Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Luyện thi Đại học - Cao đẳng Khối C Nội dung cơ bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng...

Tài liệu Nội dung cơ bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng

.DOCX
17
956
81

Mô tả:

xem
Nội dung cương lĩnh [sửa] Đặc trưng của Chủ nghĩa Xã hội mà Việt Nam đang xây dựng Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ; Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.[12] Các phương hướng cơ bản Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất; Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.[13] Nội dung cơ bản cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: -Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". -Xác định những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng: +Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông +Về kinh tế: tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 giờ +Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hoá. +Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất; lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng Lập hiến) thì phải đánh đổ. +Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản 1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng bao gồm những tài liệu nào? -Chính cương vắn tắt -Sách lược vắn tắt -Chương trình tóm tắt Cả 3 đều do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đến tháng 10 năm 1930, cương lĩnh đầu tiên được bổ sung thêm tài liệu Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do Trần Phú soạn thảo. 2. Tại sao nói cương lĩnh đầu tiên của Đảng là cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn? -Tính khoa học và đúng đắn thể hiện :Những nội dung của cương lĩnh rất đúng với các quan điểm của chủ nghĩa Mac -Lenin và thực tiễn VN .Ngay từ đầu,Đảng ta đã thau suốt con đường phát triển tất yếu của Cách mạng VN, đó là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .Chính vì vật,đường lối này đã đưa Cách mạng VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và thắng lợi hoàn toàn. -Tính sáng tạo đc thể hiện:Những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin được Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh VN, ví như cương lĩnh kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp, trong đó độc lập dân tộc là tư tưởng chủ yếu.Về lực lượng cách mạng,cương lĩnh đã thể hiện đc vấn đề đoàn kết dân tộc rộng rãi để đánh kẻ thù.Điều này rất đúng với hoàn cảnh của 1 đất nước thuộc địa như VN. 3. Những nhiệm vụ cụ thể của Cách mạng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? - Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông. - Về kinh tế: Tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ công nông binh; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và chia cho dân cày nghèo, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm 8 tiếng. - Về văn hóa xã hội: dân chúng được tự do, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa. Nhiệm vụ trên bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc, chống phong kiến. Song nổi lên là nhiệm vụ chông đế quốc giành độc lập dân tộc. 4. Ý nghĩa Cương lĩnh chính trị đầu tiên đối với Đảng? Nhờ sự thống nhất về tổ chức và cương lĩnh chính trị đúng đắn, ngay từ khi ra đời Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là ưu điểm của Đảng, làm cho Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam, là đội tiên phong, tiêu biểu cho lợi ích, danh dự, lương tâm và trí tuệ của dân tộc . 5. Lực lượng cách mạng trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Đảng chủ trương tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất, lôi kéo tư sản, trí thức, trung nông…đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và Tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì lợi dụng, ít lâu làm cho họ đứng trung lập. 6. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam phải qua mấy giai đoạn? là giai đoạn nào? - Cách mạng tư sản dân quyền (CM dân tộc dân chủ nhân dân) - CM XHCN Phân tích tính đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng (3/2/1930). Tính đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh được thể hiện ở những vấn đề sau: Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, một hệ thống lí luận tiến bộ đúng đắn và khoa học. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh chủ trương: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Qua đó, ta thấy rằng: ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là kết hợp và gương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng sáng tạo và hợp lí lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Cương lĩnh khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là chống đế quốc và chống phong kiến. Điều này cũng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra. Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên, Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc hơn vấn đề đấu tranh giai cấp và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Vì: Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc giải quyết các mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất. Về lực lượng cách mạng, Cương lĩnh xác định, ngoài giai cấp công nhân, thì cách mạng “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nông…để kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho trung lập”. Như vậy, ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ trương phải tranh thủ các lực lượng khác: tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngoài công nhân và nông dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yêu nước, như: Tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước…, vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về phe cách mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Cương lĩnh, điều hoàn toàn hợp lí và đúng đắn. Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một chính đảng của giai cấp công nhân. Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đây cũng là một nội dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì: giai cấp tư sản ở các nước, trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản trên thế giới. Tóm lại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc Câu 2:Phân tích nội dung cơ bản của cương lĩnh ctrị đầu tiên do NAQ soạn thảo?so sánh với luận cương chính trị 9/1930 trần phú ? Trả lời: 1)Nội dung cơ bản của cương lĩnh chính trị đầu tiên do NAQ soạn thảo: a.Bối cảnh lịch sử:Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 các ptrào yêu nc CM trc khi đảng ra đời từ lập trường cần vương đến lập trường dân chủ tiểu tsản qua khảo nghiệm của l/s đều lần lượt thất bại , vượt qua những hạn chế của những sĩ phu yêu nước lâm thời NAQ quyết trí ra đi tìm đường cứu nc.trải qua qtrình bôn ba khắp các châu lục để tìm đường cứu nc thì NAQ đã đến với CN M.lênin và tìm đc cho dtộc VN con đường cứu nc đúng đắn cho dtộc, đó là con đường độc lập dtộc gắn với CNXH con đường CM vsản .Sau 1 thời gian chuẩn bị đầy đủ về ctrị, tư tưởng, tổ chức thì NAQ thay mặt cho quốc tế cộng sản chuẩn bị hội nghị thành lập đảng. Tại hội nghị 6/1-7/2/1930 ở Hương cảng trung quốc thì các đại biểu dự hội nghị đã nhất trí thành lập ĐCSVN và thông qua chánh cương vắn tắt, sách lược vắn tắt của đảng hợp thành cương lĩnh chính trị đầu tiên b.Nội dung: -cương lĩnh nêu nên phương hướng chiến lược cơ bản của cmạng :làm tsản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản -Nêu rõ nvụ và mtiêu của cách mạng VNtrên các lĩnh vực: Ctrị: đánh đổ CN đế quốc pháp và pkiến, làm cho nc VN hoàn toàn độc lập, xdựng chính phủ công nông binh và tổ chức quân đội công nông Ktế:tịch thu toàn bộ các sản nghiệp lớn của đế quốc giao cho chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở mang cnghiệp và nnghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ. Văn hoá xh:dân chúng đc tự do tổ chức, phổ thông gdục theo hướng công nông hoá, nam nữ bình quyền -về llượng CM phải đkết công nhân, ndân phải dựa vào dân cày nghèo, lãnh đạo công nhân làm CM ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông…Đi vào phe vsản giai cấp, đối với phú nông, trung , tiểu địa chủ, tbản an nan mà chưa rõ phản cmạng thì phải lợi dụng, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập, đối với những đối tượng đã ra mặt phản CM phì phải kiên quyết đánh đổ. -Đề ra phương pháp CM VN:Sdụng bạolực cách mạng của quần chúng để đánh đổ đế quốc phong kiến -Cưong lĩnh nêu rõ vấn đề đkết quốc tế:cách mạng VN là một bộ phận của cách mạng t/giới -Về llượng lãnh đạo cmạng : GCCN là lực lượng lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là ĐCS c. ý nghĩa: là một cương lĩnh giải phóng dtộc đúng đắn và sáng tạo theo con đường cmạng HCM, phản ánh đc quy luật khách quan của xhội VN, phải đáp ứng những nhu cầu cơ bản và cấp bách của xh VN, phù hợp với xu thế of thời đại. 2. so sánh với luận cương chính tri của trần phú a. giống nhau:những nội cương củ chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt về cơ bản là thống nhất với nội dung của luận cương ctrị Cùng xác định mtiêu of cm là làm cm tsản dân quyền & thổ địa cm để đi tới XHCS. để thực hiện mtiêu đlập dtộc & dân chủ thì nvụ cm: đánh đổ đế quốc cnghĩa pháp và bọn pkiến(chống đế quốc & chống pkiến) Tính chất của cm lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền sáu đó tiếp tục phát triển bổ qua thời kỳ tư bản tiến thẳng lên con đương XHCN Phương pháp CM:Sử dụng bạo lực CM của quần chúng Llượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp vô sản thông qua đội tiền phong của mình là ĐCS Quan hệ quốc tế: cmạng vn và cmạng đông dương là một bộ phận của cmạng thế giới b. khác nhau: luận cương chính trị và chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt có những điểm chưa thống nhất, đó cũng chính là những hạn chế của luận cương thánh 10/1930: một là, ko nêu ra đc mâu thuẫn chủ yếu của XH VN là mâu thuẫn giữa dân tộc VN với đế quốc pháp và tay sai của chúng, do đó ko đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Hai là, luận cương đánh giá không đúng mức vai trò cách mạng vảu tầng lớp tiểu tư sản và mặt yêu nc của tư sản dân tộc, chưa thấy đc khả năng phân hoá và nôi kéo 1 bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cm giải phóng dân tộc. luận cương ctrị nhận rõ vai trò của liên minh công nông nhưng lại chưa đề cập vấn đề mặt trận dân tộc thống nhất. Xuất phát từ nhận thức hạn chế như vậy, trong hội nghị lần thứ nhất ban chấp hành trung ương đã phê phán gay gắt những quan điểm đúng đắn trong chính cuơng vắn tắt, sách lược vắn tắt đc thông qua tại hội nghị thành lập đảng Nguyên nhân của những hạn chế trên là: nhận thức giáo điều và máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dtộc và vấn đề gcấp trong cm thuộc địa.hiểu biết ko đầy đủ về tình hình đặc điểm của xh gcấp và dtộc ở đông dương. chịu sự chi phối nặng nề of khuynh hướng “tả” của đại hội 6 quốc tế cộng sản. K/n : Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, chỉ rõ mục tiêu đường lối, nhiệm vụ, phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. V.I.Lênin viết: ''Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được Những bổ sung, phát triển chủ yếu về Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Sau đây gọi tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011). Chúng tôi xin giới thiệu những bổ sung, phát triển chủ yếu. Về quá trình cách mạng Việt Nam và bối cảnh quốc tế mới Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã viết khái quát những thắng lợi vĩ đại đã đạt được trong hơn 80 năm qua: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam (có bổ sung, phát triển so với Cương lĩnh năm 1991). Về những bài học kinh nghiệm đã Bổ sung vào nội dung bài học thứ hai, nói rõ: “Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân, sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng”. Thực tế tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận mệnh của đất nước, đến sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa, đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng; Khẳng định: “Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Việt Nam” chứ không chỉ là “nhân tố hàng đầu bảo đảm” như Cương lĩnh năm 1991 viết; Khắc phục cách diễn đạt trùng lắp ở các bài học thứ nhất, thứ ba, thứ tư. Chẳng hạn, bỏ ý nghĩa của từng bài học. Vì cả 5 bài học đều là 5 bài học kinh nghiệm lớn xuyên suốt hơn 80 năm qua. Về bối cảnh quốc tế được bổ sung, phát triển nhiều vấn đề so với Cương lĩnh năm 1991, bởi bối cảnh hiện nay và dự báo trong vài thập kỷ tới khác rất nhiều so với thời điểm Đảng ta ban hành Cương lĩnh năm 1991. Các đại hội Đảng gần đây, nhất là Đại hội X đã dự báo sâu sắc về bối cảnh thế giới và thực tế đã khẳng định tính đúng đắn các dự báo đó. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết gọn hơn theo hướng không đi sâu vào những vấn đề thế giới không liên quan trực tiếp đến nước ta hiện nay, nhất là những vấn đề còn có ý khác nhau, như về nguyên nhân sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Với tinh thần đó, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhiều, nhất là trên 3 vấn đề sau: Một là, về đặc điểm, xu thế chung. - Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước. - Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp. Hai là, nhận định về những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh loài người. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung hai vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan đến vận mệnh loài người: Chống khủng bố; ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Ba là, nhận định về đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại. Thực tế hai thập kỷ qua cho thấy các nước đều tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh cạnh tranh gay gắt với nhau vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Về mô hình, mục tiêu, phương hướng cơ bản Về mô hình: Bổ sung thêm 2 đặc trưng: Đặc trưng bao trùm, tổng quát: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và đặc trưng “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”. Hai đặc trưng này Đại hội X đã bổ sung. Điểm mới so với Đại hội X là chuyển từ “dân chủ” lên trước từ “công bằng” trong đặc trưng bao trùm, tổng quát. Bởi vì, cả lý luận và thực tiễn đều chỉ rõ dân chủ là điều kiện, tiền đề của công bằng, văn minh; đồng thời, để nhấn mạnh bản chất của xã hội ta là xã hội dân chủ theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh. Bổ sung, phát triển một số đặc trưng cho chính xác với mục tiêu đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội. - Kế thừa sự bổ sung, phát triển của Đại hội X về đặc trưng “do nhân dân làm chủ”. - Đặc trưng về kinh tế: Kế thừa Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (so với Đại hội X có bổ sung thêm từ “tiến bộ”). - Đặc trưng về con người. Cương lĩnh năm 1991 xác định: Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. - Đặc trưng về dân tộc. Cương lĩnh 1991 xác định: Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”. - Đặc trưng về hợp tác quốc tế. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Trong các đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, có một đặc trưng trong quá trình thảo luận có những ý kiến khác nhau. Cương lĩnh năm 1991 xác định “có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”. Qua tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn sau 20 năm đổi mới, trong đó có 15 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đại hội X xác định “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Kế thừa Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định “có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp” (so với Đại hội X bổ sung thêm từ “tiến bộ”, Đại hội đã biểu quyết với 65,04% đồng ý với đặc trưng này). Về mục tiêu: Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) cơ bản giữ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được xác định trong Cương lĩnh 1991 và xác định mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI: Toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về các phương hướng cơ bản: Cương lĩnh năm 1991 xác định bảy phương hướng cơ bản. Cách viết như Cương lĩnh năm 1991 đề cập đến cả định hướng phát triển, nên có nhiều nội dung trùng với nội dung đề cập ở mục III và IV. Đại hội X, qua tổng kết 20 năm đổi mới đã viết gọn lại. Kế thừa cách viết như Đại hội X, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: Để thực hiện thành công các mục tiêu trên (mục tiêu tổng quát, mục tiêu của chặng đường tới), toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường (so với Đại hội X thêm cụm từ “gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường”). Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội (so với Đại hội X bổ sung thêm cụm từ “xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”). Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (so với Đại hội X bổ sung thêm cụm từ “trật tự, an toàn xã hội”). Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế (Đại hội X mới xác định “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”). Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất (so với Đại hội X thêm cụm từ “tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất”). Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung nội dung về việc nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ… hững định hướng lớn về phát triển kinh tế So với Cương lĩnh năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) có rất nhiều bổ sung, phát triển và đã chỉ rõ những định hướng sau: Định hướng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối (Cương lĩnh năm 1991 mới xác định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa). - Về vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế: Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh; Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Từ Đại hội VIII, Đảng ta đã sử dụng khái niệm “kinh tế nhà nước”, bao gồm: Ngân sách nhà nước, các quỹ của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước. Từ Hội nghị Trung ương 3 khóa IX đã xác định: Kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo theo nghĩa: “Có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị xã hội của đất nước”; đồng thời cũng xác định doanh nghiệp nhà nước “giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thực tế những năm qua, nhất là trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, càng cho thấy phải khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vai trò quan trọng, làm nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước, gắn với vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước. Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước không mâu thuẫn, hạn chế sự phát triển bình đẳng, lâu dài các thành phần kinh tế, mà chính là mở đường, thúc đẩy, tạo điều kiện, tạo động lực cho phát triển các thành phần kinh tế; Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân (chủ trương này phù hợp với mục tiêu khi kết thúc thời kỳ quá độ); Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế (xác định là “một trong những động lực” là không hề có ý coi nhẹ các thành phần kinh tế khác đối với sự phát triển của đất nước); Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển (định hướng này thể hiện rõ tầm quan trọng của việc thu hút các nguồn lực bên ngoài cho phát triển). - Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. - Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. - Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi đơn vị kinh doanh đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. - Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và theo nguyên tắc thị trường; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. - Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất. Định hướng về phát triển các ngành, các vùng - Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức và chú trọng bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. - Thường xuyên coi trọng phát triển các ngành công nghiệp có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. - Bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn. - Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. PGS.TS Nguyễn Viết Thông Năm bài học lớn trong Cương lĩnh và nhiệm vụ xây dựng Đảng Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng trong các thời kỳ đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ hiện nay và sắp tới. Sức sống của các bài học không chỉ ở chỗ được đúc kết một cách đúng đắn mà còn ở chỗ được vận dụng một cách sáng tạo trong tinh thần đổi mới và phát triển Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua, Đảng ta, qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011) đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Về năm bài học này, có không ít câu hỏi đặt ra xoay quanh hai loại vấn đề: 1. Giá trị đích thực của 5 bài học đối với cách mạng nước ta. 2. Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng tình hình hiện nay. Vấn đề thứ nhất: Giá trị đích thực của 5 bài học đối với cách mạng nước ta Đối chiếu với Cương lĩnh 1991, ta thấy phần viết về 5 bài học trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) gần như được giữ nguyên, từ đầu đề và thứ tự các bài học cho đến nội dung của từng bài học. Sự sửa đổi chủ yếu ở cách diễn đạt theo hướng lược bỏ một vài câu diễn giải để các bài học được trình bày súc tích và nổi bật hơn. Có một số chi tiết quan trọng được bổ sung như: trước nói ''Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước'', nay nói: ''Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng” (bài học 2). Hoặc trước nói: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam'', nay nói: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam''(bài học 5) (những chữ in nghiêng là do tác giả nêu lên để nhấn mạnh). Sửa đổi và bổ sung, ít như vậy có thể dẫn tới một vài điều băn khoăn. Phải chăng trong quá trình tổng kết Cương lĩnh, Đảng ta đã làm qua loa, không chú trọng đúng mức đến việc đúc rút những bài học kinh nghiệm? Hay vì thực tiễn cách mạng trong mấy thập kỷ qua chưa đủ độ phát triển để rút ra những bài học mới? Sự thật là, suốt hai mươi năm kể từ sau Cương lĩnh 1991 ra đời, 5 bài học lớn đã là một trong những chủ đề trung tâm của sự học tập, nghiên cứu và giảng dạy chính trị. Đảng ta luôn coi 5 bài học lớn đó là báu vật trong hành trang lãnh đạo của mình, luôn vận dụng chúng vào việc hoạch định đường lối, chủ trương và chính sách, đồng thời thông qua thực tiễn mà kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển. Liền trong ba kỳ Đại hội Đảng từ VIII đến X, không Đại hội nào Đảng ta không đề cập tới các bài học lớn và làm phong phú thêm bằng những bài học cụ thể của đổi mới. Quá trình chuẩn bị Đại hội XI và tổng kết Cương lĩnh 1991 cũng diễn ra như vậy. Từ các cuộc thảo luận trong các tiểu ban văn kiện Đại hội cho đến Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện, không ít ý kiến đề nghị bổ sung và phát triển các bài học, nhất là các bài học sống động của đổi mới. Nhưng rồi cũng qua các cuộc thảo luận nghiêm túc và đầy trách nhiệm, Đảng ta đã đi đến nhận thức chung rằng, ở thời kỳ đổi mới, dẫu có thể nêu lên nhiều bài học cụ thể mới, song nếu xuyên suốt quá trình cách mạng 80 năm thì 5 bài học lớn do Cương lĩnh Đại hội VII đúc kết được là cơ bản nhất, bao quát nhất, xứng đáng ở tầm Cương lĩnh. Ở đây, không thể nói sự khẳng định lại các bài học, đã được thực tế kiểm nghiệm là đúng đắn trong tình hình mới và với nhận thức mới, là không bao hàm ý nghĩa của bổ sung và phát triển. Có người đặt câu hỏi: năm bài học kinh nghiệm lớn trong Cương lĩnh là 5 bài học chung của cách mạng Việt Nam hay là 5 bài học cho riêng sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng? Câu trả lời tùy thuộc vào cách tiếp cận giá trị của những bài học ấy. Nếu nhìn một cách tổng quát, 5 bài học lớn vừa nêu lên tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức phát triển của cách mạng Việt Nam lại vừa làm rõ tính chất, nội dung, phương hướng và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Trước hết, cách mạng Việt Nam trong suốt 80 năm, đã trải qua nhiều thời kỳ với những nhiệm vụ và tên gọi khác nhau như cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng bản chất và mục tiêu nhất quán của cuộc cách mạng ấy là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong ngôn ngữ thường dùng, có khi ta nói: độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, hoặc độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, song thực chất vẫn là một. Về sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, ngọn cờ của chúng ta là dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Trong kháng chiến chống Mỹ, với hai chiến lược cách mạng khác nhau - chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân chủ nhân dân ở miền Nam, Đảng ta đồng thời giương cao hai ngọn cờ: ngọn cờ độc lập dân tộc và ngọn cờ chủ nghĩa xã hội. Từ sau ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và có cùng chiến lược chung với hai nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì ngọn cờ chiến đấu thống nhất của Đảng và nhân dân ta là ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là bài học lớn đầu tiên được nêu lên trong Cương lĩnh. Bài học này cho thấy: độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Không nắm vững mà để lung lay ngọn cờ này sẽ là lầm lạc chết người về chính trị. Thứ hai, cách mạng Việt Nam là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Đối với cuộc cách mạng ấy, nhân dân vừa là chủ thể vừa là đối tượng phục vụ. Chính vì vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng. Thứ ba, cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân ta trong thời đại mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong toàn bộ quá trình của cuộc cách mạng ấy, nhất là trong thời kỳ xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước không phải là đấu tranh giai cấp mà là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức. Chính vì vậy, Đảng ta đặc biệt trân trọng bài học “không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết”: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đại đoàn kết là sức mạnh, là bài học từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: ''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công''. Đảng ta cũng trân trọng bài học: kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Và khẳng định: trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại. Vấn đề thứ hai: Ý nghĩa thực tiễn của 5 bài học đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay Năm bài học lớn trong Cương lĩnh phản ánh tư duy của Đảng ta về cách mạng Việt Nam và về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Năm bài học lớn ấy tạo thành một giá trị tổng thể, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay. Đi sâu vào bài học thứ 5, ta thấy sự đánh giá của Đảng ta là khách quan và trung thực: ''Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam''. Có nghĩa, không phải bất cứ sự lãnh đạo nào của Đảng cũng đều dẫn tới thắng lợi. Chỉ có sự lãnh đạo đúng đắn mới là nhân tố quyết định thắng lợi. Đúng đắn vừa là tiền đề vừa là điều kiện tiên quyết. Còn lãnh đạo sai thì kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại. Những thành tựu vĩ đại mà cách mạng nước ta giành được trong 80 năm qua chứng minh rằng, sự lãnh đạo của Đảng là đúng đắn. Nhưng bên cạnh đó, Đảng có lúc cũng phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Điều đáng ghi nhận là Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Để bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, bài học thứ 5 nhấn mạnh những nội dung sau: Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Gắn liền với bài học thứ 5, Cương lĩnh, phần nói về Đảng, cũng viết: để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái... Xuất phát từ 5 bài học lớn trong Cương lĩnh, đặc biệt là bài học thứ 5, trong sự nghiệp đổi mới mấy chục năm qua, Đảng ta luôn coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội X (2006) lấy việc ''nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' làm thành tố quan trọng đầu tiên trong chủ đề của Đại hội. Theo đó, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; năng lực tổng kết lý luận-thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; năng lực lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó còn là năng lực kiểm tra, giám sát các hoạt động của các tổ chức Đảng. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy đảng và toàn Đảng, phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh , “dĩ hòa vi quý''; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng, và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch. Đại hội XI (2011) mới đây một lần nữa xác định: ''Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng'' là nhiệm vụ bao trùm và nội dung chủ yếu nhất về xây dựng Đảng trong hình hiện nay. Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội XI khẳng định: ''Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực”. Nhưng Đại hội cũng chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục''. Đó là những hạn chế, yếu kém trong công tác chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, trong phương thức lãnh đạo và trong công tác kiểm tra, giám sát. Đáng lưu ý là ''tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước''. Cũng cần lưu ý rằng ''năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu”. Chính vì vậy, nhiệm vụ xây dựng Đảng đã được Đại hội XI nêu lên một cách toàn diện, bao gồm: (1) Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. (2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận. (3) Rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. (4) Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của đảng và hệ thống chính trị. (5) Kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên. (6) Đổi mới công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ. (7) Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, (8) Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Năm bài học lớn trong Cương lĩnh được rút ra từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Đảng trong các thời kỳ đã qua nhưng đến lượt nó, lại phục vụ đắc lực cho các hoạt động lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ hiện nay và sắp tới. Sức sống của các bài học không chỉ ở chỗ được đúc kết một cách đúng đắn mà còn ở chỗ được vận dụng một cách sáng tạo trong tinh thần đổi mới và phát tr iển./. Hà Đăng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan