hình sự theo từng chương, bảo đảm tính khoa học, thuận lợi cho công tác nghiên cứu và áp dụng. Mặt khác, phân loại tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong việc triển khai chính sách hình sự thông qua nhận thức và phản ứng của Nhà nước đối với các tội có tính nguy hiểm cho xã hội khác nhau thì có biện pháp xử lý khác nhau. Nó chi phối hầu hết các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự về tội phạm, hình phạt, thẩm quyền điều tra, xét xử. - Ý nghĩa pháp lý hình sự Phân loại tội phạm là cơ sở để xác định và xây dựng các chế định khác nhau của Luật hình sự tương ứng với tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, hình thức lỗi hoặc tính chất khách thể bị xâm hại; xác định chính sách hình sự cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể… Cụ thể là: + Xác định và xây dựng hệ thống hình phạt trong phần chung cũng như cụ thể hoá trong chế tài các tội phạm. Ví dụ: Các hình phạt tù chung thân, tử hình chỉ quy định và áp dụng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 39, 40 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); hình phạt cảnh cáo chỉ áp dụng đối với tội ít nghiêm trọng (Điều 34 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017); + Xác định chính sách xử lý trong những trường hợp đặc biệt như tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 BLHS); đường lối xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Chương XII BLHS); chính sách xử lý hành vi chuẩn bị phạm tội…; + Phân loại tội phạm là cơ sở để xây dựng các chế định khác nhau của BLHS. Ví dụ: Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người 12 khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (Khoản 3 Điều 29 BLHS). Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích - Xoá án tích (Điều 69 BLHS). Đồng thời, phân loại tội phạm cũng là yếu tố quan trọng được người, cơ quan có thẩm quyền cân nhắc khi áp dụng pháp luật hình sự. - Ý nghĩa pháp lý tố tụng hình sự Phân loại tội phạm là căn cứ để xác định áp dụng và thực hiện nhiều chế định khác nhau của tố tụng hình sự: + Để xác định thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử; Cụ thể, được quy định tại Khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: “Điều 268. Thẩm quyền xét xử của Tòa án 1. Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm: a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; c) Các tội quy định tại các điều 123, 125, 126, 227, 277, 278, 279, 280, 282, 283, 284, 286, 287, 288, 337, 368, 369, 370, 371, 399 và 400 của Bộ luật Hình sự; d) Các tội phạm được thực hiện ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”. Quy định về thẩm quyền điều tra (Khoản 5 Điều 163 BL TTHS): “5. Việc phân cấp thẩm quyền điều tra như sau: a) Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực; b) Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền 13 điều tra của Cơ quan điều tra cấp huyện xảy ra trên địa bàn nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, phạm tội có tổ chức hoặc có yếu tố nước ngoài nếu x t thấy cần trực tiếp điều tra; Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp khu vực nếu x t thấy cần trực tiếp điều tra; c) Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc ph ng điều tra vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu x t thấy cần trực tiếp điều tra.”. Để xác định các loại thời hạn như thời hạn điều tra (Điều 172 BL TTHS), thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 173 BL TTHS), Thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại (Điều 174 BL TTHS), thời hạn chuẩn bị xét xử (Điều 277 BL TTHS)cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của các tội phạm cụ thể 4, Điều 268. Việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa chi phối đối với việc áp dụng một số chế định của luật tố tụng hình sự. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp chỉ được thực hiện khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; các quy định về thời hạn tố tụng hoặc ra các quyết định cụ thể đối với từng loại tội phạm... + Xác định căn cứ thực hiện, áp dụng một số biện pháp tố tụng (biện pháp ngăn chặn, nhất là tạm giam (Điều 119 BL TTHS); các biện pháp điều tra đặc biệt…). Tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng có thể tạm giam ngay mà không cần điều kiện gì. Các biện pháp điều tra đặc biệt được áp dụng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội tham nhũng và tội xâm phạm an ninh quốc gia, được sử dụng các biện pháp như quay lén, chụp hình lén, ghi âm lén hoặc xâm nhập vào acount điện tử của tội phạm. 14 + Phân loại tội phạm cũng có ý nghĩa quan trọng trong quy định và thực hiện các loại thời hạn tố tụng như thời hạn điều tra, thời hạn xét xử; thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam; thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại. Ví dụ, về thời hạn điều tra được quy định tại Điều 172 BLTTHS thì thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra. Bên cạnh đó, việc gia hạn điều tra cũng được quy định căn cứ vào loại tội phạm. Ví dụ: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng; ... Đối với thời hạn tạm giam để điều tra được quy định tại Điều 173 BLTTHS cũng căn cứ vào từng loại tội phạm tương ứng như thời hạn điều tra. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp gia hạn tạm giam để điều tra, đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng, tội phạm nghiêm trọng được gia hạn một lần không quá 02 tháng, tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn một lần không quá 03 tháng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì được gia hạn hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng. Trường hợp phục hồi điều tra quy định tại Điều 235 của BLHS thì thời hạn điều tra tiếp không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và không quá 03 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.- Ý nghĩa trong thi hành án hình sự + Phân loại trại giam (Điều 27 Luật Thi hành án hình sự năm 2010) Việc tổ chức giam giữ phạm nhân cũng được quy định dựa theo nhóm loại tội phạm, gồm: Khu giam giữ đối với phạm nhân có mức án tù trên 15 năm, tù chung 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan