Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sư vi...

Tài liệu Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sư việt nam

.PDF
137
5
129

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG ĐỨC NGỌC NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG ĐỨC NGỌC NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2010 Mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các sơ đồ Mở đầu Chương 1: 1 Những vấn đề chung về phạm tội chưa đạt trong luật hình 9 sự 1.1. Khái niệm và phân loại phạm tội chưa đạt 9 1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý 9 1.1.2. Khái niệm phạm tội chưa đạt 18 1.1.3. Phân loại phạm tội chưa đạt 24 Phân biệt phạm tội chưa đạt với một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý 28 1.2.1. Phân biệt phạm tội chưa đạt với ý định phạm tội, chuẩn bị phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 29 1.2.2. Phân biệt phạm tội chưa đạt với tội phạm hoàn thành và tội phạm kết thúc 35 Các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về phạm tội chưa đạt 37 1.2. 1.3. 1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 37 1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa 39 1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp 40 1.3.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 43 Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự việt nam về phạm tội 47 chưa đạt Các quy định của pháp luật hình sự từ thời kỳ phong kiến đến trước ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt 47 2.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 47 2.1.2. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 51 2.1.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 55 Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về phạm tội chưa đạt 58 2.1. 2.2. 2.2.1. Hành vi phạm tội chưa đạt 58 2.2.2. Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt 63 2.2.3. Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa hoàn thành 77 Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của bộ luật 80 hình sự việt nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt 80 3.1.1. Những tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn 84 3.1.2. Vướng mắc trong quy định của Bộ luật hình sự 103 Việc hoàn thiện các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt 109 3.2.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt 109 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành về phạm tội chưa đạt 111 3.2. Kết luận 118 Danh mục Tài liệu tham khảo 121 Danh mục các bảng Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 Tổng số vụ án đã xét xử trên toàn quốc và tổng số vụ án đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm 80 2005-2009 3.2 Tổng số bị cáo đã xét xử trên toàn quốc và tổng số bị cáo 81 đã xét xử của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội các năm 2005-2009 3.3 Tỷ lệ bản án có phạm tội chưa đạt trong tổng số các bản án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình 81 sự của Tòa án nhân dân 3.4 Tội danh, số vụ, số bị cáo và tỷ lệ số vụ án trên các bản 82 án hình sự sơ thẩm và các quyết định giám đốc thẩm hình sự của Tòa án nhân dân Danh mục các sơ đồ Số hiệu Tên sơ đồ Trang Cấu thành tội phạm của hành vi phạm tội chưa đạt tồn tại 79 sơ đồ 2.1 trong thực tiễn Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý. Các giai đoạn phạm tội khác nhau chính là ở những yếu tố khách quan của hành vi phạm tội - tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thời điểm chấm dứt của những hành vi đó, cũng như mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể. Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng [13, tr. 287]. Cho nên, để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự (và hình phạt) đối với những người đã thực hiện các hành vi đó. Do đó, tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội - pháp lý, "tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người" [78, tr. 7]. Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự là do có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, mà còn là thuộc tính khách quan, tất yếu và thể hiện bản chất xã hội - pháp lý của từng hành vi phạm tội cụ thể. Ngoài ra, tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội, bởi vì tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với hình thức lỗi cố ý và vô ý. Còn đối với những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm, thì luật quy định, người thực hiện hành vi đó sẽ bị xử lý bằng biện pháp khác. 1 Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần tiến đến thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành từng bước để thực hiện hành vi phạm tội, có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau không phụ thuộc vào ý chí của người phạm tội mà họ phải dừng lại khi mới chuẩn bị điều kiện để thực hiện tội phạm hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành tội phạm. Theo đó, về mặt chủ quan hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn cố ý thực hiện tiếp hành vi phạm tội của mình, vì trong suy nghĩ, tư tưởng của họ bao giờ cũng mong muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả mong muốn đã được đặt ra. Mặc dù vậy, thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm cho thấy, có không ít trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ dự định của mình hay không tiến hành thực hiện tội phạm được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ, mà phải dừng lại ở những thời điểm khác nhau. Nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật và toàn thể xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật hình sự Việt Nam không những trừng trị những hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực hiện hoàn thành một tội phạm mà cả điều chỉnh xử lý các hành vi phạm tội chưa đạt - hành vi chưa hoàn thành. Việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa hoàn thành không chỉ để ngăn chặn tội phạm, mà còn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Điều này còn thể hiện đường lối xử lý trong chính sách hình sự - không để cho tội phạm gây ra nguy hiểm cho xã hội thì tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục, 2 phòng chống, đồng thời điều này cũng đã được cụ thể hóa trong Điều 1 về nhiệm vụ của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, trong diễn biến thực hiện tội phạm, việc xác định những hành vi nào đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, quyết định hình phạt đối với những người thực hiện hành vi ấy giúp cho cơ quan điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, tránh làm oan người vô tội không phải bao giờ cũng đơn giản và dễ dàng. Mặt khác, để quyết định một hình phạt được chính xác và công bằng thường gặp một số khó khăn nhất định hay còn có nhiều sai sót, đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và thời điểm dừng lại của hành vi phạm tội trong thực tế khách quan với ý nghĩ, mong muốn chủ quan của người phạm tội. Thời gian vừa qua, dưới góc độ khoa học luật hình sự xung quanh những vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, việc phân định ranh giới giữa chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, tội phạm hoàn thành và tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội còn có nhiều quan điểm khác nhau, có một số trường hợp do phân biệt không chính xác sẽ dẫn tới nhiều trường hợp xử oan, sai hoặc không đúng pháp luật. Bên cạnh đó, dưới góc độ thực tiễn áp dụng, có nhiều trường hợp đánh giá chưa đúng khi thực tế là chuẩn bị phạm tội nhưng người phạm tội lại phải chịu trách nhiệm hình sự về phạm tội chưa đạt, có trường hợp người phạm tội đáng lẽ phải chịu trách nhiệm hình sự lại không phải chịu hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt, nhưng lại cho là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hoặc chuẩn bị phạm tội dẫn đến họ được miễn trách nhiệm hình sự; v.v... Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về phạm tội chưa đạt trong khoa học và việc áp dụng nó trong thực tiễn để trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập pháp hoàn thiện phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu 3 đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Phạm tội chưa đạt là một vấn đề hẹp và thuộc chế định các giai đoạn phạm tội, đồng thời nó cũng có liên hệ mật thiết đến nhiều quy phạm và chế định khác trong luật hình sự như: tội phạm, hình phạt, trách nhiệm hình sự, chuẩn bị phạm tội, tội phạm hoàn thành, tội phạm kết thúc, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội; v.v... Ngoài ra, mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những quy định thay đổi đáng kể về tội phạm và về phạm tội chưa đạt như tách khoản 2 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 thành Điều 18 Bộ luật hình sự năm 1999, khoản 3 Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1985 (về quyết định hình phạt) được tách thành Điều 52 Bộ luật hình sự năm 1999 với ba khoản cụ thể tương ứng với từng hành vi phạm tội ở các giai đoạn phạm tội khác nhau chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt nhưng xung quanh chế định này còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu và đòi hỏi có quan điểm thống nhất. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, vấn đề phạm tội chưa đạt cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác nhau biên soạn như: 1) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của TS. Nguyễn Ngọc Chí, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003, 2007); 2) Chương IX - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Tập thể tác giả do PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 3) Chương XII - Các giai đoạn phạm tội của GS.TS. Võ Khánh Vinh, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do PGS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) Chương VII - Các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 5) Lâm Minh Hạnh. Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong 4 sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1986; v.v... Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam cũng đã dành không ít công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của GS.TSKH. Lê Văn Cảm: 1) Mục V - Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm, Chương thứ tư, trong Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), (Sách chuyên khảo Sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 2/2002; v.v... Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như: 1) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1999, của PGS.TS. Trần Văn Độ; 2) Một số vấn đề về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Luật học, số 6/1995; 3) Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của PGS.TS. Lê Thị Sơn; 4) Hoàn thiện hình phạt tử hình, tù có thời hạn và phạt tiền theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 5/2008 5) Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002, của TS. Trịnh Quốc Toản; 6) Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2002, của TS. Dương Tuyết Miên; 7) Về trường hợp miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, Tạp chí Khoa học, chuyên san Kinh tế - Luật, số 2/2006; 8) Về phạm tội chưa đạt và các hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học, (chuyên san Luật học), số 2/2009, của TS. Trịnh Tiến Việt; 9) Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3/1993, của tác giả Nguyễn Thị Mai; v.v... Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội chưa đạt nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem xét qua các 5 trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn đề phạm tội chưa đạt vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù đây là một giai đoạn quan trọng, có ý nghĩa rất lớn trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt nếu việc phát hiện và ngăn chặn sớm hành vi phạm tội chưa đạt sẽ làm giảm khả năng gây ra thiệt hại về nhiều hậu quả như: chính trị, vật chất, thể chất và tinh thần, cũng như tài sản của Nhà nước và toàn xã hội. Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội chưa đạt cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm tội chưa đạt là một nội dung tương đối hẹp và phức tạp, nghiên cứu về chế định này đã có nhiều nghiên cứu chung trong các giai đoạn phạm tội do cố ý mà ít có nghiên cứu chuyên sâu và riêng rẽ về từng trường hợp cụ thể của vấn đề phạm tội chưa đạt, nên việc hiểu trong lý luận và vận dụng trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số vấn đề cơ bản xung quanh chế định phạm tội chưa đạt như sau: 1) Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý; 2) Khái niệm, các đặc điểm và phân loại phạm tội chưa đạt; 3) Các căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt; 4) Nghiên cứu so sánh các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới; 5) Các quy định về phạm tội chưa đạt trong pháp luật hình sự Việt Nam; 6) Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt; 6 7) Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt. 4. Đối tượng và mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Trên cơ sở này, mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, so sánh hành vi phạm tội chưa đạt với các hành vi khác trong quá trình thực hiện tội phạm, cũng như so sánh vấn đề này với một số nước trên thế giới. Ngoài ra, luận văn còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tồn tại trong các quy định của pháp luật hình sự về phạm tội chưa đạt để từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện sửa đổi, bổ sung chế định này trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 hiện hành. 5. Các phương pháp nghiên cứu của luận văn Trong quá trình hoàn thành, tác giả luận văn đã sử dụng tổng hợp và đồng bộ các phương pháp nghiên cứu có độ tin cậy cao của khoa học luật hình sự và một số ngành khoa học khác như: phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, so sánh, nghiên cứu (điều tra) án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn Cơ sở khoa học của luận văn là quan điểm chính thống của các nhà làm luật được thể hiện trong Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành về phạm tội chưa đạt, cũng như hệ thống lý luận trong các công trình khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến chế định này. 7 Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng việc áp dụng các bản án của Tòa án nhân dân các cấp trên toàn quốc về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam trong phạm vi khoảng 10 năm gần đây (20002009) và qua đó để rút ra những nhận xét, đánh giá. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội, khái niệm, bản chất pháp lý của phạm tội chưa đạt, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt, nội dung và các căn cứ của các trường hợp phạm tội chưa đạt trên cơ sở xem xét các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định tương ứng đó ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội hiện nay ở nước ta. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về phạm tội chưa đạt trong luật hình sự. Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội chưa đạt. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về phạm tội chưa đạt. 8 Chương 1 Những vấn đề chung về phạm tội chưa đạt Trong luật hình sự 1.1. Khái niệm và phân loại phạm tội chưa đạt 1.1.1. Khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm do cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể. Bởi vì, để thực hiện một tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, dần từng bước một, chẳng hạn như: chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội; v.v... Trước đây và hiện nay, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm là một trong những công việc quan trọng của Nhà nước, của các cơ quan chuyên trách bảo vệ pháp luật và toàn thể xã hội. Bên cạnh việc xử lý hành vi phạm tội đã hoàn thành thì việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Như vậy, việc nghiên cứu khái niệm và cơ sở phân chia các giai đoạn phạm tội do cố ý có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong từng thời điểm, cũng như việc phân hóa trách nhiệm hình sự có căn cứ, khách quan và đúng pháp luật. Hiện nay, các giai đoạn này có nhiều tên gọi khác nhau trong khoa học và trên các sách báo pháp lý - các giai đoạn thực hiện tội phạm, các giai đoạn trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý; các giai đoạn phạm tội; v.v... Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ "các giai đoạn phạm tội do cố ý" nhằm mục đích cho đơn giản, ngắn gọn và gắn liền 9 với quá trình (diễn biến khách quan) của chủ thể thực hiện các hành vi phạm tội trên thực tiễn do cố ý, đồng thời phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội ở từng thời điểm khác nhau của hành vi phạm tội, cũng như phản ánh có trường hợp hành vi phạm tội là tội phạm và có trường hợp không phải là tội phạm, qua đó phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt đối với người thực hiện hành vi đó. Trước hết, trong khoa học luật hình sự Liên bang Nga quan niệm về các giai đoạn phạm tội do cố ý là: 1) Các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của những hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômxlôv); 2) Các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt những hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô); v.v... [13, tr. 440-441]. Hay trong luật hình sự Cộng hòa Pháp gọi là "các giai đoạn thực hiện các tội phạm do cố ý" [14, tr. 60]; v.v... Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về tên gọi có sự khác nhau nhưng về bản chất pháp lý là giống nhau mặc dù cách thể hiện nội dung có sự khác nhau, mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét. GS.TSKH. Lê Văn Cảm (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) định nghĩa: "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước phát triển theo một trình tự nhất định mà tội phạm trải qua, được thể hiện bằng việc thực hiện các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm tương ứng và bằng mức độ khác nhau của việc thực hiện sự cố ý phạm tội của chủ thể" [10, tr. 114]. Theo đó, đây là quan điểm tương đối chính xác về mặt khoa học và đầy đủ về mặt nội dung khi phản ánh sự thống nhất giữa phương diện khách quan và chủ 10 quan trong tội phạm, dựa trên cơ sở khoa học - các quy định của pháp luật cũng như cơ sở thực tiễn - các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ tồn tại trong lỗi cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, nhận thức về nội dung của định nghĩa này có nhiều quan điểm khác nhau mà dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Trường Đại học Luật Hà Nội) cho rằng: "Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [29, tr. 119]. Như vậy, theo quan điểm này thì chỉ những tội phạm cố ý khi thực hiện thì hành vi phạm tội mới trải qua các giai đoạn - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành và nhấn mạnh sự khác nhau giữa các giai đoạn là mức độ thực hiện tội phạm cố ý. Tác giả Trần Văn Đượm (Học viện Cảnh sát nhân dân) khẳng định luôn là các giai đoạn cố ý thực hiện tội phạm và định nghĩa đây là "các bước trong quá trình thực hiện tội phạm, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [18, tr. 176]. Quan điểm này chỉ khẳng định được các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình thực hiện tội phạm gồm có: chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Trong khi đó, cũng khẳng định như vậy, nhưng tác giả Lâm Minh Hạnh (Viện Nhà nước và pháp luật) lại quan niệm có hai giai đoạn chính trong các giai đoạn phạm tội: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm việc chuẩn bị phạm tội và thực hiện tội phạm. Trong giai đoạn thực hiện tội phạm có thể có hai trường hợp hoặc đã hoàn thành tội phạm hoặc đã phạm tội chưa đạt" [23, tr. 117], vì theo tác giả, phạm tội chưa đạt và hoàn thành tội phạm chỉ là các trường hợp riêng biệt trong các giai đoạn thực hiện tội phạm chứ không thể coi là giai đoạn chính thức được. Quan niệm như vậy có phần đúng, nhưng chưa phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình sự một cách rõ ràng sự khác nhau giữa các giai đoạn là mức độ thực hiện tội phạm do cố ý. 11 Gần đây, TS. Trịnh Tiến Việt (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội) đưa ra khái niệm các giai đoạn phạm tội phản ánh hình thức lỗi và các giai đoạn cụ thể trong các giai đoạn phạm tội, nhưng theo chúng tôi cũng cần phản ánh rõ hơn mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa các giai đoạn phạm tội do cố ý thì sẽ đầy đủ hơn: "Các giai đoạn phạm tội là những bước trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành" [80, tr. 126]; v.v... Như vậy, về cơ bản, các quan điểm khoa học trong lý luận luật hình sự Việt Nam đều thống nhất cho rằng, các giai đoạn phạm tội chỉ tồn tại dưới hình thức lỗi cố ý, không tồn tại dưới hình thức lỗi vô ý, bởi vì, trong lỗi vô ý, người phạm tội không nhận thức được hành vi mà mình thực hiện sẽ nguy hiểm cho xã hội, cũng không thấy trước được hậu quả có thể xảy ra và họ cũng không mong muốn cho hậu quả đó xảy ra. Tuy nhiên, một vấn đề khác lại đặt ra ở đây là tội cố ý có bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp hay không. Mặc dù vậy, về cơ bản, "đa số các nhà khoa học pháp lý hình sự đều cho rằng quá trình phạm tội chỉ có ở hình thức lỗi cố ý trực tiếp" [16, tr. 223]. Còn đối với những tội cố ý gián tiếp hay vô ý chỉ có thể có trường hợp có tội và không có tội mà thôi. Tất nhiên, cũng có quan điểm cho rằng "đối với những tội có cấu thành hình thức thực hiện bằng không hành động, mặc dù có lỗi cố ý trực tiếp cũng không có hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt". Ví dụ: Tội không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự), tội cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107 Bộ luật hình sự) [71, tr. 113]. Đặc biệt, cũng có quan điểm lại cho rằng: các giai đoạn phạm tội có cả ở hình thức lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, "cũng như trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội có lỗi cố ý gián tiếp cũng có ý thức lựa chọn một xử sự phạm tội. Những gì nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra ở trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp là những điều tuy chủ thể không nhằm tới nhưng họ chấp nhận việc nó xảy ra. Khi điều đó chưa xảy ra, chúng ta vẫn có thể và cần phải 12 đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với họ, vì việc không xảy ra là do nguyên nhân khách quan, còn chủ quan người phạm tội vẫn sẵn sàng chấp nhận việc nó xảy ra. Về mặt thực tiễn, hiện nay chúng ta đã gặp những vụ việc đòi hỏi cần xét xử về hình sự và việc xét xử này chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở thừa nhận nguyên tắc: các giai đoạn thực hiện tội phạm và trách nhiệm hình sự đối với các giai đoạn phạm tội được đặt ra cho cả trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp" [28, tr. 68-69]. Chúng tôi nhận thấy, ý kiến này cũng chứa đựng điểm hợp lý, tuy nhiên, thực tiễn xét xử ở Việt Nam chỉ thừa nhận có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đối với loại tội cố ý trực tiếp, đối với trường hợp phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp thì người phạm tội đã nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhận thức được hậu quả do hành vi của mình có thể gây ra nhưng hậu quả đó không phải là mục đích chính của người phạm tội. Chính vì không mong muốn gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm hình sự hay nói cách khác là không xảy ra ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt ở đây vì thái độ của họ là thờ ơ, bỏ mặc. Cho nên, khoa học luật hình sự và thực tiễn xét xử ở nước ta cho thấy giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt cũng như tội phạm hoàn thành chỉ xảy ra với lỗi cố ý trực tiếp mà thôi. Vấn đề tiếp theo là các giai đoạn phạm tội do cố ý có thể chỉ được đặt ra với tội có cấu thành tội phạm vật chất hay cả với những tội có cấu thành hình thức; có thể chỉ đặt ra với hành vi khách quan được thực hiện ở dạng hành động hay còn cả ở dạng không hành động. Theo quan điểm được thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự nhiều nước và Việt Nam thì: trong các tội thực hiện do cố ý trực tiếp chỉ đối với các tội có cấu thành tội phạm vật chất mới có đầy đủ các giai đoạn thực hiện thành phần (chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành), ví dụ: Tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự). Còn trong các tội có cấu thành tội phạm hình thức do hậu quả không phải là điều kiện bắt buộc của tội phạm nên trong các loại tội này chỉ có thể có tội phạm hoàn thành có chuẩn bị phạm tội mà không có phạm tội 13 chưa đạt. Bởi vì, khi người phạm tội thực hiện hành vi khách quan của cấu thành tội phạm thì cũng là lúc tội phạm hoàn thành và không thể coi là phạm tội chưa đạt được. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), người phạm tội đã thực hiện hành vi dùng bạo lực tấn công người khác nhưng chưa chiếm đoạt được tài sản của người đó thì đã cấu thành tội cướp tài sản; hay tương tự là tội phản bội Tổ quốc (Điều 78), tội gián điệp (Điều 80 Bộ luật hình sự); v.v... Ngoài ra, riêng đối với tội có cấu thành tội phạm cắt xén thì không có các giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà chỉ có tội phạm hoàn thành. Ví dụ: Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 79 Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tội phạm có cấu thành hình thức có thể có giai đoạn phạm tội chưa đạt, vì các tác giả này cho rằng phạm tội chưa đạt có thể xảy ra trong trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Ví dụ: Tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), tội hiếp dâm (Điều 111), tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (Điều 81 Bộ luật hình sự). Với quan điểm này, chúng tôi không đồng tình bởi vì riêng đối với tội hiếp dâm có giai đoạn phạm tội chưa đạt. Dấu hiệu hành vi khách quan của tội này bao gồm: Một là, hành vi dùng vũ lực (hoặc dùng thủ đoạn khác) để thực hiện, hai là, hành vi giao cấu trái với ý muốn của người phụ nữ. Nếu người phạm tội đã cố ý dùng vũ lực rồi mặc dù chưa thực hiện được hành vi giao cấu thì sẽ cấu thành tội hiếp dâm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Bởi vì, ở tội này có cấu thành có cấu thành vật chất chứ không phải có cấu thành hình thức. Còn đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản thì chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi dùng vũ lực đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hay hành vi bắt cóc con tin và hành vi đe dọa nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc bất kỳ một hành vi nào được mô tả trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm thì tội phạm đã hoàn thành. Như vậy, chúng tôi không đồng ý với quan điểm trên vì nó không phù hợp với bản chất của giai đoạn phạm tội chưa đạt. 14 Cũng như mọi trường hợp phạm tội nói chung, các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt đều được thực hiện bằng hành vi phạm tội. Và các hành vi này chỉ có thể dưới dạng hành động. Ví dụ: Tội phản bội Tổ quốc (Điều 78 Bộ luật hình sự). Còn loại tội được thực hiện bằng không hành động chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm hoàn thành chứ không thể xảy ra trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt được, tuy nhiên loại tội này chỉ chiếm một tỷ lệ không nhiều trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Ví dụ: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); v.v... Hiện nay, trong khoa học luật hình sự Việt Nam các giai đoạn phạm tội do cố ý đều thống nhất là bao gồm - chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Với quy định này, việc xác định mức hình phạt áp dụng đối với người thực hiện những hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt cụ thể hơn và quy định tỷ lệ hình phạt tối đa so với hình phạt có thể được áp dụng trong trường hợp tội phạm hoàn thành. Việc quy định các giai đoạn phạm tội nói chung và quy định chính xác tội phạm chưa hoàn thành nói riêng (chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt) trong từng trường hợp cụ thể có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Hành vi ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội bao giờ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng thấp hơn ở giai đoạn phạm tội chưa đạt và tương ứng như vậy, ở giai đoạn phạm tội chưa đạt luôn thấp hơn so với giai đoạn tội phạm hoàn thành. Quy định về chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự, xác định đúng mức nguy hiểm cho xã hội của hành vi nhằm bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ trong quyết định hình phạt một cách công minh, không để oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội theo đúng cơ sở của trách nhiệm hình sự: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" (Điều 2 Bộ 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan