ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN ANH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ LAN ANH
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số
: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các sơ đồ
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý TRONG LUẬT
6
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.
Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
6
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
6
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý
11
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý
13
1.2.
Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và sự kiện bất ngờ
20
1.2.1. Phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý
20
1.2.2. Phân biệt lỗi vô ý với sự kiện bất ngờ
21
1.3.
Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm và hình phạt
23
1.3.1. Vai trò của lỗi vô ý trong vấn đề tội phạm
23
1.3.2. Vai trò của lỗi vô ý với vấn đề hình phạt
26
Chương 2:
CÁC QUY ĐỊNH VỀ LỖI VÔ Ý TRONG PHÁP LUẬT
30
HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1.
Lỗi vô ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam
2.1.1. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam
thời kỳ Nhà nước phong kiến (trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945)
30
30
2.1.2. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam thời
kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1985
32
2.1.3. Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam kể
từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1999
35
2.2.
Các quy định về lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự hiện hành
38
2.2.1. Trong Phần chung của Bộ luật hình sự hiện hành
39
2.2.2. Trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành
43
2.3.
Những tồn tại, hạn chế trong các quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
49
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
56
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý
3.1.
Khái quát chung về thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý từ năm 2005 đến 2010
56
3.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về lỗi vô ý đối với các loại tội phạm cụ thể
58
3.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người (Chương XII Bộ luật hình sự)
58
3.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm sở hữu (Chương XIV Bộ luật
hình sự)
64
3.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng (Chương XIX Bộ luật hình sự)
66
3.2.4. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm trật tự quản lý hành chính
(Chương XX Bộ luật hình sự)
75
3.2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm về chức vụ được thực hiện do lỗi vô ý
(Chương XXI Bộ luật hình sự)
76
3.2.6. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội phạm vô ý xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương
XXII Bộ luật hình sự)
78
3.2.7. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành
về các tội do lỗi vô ý xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của
quân nhân (Chương XXIII Bộ luật hình sự)
80
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp
dụng các quy định về tội vô ý theo Bộ luật hình sự hiện hành
81
Chương 4:
84
3.3.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ LỖI VÔ Ý
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
Các giải pháp hoàn thiện một số quy định của Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý
84
4.1.1. Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện những quy
định của Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
84
4.1.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành về lỗi vô ý
89
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự hiện hành về lỗi vô ý
93
4.1.
4.2.
4.2.1. T¨ng c-êng c«ng t¸c gi¶i thÝch, h-íng dÉn ¸p dông ph¸p luËt
93
4.2.2. N©ng cao n¨ng lùc, tr×nh ®é chuyªn m«n nghiÖp vô, ý thøc
ph¸p luËt vµ tr¸ch nhiÖm nghÒ nghiÖp cña ®éi ngò ThÈm ph¸n
Tßa ¸n c¸c cÊp, nhÊt lµ ®éi ngò ThÈm ph¸n Tßa ¸n cÊp huyÖn
94
4.2.3. T¨ng c-êng sù hîp t¸c vµ trao ®æi kinh nghiÖm lËp ph¸p h×nh
sù víi n-íc ngoµi
98
KẾT LUẬN
101
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103
PHỤ LỤC
109
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADPL
: Áp dụng pháp luật
BLHS
: Bộ luật hình sự
CTTP
: Cấu thành tội phạm
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
Danh môc c¸c s¬ ®å
Sè hiÖu
s¬ ®å
Tªn s¬ ®å
Trang
1.1
Về lỗi vô ý vì quá tự tin
14
1.2
Về lỗi vô ý do cẩu thả
15
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè hiÖu
biÓu ®å
2.1
Tªn biÓu ®å
Tổng số vụ án do lỗi vô ý phải xét xử từ 2005 đến 2010
Trang
56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Tội phạm là một thể thống nhất của mặt khách quan và mặt chủ quan.
Mặt khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là
hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Những biểu hiện đó cùng với
khách thể và chủ thể của tội phạm là những yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm
tội. Theo khoa học luật hình sự Việt Nam, bất cứ hành vi phạm tội nào, dù ít
nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng thì
giữa những biểu hiện bên ngoài và những quan hệ tâm lý bên trong, đều là
hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ
xã hội nhất định.
Trong mặt chủ quan của tội phạm, lỗi là dấu hiệu bắt buộc của mọi tội
phạm được quy định trong luật hình sự, không có lỗi sẽ không có tội phạm.
Việc thừa nhận lỗi như là một căn cứ để truy cứu TNHS là một nguyên tắc cơ
bản, tiến bộ trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Mặc dù lỗi có vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong thực tiễn pháp
luật việc quy định các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm nói chung
và dấu hiệu lỗi nói riêng trong một số CTTP vẫn còn có những bất cập, hạn
chế nhất định, như không quy định hoặc quy định về lỗi, các hình thức lỗi,
trong đó có lỗi vô ý chưa rõ ràng, mâu thuẫn, thiếu thống nhất dẫn đến tình
trạng người tiến hành tố tụng hiểu sai, áp dụng sai trong định tội danh và
quyết định hình phạt. Từ đó, làm cho hiệu quả, chất lượng giải quyết vụ án
hình sự hạn chế, tình trạng xét xử oan, sai đối với người thực hiện hành vi hay
bỏ lọt tội phạm vẫn tiếp diễn; nhiều vụ án hình sự không được giải quyết theo
trình tự luật định, tình trạng tồn đọng án đang có dấu hiệu gia tăng, v.v...
1
Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu "Những vấn đề
lý luận và thực tiễn về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam" là cần thiết, khách
quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, dưới những góc độ khác nhau,
đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề lỗi nói chung và lỗi vô
ý nói riêng, điển hình như: Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại
học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội; NguyÔn Ngäc Hßa (2008), Téi ph¹m vµ cÊu thµnh
téi ph¹m, NXB C«ng an nh©n d©n, Hµ Néi; Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu
thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn, NXB Tư pháp, Hà Nội; §µo TrÝ óc
(2000), LuËt h×nh sù ViÖt Nam, QuyÓn I: "Nh÷ng vÊn ®Ò chung", NXB Khoa
häc x· héi, Hµ Néi; Vâ Kh¸nh Vinh (1994), Nguyªn t¾c c«ng b»ng trong luËt
h×nh sù ViÖt Nam, NXB C«ng an nh©n d©n, Hµ Néi; ViÖn Nghiªn cøu Nhµ
n-íc vµ Ph¸p luËt (1993), M« h×nh lý luËn vÒ Bé luËt h×nh sù ViÖt Nam (PhÇn
chung), NXB Khoa häc x· héi, Hµ Néi; Dương Tuyết Miên (2007), Định tội
danh và quyết định hình phạt, NXB Lao động - xã hội; Cao Thị Oanh, Vấn đề
mặt chủ quan của đồng phạm, Tạp chí Luật học 2/2002; Trần Quang Tiệp,
Một số vấn đề lỗi trong luật hình sự, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
11/1999; Lê Thị Thu Thủy (2003), Nguyên tắc trách nhiệm trên cơ sở lỗi
trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội, v.v..
Tuy nhiªn, qua nghiªn cøu, kh¶o s¸t néi dung c¸c s¸ch chuyªn kh¶o,
c¸c luËn ¸n, luËn v¨n vµ c¸c bµi b¸o khoa häc vÒ chế định lỗi vô ý cña c¸c nhµ
khoa häc luật hình sự ë n-íc ta, cho thÊy hÇu hÕt ®ã lµ c¸c c«ng tr×nh nghiªn
cøu c¬ b¶n về các vấn đề chung của luật hình sự, cßn ®èi víi chế định lỗi vô
ý, nh×n mét c¸ch tæng quan, ch-a ®-îc quan t©m mét c¸ch ®óng møc. Nh÷ng
nghiªn cøu vÒ lỗi vô ý míi chØ dõng l¹i ë c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu ®¬n lÎ,
2
hoÆc lµ ®Ò cËp ®Õn các yếu tố CTTP, hoặc là về mặt chủ quan của tội phạm,
hoÆc lµ ®-îc thÓ hiÖn mét phÇn trong kÕt qu¶ cña c¸c c«ng tr×nh nghiªn cøu
kh¸c vÒ phần chung của luật hình sự. Có thể nói hiện nay ở Việt nam vẫn
ch-a triÓn khai nghiªn cøu cã hÖ thèng, toµn diÖn vµ s©u s¾c vÒ lỗi vô ý d-íi
gãc ®é lý luËn và thực tiễn áp dụng. Do đó, nguyªn nh©n cña những tån t¹i,
bÊt cËp trong thùc tiÔn ¸p dông những quy định về lỗi vô ý ch-a ®-îc ph©n
tÝch cã hÖ thèng ®Ó ®-a ra nh÷ng kiÕn nghÞ, gi¶i ph¸p ®ång bé.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật hình sự
Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật Việt nam quy định về lỗi
vô ý và thực tiễn áp dụng trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, rút ra
được những tồn tại, hạn chế của việc quy định và áp dụng các quy định về lỗi
vô ý và những nguyên nhân của nó;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của luật hình sự về lỗi vô ý.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung
vào những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề chung về lỗi, lỗi vô ý, các hình thức và vai
trò của lỗi vô ý, phân biệt lỗi vô ý với lỗi cố ý và với sự kiện bất ngờ; Lỗi vô
ý trong quá trình phát triển của luật hình sự Việt Nam;
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ thực tiễn pháp luật hình sự quy
định về lỗi vô ý;
3
- Nghiên cứu, phân tích thực trạng áp dụng các quy định về lỗi vô ý
trong hoạt động xét xử của các Tòa các cấp từ năm 2005 đến 2010;
- Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về lỗi vô ý
trong BLHS hiện hành và thực tiễn áp dụng;
- Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện
pháp luật quy định về lỗi vô ý, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về lỗi vô ý.
4. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực
tiễn, thống kê, v.v... Nhờ vậy, những vấn đề có liên quan tới lỗi vô ý được
xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện,
có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông
qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn
thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói riêng.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan
bảo vệ pháp luật,…
4
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật
học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ hệ thống những vấn đề lý luận về lỗi vô ý trong luật
hình sự Việt Nam;
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện của
lỗi vô ý trong Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật
về lỗi vô ý; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại
trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để
hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng pháp luật về lỗi vô ý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về lỗi vô ý trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các quy định về lỗi vô ý trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự hiện
hành về lỗi vô ý.
Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định Bộ luật hình sự
hiện hành về lỗi vô ý và nâng cao hiệu quả áp dụng.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI VÔ Ý
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, bản chất, điều kiện và các dạng lỗi vô ý
1.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi vô ý
Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan.
Mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm
nhiều nội dung khác nhau, chúng có ý nghĩa về mặt hình sự, trong đó có nội
dung trả lời cho câu hỏi: Lí trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu
hiện ra bên ngoài của tội phạm như thế nào?
Lỗi nãi chung, lỗi cố ý và lỗi vô ý nói riêng, nh×n d-íi gãc ®é triÕt häc
cã mèi quan hÖ néi t¹i, t-¬ng t¸c víi nhau. §©y lµ mèi quan hÖ gi÷a c¸i riªng
vµ c¸i chung. Víi t- c¸ch lµ c¸i chung, ph¹m trï lỗi bao giê còng ®-îc ®Æt
trong quan hÖ víi lỗi cố ý và lỗi vô ý. ChÝnh v× lý lÏ ®ã, muèn hiÓu ®-îc kh¸i
niÖm lỗi cố ý và lỗi vô ý víi c¸c mÆt kh¸c nhau cña nã th× nhÊt thiÕt ph¶i nhËn
thøc ®-îc kh¸i niÖm chung vÒ lỗi.
Lỗi lµ mét ph¹m trï ph¸p lý - x· héi phøc t¹p, ®-îc nghiªn cøu trong
nhiÒu lÜnh vùc khoa học kh¸c nhau nh- triÕt häc, thÇn häc, gi¸o dôc häc, ®¹o
®øc häc, t©m lý häc, téi ph¹m häc, và luật học trong đó đặc biệt là sự quan
tâm, nghiên cứu của khoa häc luật hình sự.
Trong lÜnh vùc khoa häc luật hình sự, viÖc lµm s¸ng tá kh¸i niÖm lỗi lµ
mét vÊn ®Ò hÕt søc quan träng, có ý nghĩa không dừng lại ở việc góp phần
nhận thức bản chất của lỗi mà còn làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan. Tuy
vËy, trong khoa häc luật hình sự vÉn cßn tån t¹i nh÷ng quan ®iÓm kh¸c nhau:
- Quan điểm thứ nhất: Theo Từ điển Luật học: "Lỗi được hiểu là thái
độ tâm lý của một người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và
hậu quả nguy hiểm cho xã hội thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý" [4].
6
- Quan điểm thứ hai: Theo GS.TSKH Lê Cảm:
Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và là một trong
những điều kiện bắt buộc của trách nhiệm hình sự, đồng thời là thái
độ tâm lý của người có năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm mà
người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy gây nên dưới hình
thức cố ý hoặc vô ý [10].
- Quan điểm thứ ba: Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: "Lỗi là dấu hiệu
thuộc mặt chủ quan của tội phạm phản ánh chủ thể có đủ điều kiện lựa chọn,
thực hiện hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội khi quyết định thực
hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội" [10].
Mặc dù còn tồn tại sự khác nhau nhất định về cách tiếp cận, tên gọi
của vấn đề, nhưng về cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng
lỗi là một yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, là sự kết hợp giữa yếu tố
lý trí và ý chí, trong đó, lý trí thể hiện khả năng nhận thức hoặc không nhận
thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn ý chí thể hiện năng
lực điều khiển hành vi hoặc kìm chế việc thực hiện hành vi đó để thực hiện
một xử sự khác không trái với lợi ích của xã hội. Đồng thời, lỗi trong luật
hình sự chính là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa cá nhân người phạm tội
với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội
được thể hiện qua sự đòi hỏi cụ thể của luật hình sự.
Để nhận thức đúng đắn quan niệm về lỗi trong luật hình sự, cần phải
nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ các vấn đề thuộc nội hàm của lỗi, hay nói cách
khác là các dấu hiệu của lỗi.
Lỗi có hai dấu hiệu cơ bản: dấu hiệu về lý trí và dấu hiệu về ý chí của
con người.
- Yếu tố lý trí: Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "lý trí là khả năng
nhận thức sự vật bằng suy luận" [71].
7
Hành vi của con người được hiểu là toàn bộ xử sự biểu hiện ra bên
ngoài của họ trong một hoàn cảnh cụ thể. Nó chịu sự chi phối của điều kiện
sinh hoạt vật chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất - đó chính là hoàn cảnh khách quan. Nhưng đối với chính xử sự của
mình, con người vẫn có tự do tương đối, thông qua hoạt động ý thức, họ có
khả năng lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự phù hợp với những quy luật
tự nhiên và xã hội theo những gì mà họ nhận thức được. Tính tự do của hành
vi là "con người khi hành động không phải chỉ nhắm mắt thụ động, để cho
hoàn cảnh khách quan lôi kéo… mà còn có tự do tương đối…" [17].
- Yếu tố ý chí: là sự thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở
nhận thức, người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả
xảy ra hoặc cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Đây chính là khả năng tâm lý của con người có thể tự mình lựa chọn
và thực hiện các xử sự trong những điều kiện xã hội nhất định. Nhưng đó
không có nghĩa là tùy tiện, bất chấp quy luật mà phải là sự nhận thức và làm
theo quy luật để thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngược lại, nếu con người lựa
chọn, quyết định và thực hiện xử sự không phù hợp với quy luật, trái với lợi
ích xã hội thì có nghĩa là họ đã tự tước bỏ sự tự do của mình và phải chịu trách
nhiệm với cộng đồng, xã hội. Vì họ có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội
của hành vi, có khả năng điều khiển được hành vi theo quy luật của xã hội
nhưng thực tế tự bản thân họ đã lựa chọn xử sự trái với đòi hỏi của xã hội, gây
ra thiệt hại cho xã hội. Khi đó, họ bị coi là có lỗi đối với việc thực hiện hành
vi. Trách nhiệm mà họ phải gánh chịu có thể là trách nhiệm về đạo đức hoặc
là trách nhiệm pháp lý. Nếu hành vi đó trái với lợi ích của xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ thì họ bị coi là có lỗi hình sự và buộc phải chịu TNHS.
Như vậy, về mặt hình thức, lỗi bao gồm hai yếu tố cấu thành là lý trí
và ý chí, một thể hiện khả năng nhận thức thực tại khách quan, một thể hiện
năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở của sự nhận thức là những yếu tố tâm
8
lý cần thiết của mọi hành động có ý thức của con người. Nếu xử sự gây thiệt
hại cho xã hội bị coi là có lỗi thì quá trình lý trí và ý chí phải có những đặc điểm
nhất định phản ánh được rằng xử sự gây thiệt hại cho xã hội đã thực hiện là
kết quả của sự tự lựa chọn, tự quyết định của chủ thể, trong khi chủ thể có đủ
điều kiện lựa chọn và quyết định xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có
thể định nghĩa lỗi trong luật hình sự như sau:
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể (cá nhân) có năng lực trách nhiệm
hình sự, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị luật hình sự cấm và hậu quả do hành vi đó gây ra trong khi họ có đủ
điền kiện để lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lý các yếu tố lý trí và ý chí của con
người, khoa học luật hình sự đã chia lỗi thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Lỗi cố ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành
vi và khả năng gây ra hậu quả của hành vi, họ nhận thức rõ hành vi của mình
có tính chất nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó và
mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Còn đối với lỗi vô ý để có thể đưa ra một nhận định, một cách hiểu
đúng về nó, cần phải làm rõ các yếu tố cấu thành nên lỗi vô ý:
- Yếu tố ý chí: là khi chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức
không đầy đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
khi quyết định thực hiện hành vi, họ không thấy được khả năng xảy ra hậu
quả nguy hiểm cho xã hội.
Các trường hợp chủ thể không nhận thức được hoặc nhận thức không
đầy đủ là đặc điểm phản ánh trong CTTP, như:
+ Chủ thể không nhận thức được tính chất thực tế của hành
vi và khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó.
9
+ Chủ thể tuy nhận thức được tính chất thực tế của hành vi
nhưng hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của hành đó.
+ Chủ thể nhận thức được tính chất thực tế của hành vi,
nhận thức được khả năng hậu quả xảy ra nhưng sau khi cân nhắc đã
loại trừ khả năng đó khi lựa chọn thực hiện hành vi [28].
Việc có nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội hay không còn
phụ thuộc vào điều kiện khách quan và điều kiện chủ quan. Điều kiện khách
quan chính là hoàn cảnh cụ thể mà người thực hiện hành vi có thể tự do lựa
chọn xử sự của mình, tự do này là cả về thể xác và tinh thần. Điều kiện chủ
quan chính là năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, độ tuổi của chủ thể.
