®¹i häc quèc gia Hµ Néi
khoa luËt
-----------------
nguyÔn v¨n nam
nh÷ng vÊn ®Ò vÒ thi hµnh b¶n ¸n
ph¹t tï cã thêi h¹n ë ViÖt Nam
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Hµ Néi - 2010
®¹i häc quèc gia Hµ Néi
khoa luËt
-----------------
nguyÔn v¨n nam
nh÷ng vÊn ®Ò vÒ thi hµnh b¶n ¸n
ph¹t tï cã thêi h¹n ë ViÖt Nam
Chuyªn ngµnh
: LuËt h×nh sù
M· sè
: 60.38.40
luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc
Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: gs.ts ®ç ngäc quang
Hµ Néi - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Văn Nam
1
LỜI CẢM ƠN
Quá trình hoàn hành luận văn là một quá trình lâu dài. Trong quá trình
ấy, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và
một số cơ quan, tổ chức.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy, các cô của
khoa luật- ĐHQGHN. Trong quá trình học đại học và đặc biệt 3 năm học thạc sỹ
ở đây, tôi đã nhận được sự quan tâm, sự chỉ bảo tận tình của các thầy, các cô.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm Khoa luật, tổ bộ môn Tư pháp
hình sự đã tạo điều kiện để tôi có thể học tập và bảo vệ luận văn của mình.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến bạn bè của tôi, gia đình tôi.
Đó là những người đã động viên tôi và giúp tôi rất nhiều trong việc học tập và
bảo vệ luận văn.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo của tôi- thầy Đỗ Ngọc
Quang, một người thầy không những giỏi về chuyên môn mà còn rất tận tâm.
Thầy đã giúp tôi tìm kiếm tư liệu, giúp tôi tháo gỡ những vướng mắc trong
quá trình làm luận văn. Để có thành quả này, thầy giáo của tôi đã vất vả rất
nhiều. Xin chân thành cảm ơn thầy!
Học viên
Nguyễn Văn Nam
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
01
Lời cảm ơn
02
Mục lục
03
Danh mục bảng biểu
05
MỞ ĐẦU
06
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH BẢN ÁN PHẠT TÙ CÓ THỜI
HẠN
13
1.1. Nhận thức chung về thi hành bản án phạt tù có thời hạn
13
1.1.1. Khái niệm và bản chất về thi hành bản án phạt tù có thời hạn
13
1.1.2. Mục đích của việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn
14
1.1.3. Ý nghĩa của việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn
15
1.1.4. Mối quan hệ giữa hình phạt tù có thời hạn với các hình phạt
15
khác
1.1.5. Sự phát triển của pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời
hạn của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
19
1.2. Quy định của pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời
hạn
24
1.2.1. Cơ sở và nguyên tắc của thi hành bản án phạt tù có thời hạn
24
1.2.2. Trình tự, thủ tục thi hành bản án phạt tù có thời hạn
34
1.2.3. Cơ quan thi hành bản án phạt tù có thời hạn
40
1.2.4. Mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với cơ quan thi
hành bản án phạt tù có thời hạn
41
1.3. Pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời hạn ở một số
47
nƣớc trên thế giới
3
1.3.1. Pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời hạn của Liên Bang
Nga
47
1.3.2. Pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời hạn của một số
49
nước tư bản
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH BẢN ÁN PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
2.1.
52
Thực trạng thi hành bản án phạt tù có thời hạn từ năm
2005 đến 2009
52
2.1.1. Thực trạng trại giam và số lượng phạm nhân đang thi hành bản
án phạt tù có thời hạn
52
2.1.2. Nguyên nhân gây nên những tồn tại trong thi hành bản án phạt
tù có thời hạn
2.2.
60
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành bản án phạt tù
có thời hạn
62
2.2.1. Giải pháp về pháp luật
62
2.2.2. Giải pháp về tổ chức cơ quan thi hành bản án phạt tù có thời hạn
66
2.2.3. Xây dựng hệ thống trại giam có đủ các điều kiện để người phải
chấp hành bản án phạt tù tự giáo dục, cải tạo
72
2.2.4. Giải pháp mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với
cơ quan thi hành bản án phạt tù có thời hạn
75
2.2.5. Một số giải pháp khác
78
KẾT LUẬN
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
4
DANH MỤC BẢNG - BIỂU
STT
Bảng 2.1
Bảng 2.2
TÊN BẢNG - BIỂU
Thống kê bị cáo bị xét xử hình phạt tù có thời hạn
từ năm 2005 đến 2008
Thống kê số lượng phạm nhân tại trại giam Phú
sơn 4- Thái Nguyên
5
Trang
54
55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách Tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra mục tiêu, quan
điểm, phương hướng và nhiệm vụ cải cách Tư pháp. Để công cuộc đấu tranh
phòng và chống tội phạm đạt hiệu quả cao, cùng với việc đổi mới cơ quan
điều điều tra, truy tố, xét xử thì đổi mới công tác thi hành án là một trong
những nội dung quan trọng không thể tách rời của nhiệm vụ cải cách tư pháp
do Đảng và Nhà nước ta đề xướng và kiên trì thực hiện trong giai đoạn hiện
nay. Cải cách tư pháp sẽ không mang lại thành công triệt để nếu không đổi
mới một cách mạnh mẽ công tác thi hành án, bởi lẽ, suy cho cùng thì kết quả
của hoạt động tư pháp về cơ bản phụ thuộc ở hiệu quả hoạt động thi hành án
trong thực tế.
Công cuộc cải cách tư pháp hình sự trong thời gian qua đã có những
thành tựu đáng kể trong pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, trong tổ chức
các cơ quan điều tra, kiểm sát và xét xử, trong cơ chế đảm bảo quyền bào
chữa của bị can, bị cáo… Tuy nhiên, cải cách trong lĩnh vực thi hành án hình
sự lại chưa được quan tâm đúng mức. Trên thực tế, nguyên tắc hiến định “các
bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được
các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân tôn trọng, những người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm
chỉnh” vẫn chưa được đảm bảo triệt để.
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự
còn nhiều phân tán, nhiều đầu mối, chưa tập trung quyền lực nên thiếu sự chỉ
đạo, điều hành, kiểm tra thống nhất, làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý.
6
Do thiếu sự quy định trách nhiệm cụ thể, thiếu sự kiểm tra, đôn đốc thường
xuyên trong các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án hình sự nên dẫn đến tình trạng quản lý lỏng lẻo, nhiều đối tượng đã bị
Toà án kết án bằng bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng không được thi hành. Mỗi năm vẫn còn một số không ít người bị kết án
bằng hình phạt tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng họ vẫn chưa đi chấp
hành hình phạt tù tại trại giam. Công tác quản lý, giáo dục, cải tạo phạm nhân
trong các trại giam chưa đạt được mục đích. Tỷ lệ tái phạm trong số những
người đã chấp hành xong hình phạt tù còn cao; tình trạng trốn khỏi trại giam
vẫn còn xảy ra, nhiều đối tượng sau khi trốn khỏi trại giam đã gây ra những
vụ án nghiêm trọng ngoài xã hội.
Trong thi hành án hình sự ở Việt Nam thì hình phạt tù có thời hạn là
một trong các hình phạt thể hiện rõ nhất chính sách hình sự và nguyên tắc của
nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời ngăn ngừa người phạm tội tiếp
tục phạm tội, động viên, khuyến khích người phạm tội chứng tỏ khả năng giáo
dục, cải tạo, nhanh chóng để trở về hoà nhập với cộng đồng và trở thành
người có ích cho xã hội. Hình phạt tù có thời hạn là nhằm tách người phạm
tội ra khỏi cộng đồng trong một khoảng thời gian nhất định khi mà hành vi
phạm tội của họ buộc phải tách họ ra khỏi cộng đồng một thời gian để ngăn
ngừa tội phạm và giáo dục người phạm tội.
Trong thi hành án hình sự, việc nghiên cứu về từng hình phạt cụ thể
vẫn chưa được quan tâm, cũng như nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có
hệ thống và toàn diện. Pháp luật về thi hành án còn chưa kịp thời thể chế hoá
quan điểm của Đảng về tổ chức thi hành án hình sự theo hướng tập trung,
thống nhất; về xây dựng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động quản lý
và tổ chức thi hành án hình sự; chưa kịp thời điều chỉnh những vướng mắc
nảy sinh trong thực tiễn quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự.
7
Đối với hình phạt tù có thời hạn, chúng ta đã có pháp lệnh thi hành án phạt tù
đóng vai trò trong quản lý và thi hành hình phạt tù trong suốt thời gian qua,
tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay chúng ta cần phải có
một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn.
Thể chế hoá chủ trương và đường lối của Đảng, nhằm nâng cao hiệu
quả trong công tác thi hành án hình sự. Ngày 17/6/2010, Quốc hội đã thông
qua Luật thi hành án hình sự năm 2010. Đây là bước đột phá trong cải cách
Tư pháp, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách thi hành án hình sự. Luật thi hành án
hình sự góp phần hoàn thiện và là cơ sở pháp lý cho hoạt động thi hành án
hình sự, đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc cải cách Tư pháp. Tuy
nhiên, để luật thực sự đi vào cuộc sống thì chúng ta vẫn cần phải có những
điều chỉnh từng bước cho phù hợp với điều kiện thực tế, có các văn bản
hướng dẫn luật một cách đồng bộ và cụ thể đối với từng loại hình phạt, từng
vấn đề cụ thể trong công tác thi hành án hình sự.
Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu bức xúc cần phải nghiên cứu, tìm hiểu sâu
hơn những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án phạt tù có thời hạn, tiến hành
tổng kết một cách đầy đủ hơn nhằm chỉ ra những kinh nghiệm thành công
cũng như chưa thành công của thực tiễn công tác thi hành án phạt tù có thời
hạn, từ đó xây dựng luận cứ khoa học cho nhiệm vụ tiếp tục đổi mới công tác
thi hành án phạt tù có thời hạn trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về thi hành hình phạt tù
có thời hạn ở nước ta hiện nay có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Những vấn đề về thi
hành bản án phạt tù có thời hạn ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc
sỹ Luật học. Nội dung của đề tài cố gắng nghiên cứu cách tổng thể quy định
của pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời hạn. Đề tài cũng đưa ra những
luận cứ khoa học về thực trạng thi hành bản án phạt tù có thời hạn; đồng thời
8
đề ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành bản án phạt tù có thời
hạn phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam đáp ứng yêu cầu của công
cuộc cải cách Tư pháp trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong lĩnh vực thi hành án hình sự đã có một số công trình nghiên cứu
về thi hành án phạt tù có thời hạn, có thể kể đến “Một số vấn đề về thi hành
án hình sự” của TS Trần Quang Tiệp do nhà xuất bản Công an nhân dân xuất
bản năm 2002; “Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, PGS.TS Nguyễn Mạnh
Kháng chủ biên, do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006; “Hoàn thiện
quản lý nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án hình sự ở Việt Nam” của TS Vũ
Trọng Hách do nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2006. Ngoài ra, còn phải
kể đến các bài viết đăng trên các bài báo, tạp chí chuyên ngành luật như:
“Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những kiến nghị” của TS Nguyễn
Phong Hoà, đăng trên tạp chí TAND số 21/2006 Tr 22-32; “Thực trạng pháp
luật thi hành án phạt tù và phương hướng hoàn thiện” của TS Phạm Văn Lợi,
đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02/2006 v.v… . Đây là những
công trình nghiên cứu toàn diện cả về trong lĩnh vực thi hành án hình sự,
trong đó có hình phạt tù. Tuy nhiên, chưa thể hiện tính chuyên sâu về một
hình phạt cụ thể trong thi hành án hình sự. Trong công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi thực hiện chiến lược cải
cách Tư pháp đến năm 2020, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh vực
cần được làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là cơ sở cho việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về hình phạt tù nói chung và hình phạt tù có
thời hạn nói riêng góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án hình sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ
9
thống về công tác, tổ chức thi hành bản án phạt tù có thời hạn ở Việt Nam
hiện nay, từ đó xác định những bất cập để đề xuất kiến giải nhằm nâng cao
hiệu quả của việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn, đồng thời đưa ra được
các giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành bản
án phạt tù có thời hạn
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
- Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của công tác thi
hành bản án phạt tù có thời hạn, phân tích khái niệm, các đặc điểm cơ bản của
thi hành bản phạt tù có thời hạn, mối quan hệ giữa cơ quan, tổ chức thi hành bản
án phạt tù có thời hạn với các cơ quan khác trong TTHS. Phân tích nội dung,
điều kiện, trình tự thủ tục thi hành bản án phạt tù có thời hạn để làm sáng tỏ bản
chất pháp lý và nội dung cơ bản của thi hành bản án phạt tù có thời hạn. Trong
đó có cơ quan, tổ chức tiến hành thi hành bản án phạt tù có thời hạn.
- Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm
pháp luật trong thi hành bản án phạt tù có thời hạn đồng thời phân tích những
tồn tại xung quanh việc quy định về trình tự thủ tục, điều kiện, về cơ quan, tổ
chức tiến hành thi hành bản án phạt tù có thời hạn nhằm đề xuất một số giải
pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả
về thi hành bản án phạt tù có thời hạn trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn thi
hành bản án phạt tù có thời hạn trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến
2009 trên cơ sở những quy định của pháp luật về việc thi hành bản án phạt tù
có thời hạn. Ngoài ra, trên cơ sở các quy định của Luật thi hành án hình sự
được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 có hiệu lực vào ngày 01/7/2011
10
chúng tôi đưa ra những đánh giá về vấn đề thi hành bản án phạt tù có thời hạn
trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về thì hành án hình sự, về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như
thành tựu của các ngành khoa học khác như: Luật thi hành án hình sự, luật
hình sự, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của
một số nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Luận văn còn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về
mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như:
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch
sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh,… Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài
còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống
nhất có tính chất chỉ đạo của công tác thi hành bản án phạt tù có thời hạn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện các vấn đề về
thực trạng thi hành bản án phạt tù có thời hạn trong thời gian từ 2004- 2009;
- Đưa ra các luận giải khoa học về bản chất, ý nghĩa, yêu cầu trong việc
thi hành bản án phạt tù có thời hạn ở nước ta trong thời gian tới; đưa ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng Luật thi hành án hình sự năm 2010 vào
thực tiễn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn luận văn
- Tăng cường sự nhận thức đúng đắn của nhân dân, cán bộ, công chức
là những người thi hành bản án phạt tù có thời hạn và các cơ quan thi hành
11
bản án phạt tù có thời hạn về bản chất, yêu cầu, ý nghĩa của việc quy định và
thi hành bản án phạt tù có thời hạn;
- Góp phần bổ sung vào các công trình nghiên cứu trong lĩnh vực thi
hành án hình sự, kết quả của luận văn là tài liệu tham khảo trong việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về thi hành bản án phạt tù có thời hạn, nâng
cao hiệu quả thi hành bản án phạt tù có thời hạn;
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thi hành bản
án phạt tù có thời hạn, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phố biến, tuyên
truyền, giáo dục và áp dụng pháp luật của người, cơ quan có thẩm quyền về
thi hành bản án phạt tù có thời hạn.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm hai chương.
Chƣơng 1: Lý luận về thi hành bản án phạt tù có thời hạn.
Chƣơng 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành
bản án phạt tù có thời hạn.
12
Chƣơng 1
LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH BẢN ÁN PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THI HÀNH BẢN ÁN PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
1.1.1. Khái niệm và bản chất của thi hành bản án phạt tù có thời hạn
Để làm sáng tỏ khái niệm thi hành bản án phạt tù có thời hạn, trước hết
cần làm rõ khái niệm thi hành án. Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là “Thực
hiện điều đã chính thức quyết định” [34, tr.1559]. Như vậy, thi hành án có thể
được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Toà án trên thực tế; còn thi hành
án hình sự là thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật trên thực tế.
Các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được
các cơ quan nhà nước, tổ chức, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân tôn trọng, và phải được chấp hành nghiêm chỉnh. Đây là một nguyên tắc
đã được ghi nhận trong Hiến pháp điều này thể hiện tầm quan trọng của vấn
đề thi hành án nói chung và thi hành bản án phạt tù có thời hạn nói riêng.
