Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hà...

Tài liệu Phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự việt nam

.PDF
100
6
76

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NÔNG XUÂN TRƯỜNG PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH VÀ THẨM QUYỀN TỐ TỤNG CỦA CƠ QUAN, NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2007 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 7 Chương 1. Mét sè vÊn ®Ò chung vÒ thÈm quyÒn hµnh chÝnh vµ thÈm quyÒn tè tông trong ho¹t ®éng tè tông 15 h×nh sù 1.1. Khái niệm thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố 15 tụng trong hoạt động tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền hành chính 15 1.1.2. Khái niệm về thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố 17 tụng hình sự 1.2. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển các quy định về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng 20 trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam 1.3. Ph©n biÖt gi÷a thÈm quyÒn hµnh chÝnh vµ thÈm quyÒn 28 tè tông trong ho¹t ®éng tè tông h×nh sù 1.3.1. Sự khác biệt giữa thẩm quyền hành chính và thẩm quyền 28 tố tụng 1.3.2. Ý nghÜa cña viÖc ph©n ®Þnh thÈm quyÒn hµnh chÝnh vµ 30 thÈm quyÒn tè tông trong ho¹t ®éng tè tông h×nh sù 1.3.3. Mối quan hệ giữa thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của Cơ quan điều tra và của các chức danh trong Cơ 32 quan điều tra trong hoạt động tố tụng hình sự 1.3.4. Mối quan hệ giữa thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của Viện kiểm sát, của các chức danh tố tụng trong 35 Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự 1.3.5. Mối quan hệ giữa thẩm quyền hành chính và thẩm 37 4 quyền tố tụng của Toà án nhân dân, của các chức danh tố tụng trong Toà án trong hoạt động tố tụng hình sự 1.4. Kết luận Chƣơng 1 41 Chương 2. THỰC TRẠNG VIỆC PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH VÀ THẨM QUYỀN TỐ TỤNG CỦA CÁC CƠ QUAN, 43 NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Thực trạng về việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trong 43 hoạt động tố tụng hình sự 2.1.1. Thực trạng về việc phân định thẩm quyền hành chính và 43 thẩm quyền tố tụng của Cơ quan điều tra 2.1.2. Thùc tr¹ng vÒ viÖc ph©n ®Þnh thÈm quyÒn hµnh chÝnh vµ 45 thÈm quyÒn tè tông cña ViÖn kiÓm s¸t 2.1.3. Thực trạng về việc phân định thẩm quyền hành chính và 48 thẩm quyền tố tụng của Toà án nhân dân 2.2. Thực trạng về việc phân định thẩm quyền hành chính 51 và thẩm quyền tố tụng của ngƣời tiến hành tố tụng 2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng giữa Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Cơ quan điều tra với Điều 51 tra viên 2.2.2. Thực trạng về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng giữa Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát với Kiểm 54 sát viên 2.2.3. Thực trạng về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố 58 tụng giữa Chánh án, Phó Chánh án với Thẩm phán 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế - tồn tại trong việc 61 5 phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 61 2.3.2. Nguyên nhân khách quan 63 2.4. Kết luận Chƣơng 2 65 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ VỀ PHÂN ĐỊNH THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH VÀ THẨM QUYỀN TỐ TỤNG TRONG 68 HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 3.1. Nội dung cải cách tƣ pháp và nhu cầu tất yếu khách quan của việc phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm 68 quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự 3.1.1. Nội dung cải cách tƣ pháp liên quan đến thẩm quyền của 68 các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng 3.1.2. Phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng - Một trong những nội dung quan trọng của đổi mới tổ chức và 71 hoạt động của các cơ quan tƣ pháp trong tiến trình cải cách tƣ pháp 3.2. Một số giải pháp cơ bản 75 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự 75 liên quan đến việc phân định thẩm quyền 3.2.2. Đổi mới về tổ chức hệ thống các cơ quan tƣ pháp trong 82 hoạt động tố tụng hình sự 3.3. Một số kiến nghị 89 KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 6 më ®Çu 1. Tính cấp thiết của Đề tài Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nƣớc, cải cách tƣ pháp ngày càng đƣợc Đảng và Nhà nƣớc chú trọng đẩy mạnh, đặc biệt là trong lĩnh vực tố tụng hình sự, nhằm đảm bảo một nền tƣ pháp minh bạch, vì con ngƣời, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, đồng thời đấu tranh có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm và tội phạm. Trong hoạt động tố tụng hình sự, thẩm quyền của những ngƣời tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án có vai trò rất quan trọng. Thực hiện đúng thẩm quyền theo luật định sẽ làm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đƣợc minh bạch, chính xác, đảm bảo xử lý đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ngƣợc lại, thẩm quyền đƣợc quy định không rõ ràng sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, chồng lấn về thẩm quyền tố tụng, đặc biệt là giữa thẩm quyền tố tụng với thẩm quyền hành chính, gây ảnh hƣởng tiêu cực đến quá trình giải quyết vụ án và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, làm mất niềm tin của công chúng đối với nền tƣ pháp quốc gia và tính đúng đắn của công lý. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của vấn đề, Đảng và Nhà nƣớc đã có những Nghị quyết về cải cách tƣ pháp đề cập đến vấn đề này. Nghị quyết số 08 ngày 2/1/2001 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu: “…mỗi đơn vị, bộ phận thuộc cơ quan điều tra cần được tổ chức, phân công chuyên sâu về từng lĩnh vực và quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm, đặc biệt là quyền hạn, trách nhiệm của từng 7 chức danh trong cơ quan điều tra; kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động điều tra và trinh sát…”. Tiếp đó, ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49 về “Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020” trong đó nêu rõ: “Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ động trong việc thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình…”. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng trong các nội dung cải cách tƣ pháp, vấn đề phân định thẩm quyền tố tụng của những ngƣời tiến hành tố tụng với thẩm quyền hành chính là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa to lớn rất đƣợc Đảng và Nhà nƣớc cũng nhƣ các cơ quan tƣ pháp quan tâm đến để đáp ứng mục tiêu của tố tụng hình sự là giải quyết vụ án một cách đúng đắn, công bằng, tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi phạm tội. Nhằm đạt hiệu quả cao trong cuộc đấu tranh chống tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần có những thẩm quyền cần thiết để có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Các thẩm quyền này có thể là thẩm quyền hành chính, thẩm quyền tố tụng kết hợp với các phƣơng pháp phát hiện các quy luật phát sinh, phát triển và điều kiện tồn tại của tội phạm từ đó mới có thể đề ra các biện pháp, bố trí lực lƣợng, phƣơng tiện và các chi phí cần thiết khác nhằm giải quyết triệt để vấn đề tội phạm trong xã hội nói chung cũng nhƣ trong quá trình giải quyết một vụ án cụ thể. Thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có hai loại thẩm quyền cơ bản, thứ nhất là thẩm quyền hành chính áp dụng trong một số trƣờng hợp nhƣ: quản lý, phân công cán bộ 8 tham gia vào việc giải quyết vụ án, bố trí công tác và điều hành công việc chung. Các thẩm quyền này chủ yếu liên quan đến công tác nội bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng….Loại thứ hai là thẩm quyền tố tụng do ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo luật định tiến hành và chỉ liên quan đến quá trình giải quyết vụ án hình sự nhƣ: Ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; phê chuẩn quyết định khởi tố của cơ quan điều tra, thẩm quyền ra quyết định bắt ngƣời (bắt khẩn cấp, bắt bình thƣờng…), thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, tạm giam; phê chuẩn quyết định tạm giữ, tạm giam, quyết định triệu tập bị can, ngƣời làm chứng, quyết định trƣng cầu giám định v.v…Nói chung, các thẩm quyền tố tụng thƣờng do ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với các đối tƣợng là ngƣời tham gia tố tụng trong quá trình xử lý vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính trong các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn chƣa thật rõ ràng, chặt chẽ. Điều này đã gây ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, nhất là trong quá trình thực thi nhiệm vụ của những ngƣời tiến hành tố tụng mà chỉ có một số quyền năng hạn chế, phụ thuộc nhiều vào các quyết định, phân công mang tính hành chính của thủ trƣởng cơ quan và không có nhiều thực quyền trong hoạt động tố tụng thực tế. Do đó, dẫn đến tình trạng phải thỉnh thị, xin ý kiến và chờ quyết định của cấp trên, thiếu chủ động trong hoạt động đấu tranh chống tội phạm và trong hoạt động tác nghiệp chuyên môn. Đôi khi, chính những vấn đề chƣa rõ ràng về phƣơng diện thẩm quyền là những tác nhân gây tác động tiêu cực đến việc giải quyết án và làm chậm tiến độ, quá thời hạn hoặc gây ra những bị động, lúng túng không đáng có của những nhân viên thực thi pháp luật trực tiếp đấu tranh với tội phạm trƣớc các diễn biến phức tạp, đa dạng của tội phạm . 9 Nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung, trực tiếp đấu tranh với các loại tội phạm là nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng mà nòng cốt của các cơ quan này là những ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo luật định. Để đạt đƣợc hiệu quả tối đa trong công tác này, những ngƣời tiến hành tố tụng cần có đầy đủ thẩm quyền trong hoạt động nghiệp vụ. Mặc dù các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đã có những quy định về vấn đề này nhƣng có thể nói pháp luật tố tụng hiện hành vẫn còn một số quy định chƣa đầy đủ và rõ ràng về thẩm quyền cũng nhƣ phân định thẩm quyền hành chính trong hoạt động tố tụng và thẩm quyền tố tụng của ngƣời tiến hành tố tụng. Trong thời gian qua, việc đấu tranh phòng chống tội phạm ở Việt Nam đã có thành tựu đáng khích lệ, nhƣng để công tác này đạt hiệu quả cao hơn cần có thêm những yếu tố tích cực tác động vào, trong đó có yếu tố pháp luật quy định và phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể hơn nữa cho các cơ quan và ngƣời tiến hành tố tụng để các cơ quan này có thêm cơ sở pháp lý trong hoạt động tố tụng hình sự. Trƣớc yêu cầu đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng về phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng để phân tích một cách sâu sắc những bất cập trong thực tế do thiếu các quy định của pháp luật từ đó đề ra những giải pháp, kiến nghị về hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự đối với vấn đề này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, cùng với chính sách đổi mới và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã ổn định và có sự phát triển đáng khích lệ. Các lĩnh vực trong đời sống kinh tế-văn hóa-xã hội từng bƣớc đƣợc cải cách, đổi mới, đời sống của nhân dân dần đƣợc nâng cao. Bên cạnh những thành tựu 10 đã đạt đƣợc, mặt trái của nền kinh tế thị trƣờng cũng bộc lộ những mặt tiêu cực và tác động không nhỏ tới đời sống xã hội làm cho tình hình an ninhchính trị và tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp với những phƣơng thức, thủ đoạn hoạt động mới ảnh hƣởng nghiêm trọng tới sự phát triển lành mạnh của xã hội và quốc gia. Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có những nỗ lực to lớn trong cuộc chiến chống tội phạm, đề ra nhiều chƣơng trình nghiên cứu phòng chống tội phạm, nhƣng kết quả vẫn chƣa đƣợc nhƣ mong muốn. Trong những hạn chế của cuộc đấu tranh chống tội phạm có nhiều nguyên nhân, nhƣng một trong những nguyên nhân quan trọng là các quy định pháp luật về thẩm quyền của những cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng chƣa đầy đủ và chặt chẽ, do đó, thiếu cơ sở pháp lý cần thiết cho các lực lƣợng chuyên trách trực tiếp đấu tranh chống tội phạm, thậm chí, trên thực tế đôi khi còn chồng lấn giữa thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng và với những ngƣời tiến hành tố tụng. Thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chỉ có một số chuyên đề đề cập tới vấn đề thẩm quyền của một cơ quan hay một loại ngƣời tiến hành tố tụng hình sự cụ thể nhƣ đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên…chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu vấn đề phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các cơ quan và ngƣời tiến hành tố tụng với thực tế hoạt động tố tụng hình sự ở Việt Nam để từ đó đề ra những phƣơng hƣớng, kiến nghị lập pháp về vấn đề này trên phƣơng diện tổng thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của Việt Nam. 3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để phân định rõ hơn từng loại thẩm quyền của các cơ quan và ngƣời tiến hành tố tụng trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 11 Về phạm vi nghiên cứu, đề tài tập trung chủ yếu vào phân tích, nêu lên thực trạng về vấn đề phân định thẩm quyền tố tụng với thẩm quyền hành chính của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, những ngƣời tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự. Cụ thể là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án cũng nhƣ những ngƣời trong các cơ quan này có chức danh và thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đề tài không nghiên cứu vấn đề này trong hệ thống tƣ pháp quân đội nhƣ cơ quan An ninh quân đội, các Viện kiểm sát quân sự và hệ thống Toà án quân sự các cấp. Nghiên cứu pháp luật thực định (có so sánh với trƣớc đây) và tham khảo pháp luật nƣớc ngoài về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong tố tụng hình sự. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài nhằm làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn một số nội dung cơ bản về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, khái quát thực trạng phân định và thực hiện các thẩm quyền trên trong hoạt động thực tiễn ở Việt Nam, phân tích và đƣa ra một số nhận định về những thành tựu cũng nhƣ các mặt còn hạn chế trong các quy định hiện hành của pháp luật tố tụng hình sự ở nƣớc ta: + Nghiên cứu về phƣơng diện lý luận bao gồm cả những quy định của pháp luật và một số quan điểm của các học giả cũng nhƣ những ngƣời làm công tác thực tiễn trong hoạt động tố tụng hình sự về phân định thẩm quyền hành chính với thẩm quyền tố tụng. + Đánh giá thực trạng việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng từ khi có Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị đến nay (2001-2006). 12 + Phân tích, đánh giá khái quát thực trạng việc phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của các cơ quan và ngƣời tiến hành tố tụng. Những khác biệt cơ bản giữa hai loại thẩm quyền này, hiệu quả trong công tác đấu tranh chống tội phạm khi áp dụng các thẩm quyền này. Quan niệm của một số nhà nghiên cứu về sự cần thiết phải phân định rõ hai loại thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng khi tiến hành giải quyết vụ án hình sự. + Nêu lên những đặc trƣng pháp lý, mối liên hệ giữa hai loại thẩm quyền hành chính và tố tụng. Những bất cập trong thực tế khi chƣa có sự phân định rạch ròi hai loại thẩm quyền trong quá trình tiến hành giải quyết án hình sự. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị lập pháp về tố tụng hình sự nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc nghiên cứu trên cơ sở các phƣơng pháp sau: + Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; + Phƣơng pháp nghiên cứu hệ thống; + Phƣơng pháp lịch sử, logic; + Phƣơng pháp phân tích, so sánh; + Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp. 6. Những cái mới về mặt khoa học - Đây là luận văn cao học đề cập tới vấn đề phân định thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, khái niệm pháp lý của các loại thẩm quyền này, rút ra những yếu tố hợp lý trong việc áp dụng các thẩm quyền hành chính, thẩm quyền tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời, nêu lên những bất cập, hạn chế trong thực tiễn hoạt động tiến hành tố tụng của các cơ quan, ngƣời tiến hành tố 13 tụng do sự phân định chƣa rạch ròi của những loại thẩm quyền này gây ra, đƣa ra một số kiến nghị, giải pháp để phân định các thẩm quyền này. - Rút ra một số kết luận mang tính khoa học về hiệu quả của việc áp dụng các loại thẩm quyền trên trong hoạt động tố tụng hình sự, những đóng góp của nó trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đề xuất những kiến giải về những biện pháp khắc phục những hạn chế của việc phân định thẩm quyền không rõ ràng giữa hành chính và tố tụng để góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và công tác giải quyết vụ án hình sự nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 99 trang. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có 3 chƣơng, 11 mục. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH VÀ THẨM QUYỀN TỐ TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH VÀ THẨM QUYỀN TỐ TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm về thẩm quyền hành chính Ở bất kỳ xã hội có Nhà nƣớc nào, nói đến hành chính là đồng nghĩa với các hoạt động thể hiện quyền lực nhà nƣớc do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền thực hiện nhằm mục đích quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực chính trịkinh tế- văn hóa, lập pháp, hành pháp và tƣ pháp v.v…để thực hiện các chức năng cơ bản của Nhà nƣớc là đối nội và đối ngoại thông qua việc sử dụng quyền lực nhà nƣớc tổ chức và điều khiển hoạt động của các đối tƣợng bị quản lý, qua đó thể hiện mối quan hệ quyền lực- phục tùng giữa chủ thể quản lý và đối tƣợng bị quản lý. Theo quan điểm hiện nay, có thể phân chia khái niệm hành chính thành 2 loại: Thứ nhất là hành chính công, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nƣớc, do các chủ thể sử dụng quyền lực nhà nƣớc tiến hành để quản lý công việc của Nhà nƣớc nhằm phục vụ lợi ích chung, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân [64,tr 320]; thứ hai là hành chính tƣ pháp, là hoạt động quản lý hành chính trong lĩnh vực tƣ pháp. Hành chính công thể hiện thành một hệ thống thiết chế, cơ cấu tổ chức và đội ngũ viên chức thi hành công vụ, theo đó, các nguồn lực và nhân sự công đƣợc tổ chức và phối hợp để tạo ra, đƣa vào vận hành, thực thi và quản lý các chính sách công đƣợc bảo đảm bằng chế độ công vụ với trách nhiệm hành chính chặt chẽ, rành mạch. 15 Trong mô hình hành chính công đƣợc phân chia thành 2 loại chủ yếu là mô hình hành chính công truyền thống với những đặc tính chủ yếu nhƣ sau: Đƣợc tiến hành dƣới sự kiểm tra chính thức của lãnh đạo chính trị; dựa trên hệ thống thứ bậc cấp trên - cấp dƣới; có biên chế cụ thể gồm những ngƣời làm việc chuyên trách phục vụ lợi ích chung và không tham gia chính trị và chủ yếu đƣợc sử dụng bằng phƣơng pháp mệnh lệnh trực tiếp. Mô hình hành chính công hiện đại có các đặc tính chủ yếu sau: Định hƣớng thị trƣờng rõ hơn cho dịch vụ công; chú ý đến khu vực công và tƣ; quá trình quản lý, điều hành linh hoạt hơn và công khai hơn; đề cao tính chính trị; hoạt động công vụ mang tính chuyên nghiệp hơn. Hành chính tƣ pháp, là hoạt động quản lý hành chính trong lĩnh vực tƣ pháp, theo đó, hành chính tƣ pháp gắn bó chặt chẽ với các hoạt động tƣ pháp cũng nhƣ quyền tƣ pháp và mang một số đặc điểm sau: Là hoạt động quản lý nhà nƣớc mang tính chất chấp hành, điều hành đối với lĩnh vực tƣ pháp; Chính phủ là cơ quan quản lý cao nhất có nhiệm vụ quản lý tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội; nội dung quản lý hành chính tƣ pháp còn bao gồm toàn bộ các hoạt động trong lĩnh vực tƣ pháp và bổ trợ tƣ pháp. Trong các cơ quan tƣ pháp, hoạt động quản lý hành chính nội bộ của