Dựa trên sự phát triển về tâm lý và chính sách hình sự mà mỗi quốc gia sẽ
quy định độ tuổi này khác nhau. Khi đạt độ tuổi nhất định, con người sẽ có
năng lực nhận thức và điều khiển hành vi. Và họ sẽ phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Ở Việt Nam, chủ thể khi đủ 14 tuổi là bắt đầu có năng lực
nhận thức, điều khiển hành vi và 16 tuổi là tuổi có năng lực nhận thức đầy đủ.
- Yếu tố ý chí: chủ thể có điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi phù
hợp với quy định của pháp luật hình sự, nhưng chủ thể đã tự mình tước bỏ
điều kiện này và lựa chọn, thực hiện một hành vi khác - hành vi trái pháp luật
hình sự.
Như vậy, chủ thể khi thực hiện hành vi với lỗi vô ý đã không lựa chọn
hành vi phạm tội mà thực chất chỉ lựa chọn một xử sự do không nhận thức
được đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của nó. Và xử sự này ngẫu nhiên đồng
nhất với hành vi phạm tội. Sự nhận thức, lựa chọn thực hiện hành vi của chủ
thể thường không giống với hành vi thực tế khách quan xảy ra cũng như kết
quả từ hành vi ấy. Trong suy nghĩ của họ hoàn toàn không mong muốn hành
vi phạm tội xảy ra. Vì thế mà bản chất của lỗi vô ý chính là sự phủ định chủ
quan với những đòi hỏi của xã hội được thông qua các đòi hỏi cụ thể của pháp
10
luật hình sự. Tuy nhiên, sự phủ định này không gay gắt, không quyết liệt,
không trực tiếp như đối với lỗi cố ý. Về dấu hiệu này, Điều 15 Luật hình sự
Trung Quốc cũng đã quy định: "Vô ý phạm tội là hậu quả xảy ra do nguyên
nhân, khi người thực hiện hành vi cần phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội nhưng do cẩu thả mà không thấy trước hoặc đã thấy trước nhưng cho
rằng hậu quả đó có thể ngăn ngừa được" [24].
Chủ thể không nhận thức được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi trong lỗi vô ý là do thái độ cẩu thả hoặc quá tự tin thiếu thận trọng
khi đánh giá, lựa chọn xử sự. Trên thực tế, hành vi phạm tội do lỗi vô ý thường
xảy ra bởi một số điều kiện: thiếu kỷ luật trong công tác, thiếu trách nhiệm, thái
độ bất cẩn khi thực hiện hành vi, thiếu chuyên môn kỹ thuật,... Và xảy ra trong
các lĩnh vực của đời sống hàng ngày, hoặc liên quan đến chuyên môn, quản lý,...
Từ những nhận định và phân tích trên đây, có thể đưa ra quan niệm về
lỗi vô ý như sau: Lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người phạm tội khi
lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không nhận thức đầy
đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi có đủ điều kiện để
nhận thức được.
1.1.2. Các điều kiện của lỗi vô ý
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng thì điều kiện được hiểu là "điều
nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc gì đó, hình thành một cái
nào đó" [71].
Căn cứ vào hình thức của lỗi, bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý, do vậy, khi
xem xét đến điều kiện của lỗi vô ý, tác giả tiếp cận ở khía cạnh, đó là điều
kiện để một người bị coi là có lỗi nói chung và điều kiện để một người bị coi
là có lỗi vô ý nói riêng.
Bản chất của lỗi đó chính là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội.
Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi hành
vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi họ có điều các điều kiện
11
khách quan và chủ quan để có thể lựa chọn xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã
hội. Đó chính là sự tước tự do trong ý thức chủ quan của chủ thể - nguyên
nhân dẫn đến hành vi mất tự do trên thực tế - hành vi trái với đòi hỏi của xã
hội, trái với luật hình sự.