Bản án phạt tù có thời hạn của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải
được thực hiện đúng với nội dung trong bản án trên thực tế. Mà cụ thể là
buộc người bị kết án tù có thời hạn chấp hành hình phạt tại trại giam, trại
tạm giam nhằm giáo dục họ trở thành người lương thiện. Trong thời gian
chấp hành hình phạt, người bị kết án phạt tù có thời hạn phải bị giam giữ,
lao động và học tập theo quy định của pháp luật. Hình phạt tù có thời hạn về
thực chất là tước một số quyền tự do, giam giữ người bị kết án phạt tù tại
trại giam, cách ly người đó khỏi môi trường xã hội bình thường một khoảng
thời gian nhất định để thực hiện các mục đích của hình phạt là đảm bảo công
lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội
phạm. Thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa
án trên thực tế; còn thi hành bản án phạt tù có thời hạn là thực hiện bản án
13
phạt tù có thời hạn đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Những bản án đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án được quy định trong Điều 25 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 bao gồm: Những bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Những bản án của Tòa án
cấp phúc thẩm; Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Thi hành bản án phạt tù có thời hạn hay thi hành án phạt tù có thời
hạn về bản chất chung đều là buộc người bị kết án tù có thời hạn chấp hành
hình phạt tại trại giam, trại tạm giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo
dục họ trở thành người lương thiện.
Về mặt lập pháp khoản 3 Điều 3 Luật thi hành án hình sự năm 2010
giải thích “Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo
dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội”.
Trên thế giới việc điều chỉnh quan hệ xã hội trong lĩnh vực thi hành án
hình sự các nước có những cách thức khác nhau. Tuy nhiên, về bản chất, thi
hành án phạt tù có thời hạn là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật buộc người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật
phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo trong trại giam, trại tạm
giam trong thời gian nhất định để họ trở thành người có ích cho xã hội.
Từ những phân tích trên có thể hiểu thi hành bản án phạt tù có thời
hạn là việc đưa bản án phạt tù có thời hạn đã có hiệu lực pháp luật ra thi
hành trên thực tế, tức là buộc người bị kết án phạt tù có thời hạn phải
chấp hành hình phạt tại trại giam, trại tạm giam trong thời hạn nhất định
được quy định trong bản án.
1.1.2. Mục đích của việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn
Trước khi tìm hiểu mục đích của việc thi hành bản án phạt tù có thời
hạn chúng ta cần hiểu rõ mục đích của hình phạt tù có thời hạn.
14
Điều 27 BLHS năm 1999 quy định mục đích của Hình phạt không chỉ
nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho
xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác
tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại
trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm
một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm.
Như vậy, có thể thấy được mục đích của việc thi hành bản án phạt tù có
thời hạn nhằm giáo dục, cải tạo người bị kết án tù có thời hạn trở thành người
lương thiện, có ích cho xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn
Việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn có ý nghĩa làm cho bản án của
toà án đã được thi hành trên thực tế. Đảm bảo cho các giai đoạn tố tụng trước
có ý nghĩa. Bên cạnh đó, việc thi hành bản án phạt tù có thời hạn không chỉ có
ý nghĩa phòng ngừa riêng đối với người phạm tội mà còn giáo dục người khác
có ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nói
chung, động viên, khuyến khích sự tham gia của xã hội và công dân vào cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.1.4. Mối quan hệ giữa hình phạt tù có thời hạn với các hình
phạt khác
Hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội nhằm
tước bỏ quyền tự do cư trú, đi lại của người bị kết án trong một khoảng thời
gian nhất định, buộc họ phải sống và làm việc trong trại giam, trại tạm giam
do Nhà nước quy định.
Hình phạt tù chung thân được áp dụng đối với người phạm tội nhằm
tước bỏ quyền tự do cư trú, đi lại của người bị kết án vô thời hạn, buộc họ
15
phải sống và làm việc trong trại giam do Nhà nước quy định.
Từ hai khái niệm trên có thể thấy được điểm giống nhau và khác nhau
giữa hình phạt tù chung thân và hình phạt tù có thời hạn: Chúng đều nhằm
tước tự do cư trú, đi lại của người bị kết án buộc họ phải sống và làm việc
trong trại giam do Nhà nước quy định và điều khác biệt giữa hai hình phạt này
là về thời hạn mà họ phải sống và làm việc trong môi trường trại giam, trại
tạm giam, đối với hình phạt tù có thời hạn thì họ chỉ bị tước tự do cư trú và đi
lại (phải sống và làm việc trong trại giam, trại tạm giam) một thời gian nhất
định đã được ghi trong bản án của toà án, hoặc họ có thể được tự do trước
thời hạn trong những trường hợp do pháp luật quy định. Đối với hình phạt tù
chung thân thì người bị kết án phải sống và làm việc trong trại giam không
thời hạn, trong thời gian chấp hành hình phạt họ có thể được chuyển sang
hình phạt tù có thời hạn nếu có đầy đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Mối quan hệ giữa hình phạt tù có thời hạn và tù chung thân được thể
hiện khi phạm nhân cải tạo tốt và thoả mãn các điều kiện được đặc xá thì
người bị kết án chung thân có thể được xét miễn giảm án xuống thành tù có
thời hạn. Đây có thể coi là sự chuyển hoá hình phạt trong quá trình cải tạo, thi
hành án.
Hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, tước bỏ quyền sống
của một con người khi người đó phạm vào một tội thuộc loại đặc biệt nghiêm
trọng có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là tử hình, họ đã hết
khả năng giáo dục, cải tạo (nếu để họ sống thì họ sẽ tiếp tục gây nguy hại cho
xã hội). Mối quan hệ giữa hình phạt tử hình với hình phạt tù thể hiện rõ nhất
là trong trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì trước khi ra quyết định thi
hành án, Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải tổ chức kiểm tra các điều
kiện không áp dụng hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật
hình sự (không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ
16
đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử). Nếu có căn
cứ người bị kết án có điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự thì
Chánh án toà án đã ra xét xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án và báo
cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình
thành tù chung thân cho người bị kết án.
Trước khi thi hành án đối với người bị kết án là phụ nữ thì Hội đồng thi
hành án ngoài việc kiểm tra căn cước, phải kiểm tra các tài liệu liên quan đến
điều kiện không thi hành án tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật
hình sự. Trong trường hợp Hội đồng thi hành án phát hiện người bị kết án có
điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự thì Hội đồng thi hành án
hoãn thi hành án và báo cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án để
báo cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét chuyển hình phạt tử hình
thành tù chung thân cho người bị kết án.
Ngoài các điều kiện nêu trên, khi tiến hành thủ tục thi hành án tử hình
mà có tình tiết đặc biệt, Hội đồng thi hành án tử hình ra quyết định hoãn thi
hành án và báo cáo Chánh án Toà án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo
Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Những tình tiết đặc biệt đó có thể được
xem xét như căn cứ để quyết định kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
hoặc như căn cứ để giảm án cho người bị kết án từ tử hình xuống chung thân.
Đối với các hình phạt không phải tù giam (Cảnh cáo, phạt tiền, hình
phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định, quản chế, cấm
cư trú, tước một số quyền công dân…)
- Người bị phạt tù được hưởng án treo và người bị phạt cải tạo không giam
giữ được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
họ cư trú hoặc làm việc để giám sát, giáo dục. Hình phạt tù có thời hạn có thể
được cho hưởng án treo nếu thoả mãn các điều kiện được quy định tại Điều
17
60 BLHS:
"1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm
tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình
phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một
năm đến năm năm.
2. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người
đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc
giám sát, giáo dục người đó…."
- Người bị phạt trục xuất phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong thời gian chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày có
quyết định thi hành án. Trong trường hợp người bị phạt trục xuất phải chấp
hành các hình phạt khác hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ khác thì thời hạn họ
rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do pháp luật quy
định.
- Đối với người bị phạt quản chế thì sau khi chấp hành xong hình phạt tù,
người bị kết án được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi họ cư trú
để thi hành hình phạt quản chế. Người bị phạt cấm cư trú thì không được tạm
trú, thường trú ở những địa phương bị cấm cư trú.
- Quyết định đưa bản án phạt tiền hoặc tịch thu tài sản ra thi hành phải được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên, người bị kết án và chính
quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú. Việc tịch thu tài sản
được tiến hành theo quy định tại Điều 40 BLHS (khi tịch thu toàn bộ tài sản
vẫn để lại cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống).
Mối quan hệ giữa hình phạt tù có thời hạn với các hình phạt nêu trên
thể hiện ở những khía cạnh khác nhau như các hình phạt khác có thể chuyển
18
- Xem thêm -