các cơ quan này bao gồm cả điều hành công việc nội bộ với một số nội dung nhƣ xây dựng tổ chức bộ máy của cơ quan; quản lý, điều hành cán bộ; quản lý công sản, tài chính ngân sách v.v…Ngoài ra, còn có những hoạt động mang tính chất hành chính phục vụ đƣợc thực hiện tại các cơ quan tƣ pháp thuộc thẩm quyền của cán bộ, công chức có chức danh quản lý, lãnh đạo cơ quan đó. Đây đƣợc coi là hoạt động quản lý bên trong cơ quan tƣ pháp do cán bộ có thẩm quyền của cơ quan tƣ pháp thực hiện. Nhƣ vậy, trong hoạt động hành chính tƣ pháp có hai dạng chủ yếu là hoạt động quản lý hành chính nội bộ và hoạt động tƣ pháp, nghĩa là nhân danh Nhà nƣớc thực thi quyền tƣ pháp theo quy định của pháp luật tố tụng 16 nhằm duy trì công lý, bảo đảm trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nƣớc, các tổ chức và công dân cũng nhƣ lẽ phải và sự công bằng. Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về thẩm quyền hành chính nhƣ sau: “Thẩm quyền hành chính là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước do cán bộ, công chức và những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước tiến hành nhằm tổ chức, điều hành công việc trong nội bộ cơ quan và điều chỉnh hoạt động của các đối tượng bị quản lý khác thông qua mối quan hệ quyền lực-phục tùng với mục đích thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội phục vụ cho lợi ích chung”. 1.1.2. Khái niệm về thẩm quyền tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân cũng nhƣ duy trì trật tự xã hội, thực thi công lý theo một trình tự, thủ tục nhất định đƣợc quy định trong luật tố tụng hình sự do các cơ quan, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện. Để đạt đƣợc những mục tiêu này, đòi hỏi Bộ luật tố tụng hình sự phải quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan tiến hành tố tụng cũng nhƣ từng chức danh cụ thể trong quá trình thực thi nhiệm vụ để nâng cao tính chủ động, tích cực và trách nhiệm của họ trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Hơn nữa, một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra trong nội dung cải cách tƣ pháp là phải nghiên cứu và hoàn thiện quy định về thẩm quyền của các cơ quan tƣ pháp nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Vì vậy, khi nghiên cứu để hoàn thiện các chế định về thẩm quyền tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng cần phải xem xét đến một số khía cạnh sau: 17 - Việc hoàn thiện các quy định về thẩm quyền tố tụng của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng phải đƣợc thực hiện phù hợp với những điều kiện kinh tế-xã hội của Việt Nam. - Việc hoàn thiện các quy định về thẩm quyền tố tụng của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng phải đƣợc đặt trong bối cảnh cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam. - Việc hoàn thiện các quy định về thẩm quyền tố tụng của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng phải đƣợc đặt trong khả năng thực tế của hiện tại và tƣơng lai gần của các cơ quan này cũng nhƣ các cơ quan bổ trợ tƣ pháp khác. - Việc hoàn thiện các quy định về thẩm quyền tố tụng của cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng phải đƣợc thực hiện trên cơ sở đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế hiện nay. Ngoài ra, khi nghiên cứu, xem xét đến việc hoàn thiện các chế định về thẩm quyền tố tụng cũng cần cân nhắc đến một số yếu tố khác nhƣ: Cách thức tổ chức của bộ máy nhà nƣớc; tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án; năng lực thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng và hiệu quả của việc thực hiện thẩm quyền của các cơ quan tƣ pháp nói chung xét từ góc độ pháp lý, xã hội và kinh tế. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự đều có một nhiệm vụ riêng của từng giai đoạn đó, tƣơng ứng với nó là cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng phù hợp theo từng giai đoạn với những thẩm quyền nhất định đƣợc quy định trong luật tố tụng hình sự. Ví dụ nhƣ trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra mà cụ thể ở đây là Thủ trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan điều tra có một số thẩm quyền nhƣ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định truy nã bị can, khám xét thu 18 giữ, tạm giữ, kê biên tài sản; Quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra v.v…Đối với Điều tra viên cũng có một số thẩm quyền nhất định nhƣ lập hồ sơ vụ án hình sự; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai ngƣời làm chứng…; quyết định áp giải bị can, dẫn giải ngƣời làm chứng; thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; tiến hành khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra v.v… Cũng trong giai đoạn điều tra, ngoài những thẩm quyền tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng có những thẩm quyền nhất định trong giai đoạn này, đó là các thẩm quyền của Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát nhƣ ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự; khởi tố bị can; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra hoặc huỷ bỏ các quyết định đó nếu không có căn cứ và trái pháp luật; yêu cầu Thủ trƣởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên; quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; quyết định truy tố v.v…Đối với Kiểm sát viên, trong giai đoạn điều tra cũng có một số thẩm quyền cụ thể nhƣ kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; đề ra yêu cầu điều tra; triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai ngƣời làm chứng; kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam v.v… Tƣơng tự nhƣ vậy, trong giai đoạn truy tố và xét xử, các cơ quan và ngƣời tiến hành tố tụng cũng có những thẩm quyền riêng của mình theo quy định của luật tố tụng hình sự với mục đích áp dụng các thẩm quyền này để giải quyết vụ án hình sự một cách khách quan, công bằng, đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Từ những phân tích trên đây, có thể đƣa ra khái niệm về thẩm quyền tố tụng nhƣ sau: “Thẩm quyền tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng là quyền do pháp luật quy định giao thực hiện hành vi, quyết định tố tụng 19 trong quá trình giải quyết vụ án hình sự tuỳ theo từng giai đoạn cụ thể với mục đích thực thi công lý, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và của xã hội, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án một cách công bằng, khách quan”. 1.2. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN HÀNH CHÍNH VÀ THẨM QUYỀN TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Chính phủ nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa mặc dù rất bận rộn với việc xây dựng và củng cố chính quyền Cách mạng non trẻ nhƣng cũng đã rất quan tâm đến công tác xây dựng pháp luật để có công cụ sắc bén nhằm trấn áp các phần tử phản cách mạng và bảo vệ chính quyền nhân dân, Chính phủ lâm thời đã ban hành một loạt sắc lệnh về thiết lập các Toà án quân sự để truy tố và xét xử những tội phạm phản cách mạng và các vụ bắt cóc, tống tiền, ám sát cán bộ…trong các văn bản ở thời kỳ sơ khai này cũng đã có một số quy định liên quan đến thẩm quyền tố tụng và thẩm quyền hành chính của các cơ quan chuyên chính thời kỳ đầu cách mạng. Tuy nhiên, sau Cách mạng tháng 8, nhân dân ta mới giành đƣợc chính quyền lại phải đối phó với tình hình phức tạp thời kỳ đó rồi bắt tay ngay vào cuộc trƣờng kỳ kháng chiến nên trong hoàn cảnh này, một số nguyên tắc dân chủ cũng nhƣ tổ chức và phân định quyền hạn của các cơ quan tƣ pháp chƣa đƣợc chặt chẽ và rõ ràng. Mặt khác, tổ chức các cơ quan tƣ pháp chƣa đƣợc hoàn thiện, do đó, các quy định về thẩm quyền cũng chƣa đƣợc đầy đủ, nhƣng có một số văn bản đã quy định về vấn đề này trong thời kỳ từ 1946 đến 1957. Kể từ khi giành đƣợc chính quyền, các cơ quan nhƣ Toà án và công tố viện của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều trực thuộc quyền quản lý hành chính của Bộ Tƣ pháp, Bộ Tƣ pháp cũng có quyền ra một số quyết 20 định mang tính hành