Từ đó ta có thể rút ra những điều kiện để một người bị coi là có lỗi
như sau:
Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do - năng lực nhận
thức được đòi hỏi của xã hội và năng lực điều khiển được hành vi
phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng lực trách
nhiệm hình sự. Chỉ những chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể
có lỗi. Người không có năng lực tự do thì không thể có lỗi;
Thứ hai, chủ thể có năng lực tự do chỉ có thể có lỗi trong
trường hợp cụ thể khi có điều kiện phát huy năng lực đó - điều kiện
cho phép chủ thể trong trường hợp cụ thể biến năng lực tự do thành
sự tự do thực sự;
Thứ ba, chủ thể không sử dụng năng lực tự do và điều kiện
cho phép trong trường hợp cụ thể để lựa chọn hành vi tự do mà đã
lựa chọn hành vi nguy hiểm cho xã hội - hành vi mất tự do [28].
Như vậy, chủ thể cần phải hội tụ cả ba điều kiện trên khi thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội thì mới bị coi là có lỗi. Tuy nhiên, đối với lỗi
vô ý thì để một chủ thể bị coi là lỗi khi thực hiện hành vi thì ngoài việc đáp
ứng các các điều kiện của lỗi nói chung, chủ thể cần phải có thêm các điều
kiện khác cụ thể như sau:
Thứ nhất, chủ thể không nhận thức được đầy đủ các đặc điểm thể hiện
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Sự nhận thức này có thể là không nhận thức không đầy đủ (đối với lỗi
vô ý vì quá tự tin) hoặc có thể là không nhận thức được (đối với lỗi vô ý do
cẩu thả). Đây là điều kiện bắt buộc đối với người thực hiện hành vi do lỗi vô
12
ý, bởi lẽ nếu chủ thể nhận thức được một cách rõ ràng, đầy đủ các đặc điểm
thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vẫn thực hiện hành vi
thì không thể thuộc trường hợp vô ý được, mà đó phải là lỗi cố ý. Sự nhận
thức không đầy đủ này có thể xuất phát từ việc cho rằng hậu quả không xảy ra
hoặc cho rằng nếu có xảy ra thì có thể ngăn ngừa được.
Thứ hai, chủ thể phải có sự tin tưởng quá mức cần thiết hoặc sự cẩu
thả, thiếu thận trọng trong việc đánh giá hành vi.
Sự tin tưởng quá mức cần thiết (đối với lỗi vô ý vì quá tự tin) là sự tin
tưởng vào sự khéo léo, hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kỹ thuật
của mình… cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì sẽ ngăn
ngừa được. Lỗi của chủ thể chính là ở chỗ đã quá tin tưởng vào khả nhận thức
của mình. Hoặc chủ thể đã thể hiện sự cẩu thả, thiếu thận trọng trong việc
đánh giá hành vi (đối với lỗi vô ý do cẩu thả), đó chính "là việc chủ thể khi
hành động không đến nơi đến chốn, không cẩn thận, chỉ cốt làm cho xong
việc, lơ đãng trong công việc". Riêng đối với lỗi vô ý do cẩu thả cần phải có
thêm một điều kiện quan trọng khác đó là chủ thể có nghĩa vụ phải thấy trước
và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra, điều kiện
này xuất phát từ chính công việc, quy tắc nghề nghiệp của chủ thể.
1.1.3. Các dạng của lỗi vô ý
Như đã trình bày ở trên, lỗi vô ý được hiểu là thái độ tâm lý của người
phạm tội khi lựa chọn và thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do không nhận
thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trong khi có đủ điều kiện
để nhận thức được. Từ đó, BLHS hiện hành đã phân ra làm hai hình thức lỗi vô
ý và khoa học luật hình sự gọi là: Lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
1.1.3.1. Lỗi vô ý vì quá tự tin
Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước
hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng cho rằng
hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
13
- Xem thêm -