chính đối với cơ quan tƣ pháp. Ví dụ: Điều 51 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946 về tổ chức Toà án và các ngạch Thẩm phán quy định: “Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thể ra lệnh cho ông Công tố uỷ viên Toà án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố phải hành động hay không hành động, nhưng không có quyền thế vào ông Công tố uỷ viên mà hành động”[33, tr 14]. Sắc lệnh này cũng có một số quy định sơ khai về thẩm quyền hành chính trong nội bộ của Toà án về việc kiểm soát các nhân viên thuộc Tòa. Điều 95 và 96 của Sắc lệnh này quy định: “Trong quản hạt của Toà án nhân dân tỉnh, Chánh án và Công tố ủy viên kiểm soát các Thẩm phán Toà án nhân dân huyện và cảnh cáo các viên ấy khi họ phạm lỗi; Trong quản hạt Toà án nhân dân phúc thẩm khu hoặc thành phố, Chánh án đối với các Thẩm phán xử án và Công tố ủy viên đối với Thẩm phán buộc tội có quyền kiểm soát, cảnh cáo”[33, tr.37]. Đối với các cơ quan công an, Chính phủ cũng ban hành một số Sắc lệnh về tổ chức Tƣ pháp công an và Công an quân pháp. Ngày 21 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch lâm thời Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các Sở liêm phóng và Sở cảnh sát trên toàn quốc thành một cơ quan đặt tên là Việt Nam Công an vụ. Đến ngày 20 tháng 7 năm 1946 tiếp tục ban hành Sắc lệnh số 131/SL về tổ chức Tƣ pháp công an, tiền thân của Cơ quan điều tra trong lực lƣợng công an ngày nay. Sắc lệnh quy định: “Tư pháp công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh); sưu tập các tang chứng, bắt người phạm pháp giao cho các Toà án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”[36, tr.1]. Ngoài ra, các Sắc lệnh số 40 ngày 20/3/1946 và Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 cũng quy định cả về tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của lực lƣợng công an trong khi thực thi nhiệm vụ, thẩm quyền của từng chức danh trong lực lƣợng công an và thẩm quyền chỉ đạo lực lƣợng công an của Dự thẩm, Ủy viên công tố đối với lực lƣợng này trong quá trình tố tụng. Đây là 21 những quy định sơ khai đầu tiên trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của cơ quan tƣ pháp Việt Nam thời kỳ đầu thành lập. Tiếp đó, ngày 17 tháng 4 năm 1946, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 51 về ấn định thẩm quyền của các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa, trong đó có những quy định về thẩm quyền của Tƣ pháp công an, nhiệm vụ của Chánh án Toà án, nhiệm vụ của Ủy viên công tố, Phó công tố ủy viên…Đa số các quy định trong Sắc lệnh này là những thẩm quyền tố tụng của Toà án. Điều đáng chú ý trong thời kỳ này là các tổ chức Tƣ pháp công an và Công tố viện đều nằm trong Toà án cho đến khi tách Viện công tố ra khỏi Toà án và trực thuộc Bộ Tƣ pháp trong những năm 1959-1960. Ngoài các Sắc lệnh do Chính phủ ban hành, Bộ Tƣ pháp cũng có quyền ban hành một số văn bản quy định về thẩm quyền và sự phân công cho Toà án, loại văn bản này đƣợc coi là văn bản hành chính của cấp trên đối với cấp dƣới nhƣ Thông tƣ số 1840-P/4 ngày 10 tháng 6 năm 1946 của Bộ Tƣ pháp về sửa đổi sự phân công trong Toà án trong đó đề cập tới quyền điều khiển và kiểm soát các nhân viên của Toà án của Chánh án và Biện lý (trừ các Thẩm phán xét xử). Để thực hiện nhiệm trên, pháp luật thời kỳ đó đã giao cho một số chức danh công an với tƣ cách là Uỷ viên tƣ pháp công an có toàn quyền điều tra các vụ phạm pháp. Đó là các chức danh Trƣởng ty, Trƣởng phòng, Trƣởng ban chính trị, Tƣ pháp hoặc các Trƣởng ban khác đƣợc Bộ Nội vụ chỉ định. Việc chỉ đạo, kiểm soát tổ chức và hoạt động của Tƣ pháp công an thuộc thẩm quyền của Chƣởng lý, Biện lý (sau này là Công tố, Kiểm sát) thuộc ngành Toà án. Nhƣ vậy, trong hoạt động tố tụng điều tra tƣ pháp, thời kỳ này các Ủy viên tƣ pháp công an không đƣợc độc lập về mặt tố tụng mà phải tuân thủ sự chỉ đạo của các viên chức có thẩm quyền trong ngành Toà án, 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan