Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Những từ có liên hệ với nhau về nghĩa và về lịch sử âm đầu trong tiếng việt...

Tài liệu Những từ có liên hệ với nhau về nghĩa và về lịch sử âm đầu trong tiếng việt

.PDF
158
12
87

Mô tả:

M Ụ C LỤC Trang M Ỏ ĐẦU I - Lịch sử vấn đề _______________________________________________ 1 n - Đối tượng nghiên c ứ u _____ ___________________________________4 m - vấn đề tư liệu ______________________________________________5 IV - Cái mới của luận văn ______________________________________ 8 V - Phương pháp phân tích và trình bày ___________________________ 9 CHƯONG 1 : NHỮNG LIÊN HỆ vể MẶT LỊCH sử CỦA CÁC ÂM ĐẨU TIẾNG VIỆT A. Những vấn đề chung _______________________________________ 11 B. Những liên hệ lịch sử giữa các â m đầu _______________________ 14 c. Tiểu kết chương 1 _________________________________________ 40 CHƯONG 2 : PHÂN TÍCH MỐỈ LIÊN HỆ GIỮA CẮC ÂM ĐẨU TRONG CÁC NHÓM TỪ Đ ư ọ c KHẢO SÁT I - Những quy ước về mặt trình b à y ____________________________ 44 n - Những phân tích cụ thể ____________________________________46 ffl - Tiểu kết chương 2 ________________________________________ 75 CHƯONG 3 : CẮC Kiểu LIÊN HỆ VỂ NGHĨA TRONG CÁC NHÓM TỪ Được KHẢO SÁT A. Biểu vật và nghĩa__________________________________________ 78 B. Phân tích các liên hộ về nghĩa________________________________ 82 I - N h ữ n g từ có chung biểu vật ______________________________ 84 n - N h ữ n g từ có biểu vật Hên hê lôgíc - thực tại vói n h a u _________ 89 m - N h ữ n g từ có biểu vật tương tự n h a u _____________________ 102 c. Tiểu kết chương 3 ________________________________________ 116 CHƯQNG 4 : G iói HẠN BIẾN DỊCH CỦA CÁC MẶT : NGỮ ÂM, NGHĨA VÀ 3IËU VẬT. TƯONG QUAN GIỬA CÁC NHÓM TỪ Đ ư ọ c KHẢO SÁT VÓI TỪ ĐỒNG ÂM, ĐỔNG NGHỈA, TRÁI NGHĨA VÀ PARONYM I - Nhận xét về giới hạn biến dịch của các mặt ngữ âm, nghĩa và biểu vật trong các n h ó m từ _____________________________ n - Tương quan giữa các n h ó m 119 từ được khảo sát v ở i từ đồng ù m , đổng nghĩa và trái nghĩa__________________________________ 129 m - Tương quan giữa các n h ó m .từ được khảo sát với paronym ____ i31 KẾT LUẬN _____________________________________ ____________________________ 135 TÀI LIỆU THAM K H Ả O _______________________________________________________ 138 PHỤ LỤC M Ở ĐẦU I. LịCH 1.1. sử v ẩ n đ ể : Hai thuật ngữ : tổ từ (word family) và từ tương tự (paronym) ít nhiều có liên quan và được nhắc tới trong luận văn này, vốn không có gì xa lạ trong nhiều tài liêu ngôn ngữ học về các ngồn ngữ châu Âu. C ò n đối với các ngôn ngữ cùng loại hình và/ hoặc gdn gũi về khu vực với tiếng Việt, theo những tài liệu m à chúng tôi được biết, thì hiện tượng tương ứng với hai thuật ngữ ấy cũng đã được một số nhà nghiên cứu đề cập từ khá lâu. Chẳng hạn, theo G.B.Downer [69] thì: - N ă m 1933, B.Karlgren đã nghiên cứu "các tổ từ trong tiếng H á n ” và n ă m 1956, ông lại nghiên cứu "những từ cùng gốc trong các chuỗi ngữ â m của tiếng Hán". - Năm 1935, H.Maspero nghiên cứu "các tiền tố và hiện tượng phái sinh trong tiếng H á n cổ". - Y u m i n n ă m 1948 nghiên cứu "sự phái sinh từ trong tiếng H á n cổ bằng cách kết thêm hậu tố - d". Bản thân G.B.Downer, n ă m 1959 nghiên cứu "sự phái sinh bằng cách biến chuyển thanh điệu trong tiếng H á n cổ" [69] còn E.G.-Puleyblank n ă m 1973 [78] tiếp tục cồng bố "một số giải thuyết mới liên quan đến những tổ từ tiếng Hán". N h ữ n g vấn đế tương tự như thế trong tiếng Quảng Đông, Taishan, tiếng Bô bai, tiếng Thái Lan (Xiêm), tiếng M â n thông tục có thể gặp trong các công trình của K amtak H i m n ă m 1977, 1980 [74,75] và Ting Pang hsin n ă m 1984 [82]. Riêng về các ngôn ngữ Mon-Khmer, n ă m 1973, H.Shorto có bài "Ba tổ từ M o n - K h m e r " [79] trong đó có đề cập đến tiếng Việt. M.Ferlus n ă m 1977 trong bài "Tiền tố có ý nghĩa công cụ trong tiếng K h a m o u và dấu vết của nó trong tiếng Việt [70] tuy không nói đến cái gọi là tổ từ, nhưng vấn đề được nghiên cứu lại trực tiếp có liên quan, vì nó ỉà vấn đề phái sinh từ bằng phụ tố. M ặ c dù cách phân tích, biện giải của các nhà nghiên cứu nói trên có chỗ này chỗ khác không giống nhau, nhưng tất thảy đều thừa nhận sự tồn tại của những nhó m từ m à các từ trong đó vừa có liên hệ về nghĩa với nhau, lại vừa có liên hệ, tương tự nhau (chứ khống đồng nhất) về mặt ngữ am. Mặt khác, có một nét chung khá rõ là họ đều cố gắng tìm tòi xác đinh những đối lập ngữ ủ m và những liên hệ về nghĩa tương ứng đều đặn với những đối lập ngữ â m ấy, rồi từ đó phát hiện ra cách phái sinh bằng những con đường biến đổi ngữ â m khác nhau để tạo nên những n h ó m từ có các mối liên hệ vừa nêu bên trên. 1.2. H.L.Shorto trong bài nghiên cứu rất cồng phu "Ba tổ từ M ô n K h m er" đã chọn một cách tiếp cận riêng. Ô n g khảo sát ba n h ó m từ có â m đầu là bán nguyên â m môi và có những nghĩa đại loại như: vòng - đi vòng quanh đặt quanh, quấn quanh - vây quanh - quay/ ngoái lại... M ộ t mặt, ông so sánh các từ có nghĩa như trên đủy của tiếng M ô n với các từ tương ứng của chúng trong các ngôn ngữ: Khmer, Stiêng, Sre Biat, Banhnar (thuộc nhánh M ô n - K h m e r Đông) Palaung, Riangliang, Wa, Khasi (thuộc nhánh M ô n - K h m e r Bắc) ... để phục nguyên dạng gốc của chúng, rồi mặt khác, quan trọng hơn, ông phân tích quá trinh diễn biến của chúng tới hiên tại. (Trong một số trường hợp, tiếng Việt cũng là cứ liệu được dưa ra để đối sánh, phân tích). 1.3. Trong quá trình nghiên cứu tiếng Việt, một ngồn ngữ cùng loại hình và gần gũi về nguồn gốc, khu vực với các ngôn ngữ kể trên, một số nhà nghiên cứu tiếng Việt [19, 23, 24, 26, 27, 31, 47, 82j tuy không nói đến t ổ từ, nhưng với các m ứ c đô nhiều, ít khác nhau, đã nói tới hiện tượng những từ có bộ phận ngữ â m giống nhau m à nghĩa của chúng có những liên hệ với nhau hoặc tương tự như nhau. Về mặt ngữ âm, chúng có thể là: - Những từ đom giống nhau ở â m đầu, như: núp, nấp, nép. m õ m , mỏ, miệng, mép, mổi, m ồ m ... - Những từ đơn giống nhau ở phần vần, như: quăn, xoăn, vằn. ép, kẹp, bẹp, xẹp, dẹp, lép ... - Những từ ỉáy có một hoặc hai vần giông nhau, như: đúng đắn, thẩng thắn, vuông ván, đầy đặn ... bấp bênh, lấp ló, khấp khểnh, thập thò ... nghênh ngang, kềnh càng,thênh thang, khệnh khạng .... Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đề cập những hiện tượng như trên đây đều mới chỉ đưa ra một số rất ít n h ó m từ cụ thể nào đó để phân tích, miêu tả; hoặc chỉ nhân thể nói tới chúng trong khi thảo luận, phân tích về một hoặc một số đặc điểm nào đó của tiếng Việt. Các nhận xét rút ra được từ những n h ó m từ đó thường trực tiếp hoặc gián tiếp nói tới những vấn đề như: a - Động tác cấu â m của nhiều â m đầu và vần tiếng Việt có khả năng biểu thị, miêu tả, phỏng theo hình dáng hoặc phương thức hoạt động của cái m à từ chứa chúng nói đến. Ví dụ : n h ó m từ có vần - en m ô phỏng động tác qua những chỗ hẹp, khó đi: chen, chèn ,chẹn, len, lén, xen,sẻn, nghẽn, nghẹn, ch ẽn , n én ... [24]. b- Bô phận ngữ â m nhỏ hơn â m tiết của tiếng Việt có khả náng man g nghĩa; tức là hình vị của tiếng Việt có thể là đơn vị có kích thước nhỏ hơn â m tiết. Ví dụ, vần - ăn trong các từ như: đ ú n g đ ắ n , vu ô n g vắ n , đ ầ y đ ặ n ... vần - âp trong các từ như: b ấ p b ê n h , tấ p tể n h , lấ p ỉo é , m ậ p m ờ ... có thể được coi là những hình vị. [19,31] c - C ó thể có sự biến â m tạo từ (ví dụ, các từ tră n , rắ n , th ằ n lầ n có thể bắt nguồn từ [tlan] hoặc môt hình thái nào đó na ná như vậy [32] hoặc cấu tạo từ theo lối suy phỏng [23,37]. N ă m 1985, lần đầu tiên, sách "Từ vựng học tiếng Việt" [24] trình bày những hiộn tượng nêu trên với cái nhìn thuần tuý đồng đại, đặt tên là các từ tương tự, xếp chúng bên cạnh từ đồng âm, từ đồng nghĩa, trái nghĩa, với tư cách như một kiểu tổ chức của từ vựng. Tất cả những điều vừa trình bày trên đây hoặc ý tưởng về chúng, ít nhiều đều có trong suy nghĩ của khá nhiều người nghiên cứu tiếng Việt, nhưng tiếc rằng chưa có ai, chưa có công trình nào tập hợp thật nhiều tư liệu để miêu tả, phân tích cho thật kỹ cả cái gọi là tính tương tự, mối liênJiê về mặt ngữ â m lẫn tính tương tư,mối liên hệ về mặt nghĩa. Nói cách khác, đó là hiện tượng cỏ không ít người nhận ra, c ả m thấy,nhưng lạichưa được khảo sát và phân tích để tìm hiểu một cách đầy đủ. II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN cứu. Đ ể góp phần tiếp tục nghiên cứu những n h ó m từ có liên quan đến các hiện tượng như vừa kể trên, chúng tôi tập trung chú ý vào những từ đơn mà: a - C ó phần vần giống nhau. b - Có liên hệ với nhau (được hiểu ỉà tươngtự nhau hoặc cóliên hệ đến nhau) về nghĩa. c- Â m đầu của chúng có liên hệ với nhau về mặt lịch sử. Sở dĩ chúng tồi xác định đối tượng nghiên cứu của mình như vậv là vì m ấ y lý do sau đây: a- Khối tư liệu từ đơn tiết thu được, có số lượng đủ ỉớn, tập trung và đủ tin cậy. b- Những từ ghép có bộ phận ngữ â m giống nhau nhỏ hơn â m tiết không nói lên được điều gì về nghĩa của chúng (ví du, hai từ c ỏ g ả và c á và n g giống nhau ở â m đầu của â m tiết thứ nhất); còn những từ giống nhau ở môt â m tiết thì lại ỉà vấn đề khác: cùng một yếu tố cấu tạo từ (hình tiết) đã được dùng lặp lại trong những lần khác nhau để cùng với những yếu tố khác tạo nẻn những từ khác nhau (Ví dụ: xanh lè, xanh rì, xanh ngắt, xanh mướt, xanh u m ...). 4 c- Những từ láy có một hay hai vần giống nhau thì đã được một số nhà nghiên cứu phân tích dưới những gốc đô tương đối đa dạng; còn từ cách nhìn của chúng tôi, không ít hiên tượng trong đó sẽ có thể giải thích được sau khi những vấn đề hữu quan đã được làm sáng tỏ trong khu vực từ đơn. Chảng hạn, sự tương tự về â m và nghĩa giữa những từ như n ghênh n g a n g , kền h cà n g , kh ện h k h ạ n g ... sẽ có thể được giải thích bằng sự giống nhau ở cặp vần - ềnh a n g và các â m đầu của chúng N G - K - K H có liên hệ với nhau trong quá khứ lịch sử. d- N h ữ n g liên hệ về mặt lịch sử của các ủ m đầu trong các n h ó m từ được khảo sát, theo cách nhìn của chúng tôi, là lý do quan trọng và là cơ sở cho việc tạo nên chính các n h ó m từ đó. e- Những từ có liên hệ với nhau về nghĩa, có â m đẩu giống nhau, m à phần vần của chúng có ỉiên hệ lịch sử với nhau như ni - này, mi - mày, chí chấy, đường - đàng, nước - nác ... có số lượng không nhiều lắm, m ặ c dù hoàn toàn có thể và cần chia ra thành một kiểu, ngang bằng về mặt phân loại với những từ m à chúng tồi đề cập ở đây để x e m xét; nhưng vi chưa đủ điều kiên, và để cho vấn đề được tập trung, chúng tôi tạm thời chưa nghiên cứu. III. VẨN ĐỂ TƯ LIỆU m . 1. Tiêu chí tập hợp N ế u phân chia toàn bộ từ vựng tiếng Việt theo hơn 20 â m đầu và/hoặc ĩrên dưới 160 vần thì sẽ có thể tập hợp được rất nhiều n h ó m vừa có một bộ phận ngữ â m giống nhau, lại vừa có những nét tương tự nhau về nghĩa, nhưng cách phân chia, tập hợp như vậy không thể nào tránh được những ngẫu nhiên và gán ghép chủ quan. Vì vậy, việc đưa ra những tiêu chí để xác định đối tượng, thu thập cá c n h ó m tò, là rất cần thiết. L a . T iêu c h í về n g ữ â m . Trong các từ đơn tiết, mỗi từ sẽ có thể có tối đa là n ă m thành tố ngữ âm: â m đầu, â m đệm, â m chính, â m cuối và thanh điệu, n ằ m trong kết cấu hai bậc g ồ m ba thành tố trực tiếp: â m đầu, phần vần và thanh điêu [59]. 5 N ế u sự tương tự nhau về ngữ â m ở đây được hiểu là có một hoặc một số bộ phận, thành tố câu tạo nên â m tiết giống nhau (trùng nhau); và nếu hai từ đơn - â m tiết có đầy đủ cả 5 thành tố thì chúng sẽ có tối đa 30 khả năng (dạng) tương tự nhau (tính theo công thức 2n-l, trừ đi thêm một khả năng dạng trùng nhau hoàn toàn). Nếu so sánh hai từ đơn - â m tiết theo ba thành tố trực tiếp: â m đầu, vần, thanh điộu, thì chủng sẽ có 6 dạng tương tự nhau. Tuy nhiên, 30 khả năng hay 6 khả năng, là những con số tính toán được trên lý thuyết. Chúng tồi, với những lý do như điểm n về đối tượng nghiên cứu, đã trình bày: chỉ khảo sát một khả năng là những từ đơn giống nhau ở phần vần; và p h ạ m vì còn được thu hẹp hon nữa: những tò đơn có phần vần giống nhau m à â m đdu của chúng lại có liên hệ về mặt lịch sử với nhau, sở đĩ như vậy là vì ngoài những lý do đã nêu trong điểm n bên trên, còn vì tình trạng tư liệu và những kết quả nghiên cứu hiện có vẫn chưa cho phép tìm ra lý do thật sáng tỏ để phân tích và giải thích cho các khả năng khác. I .b . T iêu c h í v ề n gh ĩa. Cách nói "có nét giống nhau/ gần nhau/ tương tự nhau ... về nghĩa", thục ra, không hoàn toàn chặt chẽ và rất dễ dẫn tới sự gán ghép chủ quan. Vì vậy, để có căn cứ xác định những nét giống nhau/ gần nhau/ tương tự nhau hoặc liên quan đến nhau về nghĩa giữa những từ được đưa ra phân tích, so sánh, chúng tôi dựa trước hết vào định nghĩa của chúng trong các từ điển. Xuất phát từ quan niệm coi nghĩa của từ là cái có thể phàn tích ra được những thành tố nhỏ hon, tối thiểu, cần yếu (nhừng nét nghĩa), đổng thời, nghĩa của từ là một tập hợp, một bộ những nét nghĩa cần yếu đó, chúng tồi coi hai từ là có nghĩa tương tự nhau khi chúng có ít nhất một nét nghĩa p h ạ m trù và một nét nghĩa cụ thể (xem chương 3) giống nhau. Tuy vậy, các n h ó m từ được khao sát ở đủy sẽ được gọi chung là có liên hệ với nhau về nghĩa (mặc dù cách gọi này cũng không thật chặt chẽ) chứ không nói là (từ) gần nghĩa, bởi vì, như trong chương 3 sẽ phân tích, chúng có thể : - C ó những liên hệ logic - thực tại với nhau (ví dụ: thắt - chặt, dựng đứng, xô - đổ, kẹp - nẹp ...) - C ó những liên hệ tương đồng/ tương tự với các m ứ c độ khác nhau như: leo -trèo, dơ- nhơ, bong - long, lầm - n h ầ m ... m .2 . Các bước tập hợp và xử lý tư liệu N h ữ n g từ đơn được chúng tôi tập hợp phải luôn luôn thoả m ã n đồng thòi hai tiêu chí về ngữ â m và nghĩa nêu trên. Chúng được thu thập chủ yếu dựa vào T ừ điển tiếng Việt xuất bản n ă m 1992 tại H à Nôi, là từ điển thuộc loại mới nhất; đồng thời, trong những trường hợp cần thiết, cán bổ sung thi chúng tôi cũng dựa vào các từ điển khác nữa, cùng với những tư liệu tiếng địa phương m à bản thân đã có dịp sưu tầm. Các bước làm việc ở đây được thực hiện như sau. ỉ . Tập hợp tất cả những từ đơn có phần vần giống nhau (bất kể thanh điệu); đồng thời nghĩa của chúng, theo c ả m nhận chủ quan là có liên hệ với nhau; nhưng â m đẩu của chúng phải khác nhau. 2. N h ữ n g từ nào đã qua bước 1 m à â m đầu của chúng xác định ngay được là có liên hệ lịch sử với nhau, hoặc những từ m à â m đẩu của chúng thể hiộn môt tương ứng ỉặp lại từ hai lần trở lên (trong 2 hoặc hơn 2 n h ó m từ) dù chưa biết chắc chúng có liên hệ lịch sử với nhau hay không, đều được rhu thập. (Ví dụ, tương ứng B - M được thể hiên trong nhiều ngôn từ, nên n h ó m nào có tương ứng này cũng đều được thu nhận. X e m 13 n h ó m từ đầu tiên và n h ó m số 15 trong danh sách). Sau đó chúng tôi rà xét lại toàn bộ để chỉ lựa chọn những n h ó m từ m à â m đầu của các từ trong từng n h ó m ấy có liên hệ lịch sử với nhau. 3 . Thông qua (các) từ điển (có thể có những phân tích, hiệu chỉnh, nếu cần thiết) đối chiếu nghĩa của các từ trong các n h ó m đã tập hợp được sau hai bước bên trẽn để kiểm nghiệm, xác định nghĩa của chúng có liẽn hệ với nhau thật hay không. Bước này thật ra là được thực hiện song song với bước thứ hai để thanh lọc bớt những tư liêu không thoả m ã n hai điều kiện (tiêu chí) đã xác đinh. D a n h sách các từ điển chúng tôi sử dụng bao gồm: 7 TĐ1. T ừ điển V iệ t - B ồ đ à o n h a - L a tỉn h , của A-de-Rhođes. Roma, 1651 Bản dịch của nhà xuất bản Khoa học xã hôi. H à Nôi, 1991. TĐ2. D ic tio n a riu m A n a m ilic o L a tin u m , của Pignau de Behain. TĐ3. Đ ạ i nam q u ấ c â m tự vị, của Hùinh Tịnh Paulus của Sài G ò n 1895. TĐ4. T ừ đ iển V iệ t - P h á p của J.F.M.Genibrel - Sài Gòn, 1898 TĐ5. V iệ t N a m tự đ iể n của Hội khai trí tiến đức. H à Nội 1931. TĐ6. D ic tỉo n a ir e A n n a m ite - C h in o is - F ra n c, cais của G.Hue. 1937. TĐ7. V iệ t N a m tự đ iể n của Thanh Nghị. Sài Gòn, 1958. TĐ8. V iệ t N a m tự đ iể n của Lê Văn Đức. Sài Gòn. 1970. TĐ9. T ừ điển tiế n g V iệ t của Văn Tân (chủ biên) - H à Nội, 1967. TĐ10. T ừ đ iển tiế n g V iệ t của Viện Ngôn ngữ học - u ỷ ban khoa học xã hội, (Hoàng Phê chủ biên). H à Nội, 1992. (Kể từ đây, để viộc trình bày được ngắn gọn, chúng tôi không nhắc lại tên các từ điển nữa, m à dùng các kí hiệu viết tắt TOI, T Đ 2 ...). Sau các bước làm việc kể trên, chúng tôi thu thập được 1335 từ khác nhau, tập hợp trong 602 n h ó m (xem phụ lục) và gọi chúng là "những n h ó m từ có liên hệ với nhau về nghía và lịch sử â m đầu." Trong số 602 n h ó m này, n h ó m có nhiều từ nhất ỉà 7 từ, n h ó m có ít từ nhất là 2 từ. Số n h ó m 2 từ chiếm tỷ lệ rất cao: 499 so với 602. Số lượng các n h ó m từ m à chúng tôi thu thập được chắc chưa phải là tuyêt đối đây đủ. Nếu so sánh tìm tòi trong nhiều từ điển và nhiều tiếng địa phương hơn nữa, thì con số nêu trên có thể còn gia tăng ít nhiều; nhưng dù sao thì đó cũng là khối tư liêu đủ sức phản ánh các khía cạnh của vấn đề. IV. CÁI MỚI CỦA LUẬN VĂN. Trên cơ sở nghiên cứu sâu hơn một p h ạ m vi đối tượng như vậy, cái mới m à công việc của chúng tôi đạt được là: ỉ . Việc khảo sát, phân tích và miêu tả được tiến hành với một khối tư liệu thu thập đầy đủ và tập trung hơn. 2. Rút ra được một số nhận xét có tính chất kết luận về những vân để như: a- Thực chất của những n h ó m từ có liên hê với nhau về nghĩa và lịch sử â m đầu trong tiếng Viột là gì? b- Lý do nào đã dẫn đến sự hình thành nên các n h ó m từ đó? c- Các liên hệ cụ thể về nghĩa trong các n h ó m từ ấy như thế nào? d- So với các n h ó m từ đồng âm, đồng nghĩa, thỉ những n h ó m từ được để cập ở đây là cái gì và chúng như thế nào? e- So sánh với cái gọi là các tổ từ (word family) và /hoặc các từ tương tự (paronym) trong các ngôn ngữ khác và khái niệm về chúng trong các sách ngôn ngữ học thì các n h ó m từ được nghiên cứu ở đây có gì giống và khác nhau? Những nhận xét, kết luận về các vân đề đó sẽ góp phán soi sáng thêm cho những đặc điểm cả về mặt loại hình lản vị trí khu vực của tiếng Việt trên cả hai bình diện thực tiễn và lý luận. V. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH VÀ TRÌNH BÀY Trong luận văn này, chúng tồi luồn luôn đi từ thực tế tư liệu để so sánh, miêu tả, sau đó là phân tích rồi mới nhận xét và kết luận chứ không xuất phát từ một m ô hình phân tích có sẵn hay một chủ kiến từ trước. C ó nghĩa là chúng tôi đi bằng con đường qui nạp để tới các nhận xét và kết luận. D o đó, cơ cấu của luận văn g ồ m có: phần m ở đầu, bốn chương phân tích miêu tả, lời kết luận và một phụ lục ghi danh sách các n h ó m từ được kháo sát; cuối cùng là danh m ụ c sách báo tham khảo. Trong chương 1, chúng tôi trình bày những vấn đề về mối liên hộ lịch sử giữa các â m đầu tiếng Việt. Trong chương 2, dựa trên những điều đã nói ở chương 1, chúng tôi đi vào miêu tả, phân tích và giải thích mối liên hệ giữa các â m đầu của các từ trong các n h ó m được tập hợp, khảo sất. Trong chương 3, chúng tôi phàn tích các kiểu liên hệ vể nghĩa trong các n h ó m từ. Chương 4, chúng tôi thảo luận, đánh giá về giới hạn biến chuyển của các thành phần ngữ âm, nghĩa và biểu vật trong các n h ó m từ. Thật ra, nếu căn cứ vào nội dung thì có thể nói 4 chương ấy thuộc 2 phần, một phần giành cho các vấn đề về ngữ â m (chương 1,2) và một phần giành cho các vấn để về nghĩa (chương 3,4). Việc phân chia thành 4 chương với số trang không đồng đều nhau lắm, có thể gây ấn tượng thiếu cân đối; nhưng do dung lượng của từng loại ván đề cũng như các khả năng phùn tách, chúng tôi thể hiện mỗi phần trong hai chương; và điều này cũng không anh hưởng gì đến logic của việc trình bày. Đối với việc • thể hiện • các â m đầu,' để tiện • cho viêc « theo dõi và cả vièc « đánh máy, chúng tôi chủ yếu dùng con chữ in hoa như trong chính tả hiện nay; chỉ trong một số trường hợp thật cẩn thiết, khi con chữ quốc ngữ khỏng thể hiện được â m đầu đố, hoặc có thể gây hiểu lầm thì chúng tôi mới dùng ký hiệu phiên â m đặt trong dấu ngoặc vuông [ ]. Kí hiệu đặt trong dấu ngoặc đơn để chỉ: nó có thể cỏ hoặc không. Ví dụ A (b) cd. Dấu gạch chéo để phân cách có nghĩa như từ "Hoặc V í d ụ : A vàB/C. Con số đặt trong dấu ngoặc vuông ứng với số thứ tự của tài liệu trong danh m ụ c tài liệu tham khảo. Ví dụ [99]. (biến đổi, biến chuyển) thành. (biến đổi, biến chuyển) từ. 10 C h ư ơ n sỉ NHỮNG UÊN HỆ VỂ MẶT LỊCH s ử CỦA CÁC ÃM ĐẨU TIẾNG VIỆT A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I. H ê thống ngữ â m tiếng Việt nói chung, các â m đầu nói riêng, vốn có lịch sử của chúng. Trong quá trình phát triển để dăn tới một hệ thống như hiện nay, nhiều biến đổi, nhiều mối liên hệ giữa các â m đã diễn ra. Vì vậy, m u ố n biết hai hoặc hơn hai â m hiện nay có liên hệ gì với nhau trong quá khứ hay không, chúng tôi buộc phải tìm lại diện m a ọ của chúng trên những con đường phát triển ấy. Đ ể làm công việc này, chúng tồi phái lựa chọn một trong hai cách đi sau đây. 1. Cách thứ nhất, xuất phát từ quá khứ đi tới hiện tại. Nếu theo cách này thì chúng tôi sẽ phải dưa vào một hô thống â m đáu đã được phue nguvên sẵn, rồi b á m theo lịch trình diẻn biến của chủng từ niên đại được phục nguvồn đến nay để x e m có những biến đổi gì đã xảy ra, và những biến đổi ấv đã đưa đến những mối liẽn hệ, tương ứng như thế nào. Cách đi này thực tế sẽ khiến chúng tôi có lý do để phái trinh bày lại diễn biến lịch sử của các â m đầu tiếng Viêt hiện đại một cách đầv đủ theo hệ thống; nhưng đó không phải là m ụ c đích chính của luận văn. Chúng tôi tuy phải theo dõi, tìm hiểu các quá trình diễn biến, các mối liên hệ lịch sử của các â m đầu hiện đại, lấy đó làm cơ sơ áp dụng vào phùn tích giải thích tư liêu của mình, nhưng chỉ đề cập những quá trình diẻn hiến, những liên hệ lịch sử nào trực tiếp liên quan và thiết yếu cho vấn đề cán giái quyết chứ không nhất thiết phải là toàn bộ quá trình diễn biến lịch sử của các â m đầu được thể hiện một cách chi tiết trong một hệ thống cân đối, trọn vẹn. 11 2. Cách thứ hai, xuất phát từ các â m đầu hiện đại, quay ngược trơ lại quá khứ của chúng. Nếu theo cách này, chúng tôi sẽ lùi dần vào quá khứ lịch sử để tìm hiểu x e m mỗi a m đầu hiện nay, trước đây từng có / hoặc cỏ thế có các mối liên hệ lịch sử với (những ) â m đầu nào. L à m như thế, việc trình bày các mối liên hệ lịch sử của mỗi â m đầu với các â m đầu khác nếu có, sẽ được thể hiện, được đề cập một cách tập trung hơn, dễ hình dung hơn. Trong khi đó, nếu theo cách thứ nhất thì vấn đề sẽ được trình bày theo hê thống của các quy luật biến đổi ngữ â m lịch sử hoặc theo từng dãy â m đầu, sẽ gọn gàng hơn cho từng nhóm, từng dấy â m đầu â m đầu đó, nhung lại không tập trung được các mối liên hệ lịch sử của mỗi â m đầu vào một chỗ, nên ít nhiều, chúng ta khó hình dung hơn. Ví dụ, về à m đầu B, từ hiện tại, chúng tồi đi vào quá khứ của nó và tìm hiểu: - Trước đay từng có cái gì có thể là nguồn gốc của nó. - Cảe quá trình diễn biến để dẫn đến B hiện nay có còn cho (nhữníỉ) kết quá gì nữa hay không. - C ó xu hướng, quy luật hoặc hiện tượng biến đổi nào đan xen vào quá trinh lịch sử của B nữa hay không; và nếu có thì dẫn đến hệ quá gì. (Việc tìm hiểu những hiện tượng, những quy luật và xu hướng biến đổi đan xen vào nhau, dát díu và lôi kéo ỉẫn nhau như thế, nhiều khi mới giúp ta hiểu được nhũng mối liên hệ giữa những â m đầu m à hiện nay cách nhìn thuần tuý đổng đại rất khó nhận ra). Khi làm như trên đây, các liên hệ lịch sử của B với những â m đầu khác nào đó sẽ được lần giở ra và trình bày một cách tập trung hơn đế chúng ta cỏ được cái nhìn đầy đủ, rõ ràng hơn. n. Ván đề lịch sử các â m đầu nói riêng, cũng như lịch sử ngữ à m tiếng Việt nói chung, thực tế trước nay đã được một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm miêu tả và phân tích từ khá nhiều khía cạnh, nhiều m ứ c 12 độ khác nhau [2, 3, 4, 8, 9, 10, 11, 12, 16, 17, 18, 22, 25, 36, 40, 41, 42, 43, 45, 46, 49, 51, 52, 53, 60, 61, 72]. ở đây, chúng tôi được thừa hưởng những kết quả nghiên cứu ấy. Tuy nhiên, được thừa hưởng các kết quả nghiên cứu của người đi trước, không có nghĩa rằng chúng tôi chỉ việc sao chép lại là xong. Trừ một số ít cổng trình nghiẽn cứu trình bày (với những.-góc độ và quy m ô khác nhau) vể hệ thống â m đầu tiếng Việt trong lịch sử, đa số còn lại của phần nhiều các nhà nghiẽn cứu m à chúng tôi đã được tiếp thu đểu là kết quả khảo sát về những sự kiện, những xu hướng, quy luật cụ thể vào đó chứ không phải là toàn bộ hô thống. Vì thế, việc chúng tôi phải làm là tìm tòi, tập hợp, chọn lọc và sắp xếp những kết quá, những nhận xét ây theo cách sao cho có thể sử dụng được hữu hiệu và hợp lý khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Đôi khi, từ những nhận xét, gợi ý của các nhà nghiên cứu ấy, chúng tổi cỏ thể đưa thêm cứ liệu để chứng minh cho rõ ràng hơn. N h ư vậy, ở đây, việc phân tích, trình bày những mối liên hệ lịch sử của các â m đẩu là xuất phát từ m ụ c đích và vì m ụ c đích nghiên cứu của chúng tôi chứ khồng phải vì m ụ c đích trình bày một cách thật hệ thống toàn bộ những liên hệ lịch sử và các quy luật, xu hướng biến đổi trong quá khứ của các à m đầu đó. IIĨ. Các â m đầu hiện nay của tiếng Việt (nếu kể Cil â m tắc thanh hđu vì có những người khổng thừa nhận â m này) g ồ m 21 â m vị được thể hiện trên chữ viết và một â m không được thể hiện (lìm tắc thanh háu, ký hiệu [?]). Dưới đây, chúng tôi sẽ đề cập tới chúng lần lượt theo vị trí câu à m từ mòi đến đầu lưỡi, mặt lưỡi, gốc lưỡi và thanh hầu. Tuy nhiên, như trên đã nói, chúng tồi sẽ không trình bàv các liên hệ lịch sử của các â m đầu thông qua việc phàn tích sự biến đổi lịch sử của tìmu n h ó m âm, dãy â m hay từng xu hướng, quy luật biến đổi; m à trình bày sao cho thây được: â m này có và / hoặc có thể có liên hê lịch sử với (những ) â m nào. 13 Vì vậy dưới đây 12 m ụ c với 12 â m đầu được nêu ỉên làm tiêu đề sẽ lần lượt được trình bày theo thứ tự vị trí cấu â m của chúng từ môi đến thanh hầu: 1. Các â m môi : B, M, V 2. Các â m đầu lưỡi :T, N, s, L, Gi 3. Các â m mặt lưỡi : CH, N H 4. Â m gốc lưỡi :K 5. Â m thanh hầu :H M ư ờ i hai â m đầu được nêu lên làm tiêu đề cho 12 m ụ c ấy, chúng tôi hình dung như những điểm nút để từ đó lần giơ ra mạng lưới những liên hệ có được trong toàn hệ thống, sở dĩ chúng tôi lấy 12 à m đầu để làm 12 điểm nút như thế là vì hai lý do sau đây: T hứ nhất, trong khi tới một â m A (đượcchọn làmtiêu mục) liên hệ với một â m B nào đố, thì sau đây khổng cần phái nêu nào đó có â m B lênlàm tiêu m ụ c để trình bày rằng nó có liên hệ với à m A nữa. T h ứ hai, từ 12 A m đầu - điểm nút này, chúng tôi (lã lần ra được các môi liên hệ giữa chúng với nhau và giữa chúng với các â m đầu khác còn lại: và như thế là đủ, không cần phải trình bày thêm các â m đầu khác làm điểm nút cho đủ mặt toàn bộ hệ thống, vì như thế là sẽ chỉ lặp lại những điều đã nói trong 12 m ụ c đã trình bày. B. NHỮNG LIÊN HỆ LỊCH sử GIỮA CÁC ÂM ĐẦU 1.Ả M ĐẦU B íhl Đ â y là â m môi, tắc, hữu thanh. Trongtiếng TiềnViệt M ư ờ n g M ư ờ n g chung 1 vốn có một và Việt â m B nguyênthuỷ; và rồimột số â m nguổn gốc khác cũng biến đổi để cho B rồi trùng nhập vào đó. 1 Tên gọi Tiền Việt Mường và Việt Mường chung ở dây dược hiểu, như sau : Tiếng Tién Việt Mường ( GJSffloth gọi là Proto Vietic; cách nay khoảng 2500 năm) bào gổm (cũng ngụ ý là : VỂ sau chia tách ra) tiêng Chứt - Poọng chung và Việt Mường chung (tổn tại trong khoảng thời gian tư 14 l.a. D o tác động của M ư ờ n g chung đã chuyển xu hướng hữu thanh hoá, p trong tiếng Việr thànhB. Tương ứng B Việt - p Mường, Tha vung, Rục, Sách hiện nay [71,77,94] cho thấy rõ điều đó. Việt : bánh - M.Khến: psrỊ - Việt : bánh - M.Khến: păl - Việt : ba- Sách: pa - Việt : bắn - Rục: per) Rục: pổl - Nguồn: pan Rục - pa - Thavung: paa Rục: pin - Tha vung: pip/ pi^ Ta cũng biết rằng: 1.p có thể bật hơi và xát hoá để chuyến thành â m được ghi hằng P H ngày ngay m à T Đ 1 miêu tả là â m tắc, môi - môi, bật hơi. 2. Sách "An n a m dịch ngữ" [41, 66] cho thấy [p'] của tiếng Việt thời đỏ từng được phiên chuyển bằng [p'] và [f] của tiếng Hán. 3. Tổ hợp phụ â m P L (Từ điển l,tr.8) một mặt có thể hoà nhập với B L (Từ điển 1) rồi biến đổi theo con đường của BL; mặt khác nó lại cỏ thể rụng â m lỏng L còn lại p, rồi p ấy bật hơi, xát hoá theo xu hướng xát hoá chung, biến chuyển thành P H ngày nay. 4. C ứ liệu phương ngữ cũng cung cáp nhiều cặp từ có B - P H song song như: bỏng -phỏng, banh - phanh, bồng -phồng... 5. C h ữ n ô m dùng P H để ghi â m B trong hàng loạt trưởng hợp [1.3,4. 25, 51]. Ví dụ P H Ụ N G - bụng, bóng; PHONÍ Ì- bông... 6. Trong cách đọc Hán Việt, P H Hán Việt vốn xuất thân từ [p'] do thanh m ẫ u Phi [f] Phu [f] Phụng [v] nhập làm một với thanh m ẫ u Bàng [p1]. (xem 2 tr 177-181). thế kỷ V đến X). Tiếng chứt - Poọng chung bao gổm nhóm Chửt và nhóm Poọng, Nhóm Chứt bau gổm tiếng Arem, Rục, Sách... ngày nay. Nhóm Poọng gôm tiếng Poọng ngày nay. cỏn tiếng Việt Mường chung ( theo cách gọi của Nguyẽn Tài cản và M.Ferlus) bao gồm tiếng Việt và tiếng Mường ngày nay, [xem 4 , 15, 20, 94] 15 N h ư vậy, rõ ràng là B và P H của tiếng Việt có liên hệ lịch sử với nhau. l.b. Â m [p] xát môi - mồi trong tiếng Việt M ư ờ n g chung biến đổi thành B trong tiếng M ư ờ n g và V (âm môi - răng) trong tiếng Việt theo quy luật xát hoá (có qua dạng trung gian |£] ;điều này được ghi trong TĐi). K iểm tra vần B của TĐi, chúng tỏi thấy có 19 từ (trong 23 lượt từ) được ghi B m à nay phát â m với V: bó - vó, bớp - vấp, bích - vích... Dạng trung gian Eb] thì hiện nay có từ được phát â m với V như : va i, v ẫ y , vú ... có từ được phát â m với B như : b ấ m , b â u , bĩu... Tới cuối thế kỷ XIX, T Đ 2 vẫn còn ghi nhận mồt số từ ngày nay phát â m V như v ịn , vu a, v ậ t vạ ... là B: b ịn , b u a , b ậ t bạ ... M ặt khác, quá trình xát hoá các phụ â m tắc giữa [22] làm cho một số [- pj biến chuyển thành [v] trong khi những [p] không ở vị trí giữa từ (đầu â m tiết chính, sau â m tiết phụ) không chịu ảnh hưởng của quá trình này thỉ biến chuyển thành [b] N h ữ n g điều trên đây đểu phản ánh mối liên hệ lịch sử của B với V. l.c. Trong tiếng Tiển Viột M ư ờ n g và Việt M ư ờ n g chung có â m tiền mũi [*mb] nay đã biến đổi thành M trong Việt và B trong Mường, Ruc [xem 15,22,52, 53, 94]. Ví dụ. Việt : muối m ăng may... Mường : bói băg băl... Việt mâm mất R ục bAra băt TĐi ghi một mổ boh m u ố i ... buón số cặp đồi như m ồ d in - b ồ n h in , m ồ 1 m ù i d ù i - m à i n h ủ i - b ù i d ù i (nay còn dạng b ù i n h ù i). N ga y bây giờ, trong tiếng Việt hiện vẫn đang còn những đôi từ như : m u ố n - b u ồ n , m ồ h ô i - b ồ h ô i, m ồ hóng - b ồ h ó n g , m ù n h ìn - bù nhìn. N h ữ n g 16 dẫn chứng như thế chứng tỏ sự tồn tại của [*mb] trước đây và sự biến đổi của nó đã đưa đến một số trường hợp m à â m đầu M và B có liên hệ lịch sử với nhau. l.d. trong lịch sử ngữ â m tiếng Việt từng có tổ hợp phụ â m B L cùng với những tổ hợp khác như PL, TL, KL, ML.(xem:TĐi và [4,11,46,94]). Riêng B L trong T O I có 97 m ụ c từ ghi với tổ hợp này. C ứ liệu chữ n ô m cũng khẳng định sự tồn tại của nó: B L Ă N G (trăng) = BA + LĂNG... [1, 3, 36, 51] Sau thế kỷ xvn, ở Bắc Trung bộ và N a m bộ, B L chuyên thành T R còn ở Bác bộ thi về căn bản, nó chuyển thành Gi (tròi - giời, trồng - giồng...) Riêng T R lại có thể: - Biến chuyên sang CH. (ví dụ, T O I ghi blue thì nay là Chúc; trong phương ngữ Bắc, TRE — > CHE, TRjANH —> CHANH...) - Liên hệ với s . (ví dụ, cứ liệu phương ngữ cho thấy những cặp đôi như: g à tr ố n g - g à số n g , c á i Irẹo - c á i sẹ o , co n tr á o - co n s á o còn chữ n ồ m thì có khá nhiều chữ có thể đọc với â m đầu T R / S). Cuối cùng s lại có thể chuyển sang hội nhập với X. (ví dụ: sâu - xâu, sáu - xáu, sang - xang...) Q u á trình B L -> T R -» s rồi s -> X có thể được thấy rõ hơn nếu ta so sánh cách ghi b lả tă o c , tă o c b lả b lư ợ c... trong T Đ 1 với cách nói tương ứng x ã tó c , tó c x ã / x o ã x ư ợ ỉ ... ngày nay. M ộ t lối biến đổi khác nữa là B L rụng B để lại L hoặc rụng L để lại B } Chính trong T Đ 1 cũng đã ghi những kết quá biến đổi như thế: b ló c , b là i và b ó c , là i. Còn những trường hợp m à T Đ 1 ghi với B L như: blet; b lạ p b lẩ o ; b ỉậ t... thì nay đã biến đổi thành b ệ t, tr ệ t, p h ệ t; b ậ p b ồ n g ; b ậ t, lậ t, trậ t... H.Maspero [46] dự kiến các khả năng biến đổi của tổ các hợp như BL, TL, KL, PL, ML... c ố _____ thể là fvMHÇ..' ~ • ÇH a. Hòa đúc thành một âm mớ i : TL -» TR TRMtíi b. Rụng yếu tố đầu, để lại yếu tố sau : TL -> L c. Rụng yếu tố sau, để lại yếu tố đầu : TL - » T d. Âm tiết hóa, cho 2 âm tiết, mỗi âm tiết giữ một yếu tố trong tổ hợp. e. Hai, ba tổ hợp có thể trùng nhập vào làm một và tiếp tục biến đổi. Chính khả năng này cho ta ohiều kết quả có liên hệ với nhau vô cùng phức tạp. Xem thêm [8] 17 N h ư vậy, những trường hợp m à B dẫn xuất từ B L chắc chắn phái có liên hệ hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp với các kết quả khác trong quá trinh biến đổi ấy: TR, CH, s, X, L, Gi. I.e. Các tổ hợp phụ â m BL, PL, TL, KL, M L trong quá trình biến đổi của chúng đã không chỉ đi trên những con đường tách biệt, m à có trùng nhập, đan xen, lôi kéo lẫn nhau [17, 18, 94]. Kết quả là một số trong các dẫn xuất của BL, và như sau đây sẽ dần dần trình bày, của PL, TL, KL, M L , có thể cùng xuất hiện trong những chuỗi từ m à nhìn bề ngoài, tưởng như chúng chảng dính dáng gì đến nhau. Ví dụ, T Đ 3 cố ghi cặp đôi , bù lem - tèm lem; T Đ 1 ghi dạng b lo n n g ó t thì về sau biến chuyển thành to n n g ó t (TĐ3); còn ngày nay, ta có thể thấy qua T Đ 10 những cặp như b u ộ t - lu ậ t, b ố c - tố c y ịr á c h ) bư ớ p - (r á c h ) tư ớp, tè m n h èm - lèm nhèm - kèm n h èm , b u n g - lu n g ... Những dẫn chứng này cho thấy sự đan xen vào nhau trong quá trinh biến đổi của các tổ hợp phụ â m là thực tế; và ta có thể nói rằng (trước hết, ử đây): một s ố â m đầu B có liên hệ với một số â m đầu T đo quá trinh hỗn nhập và biến đổi của các tổ hợp phụ â m có chứa B,T. Tất nhiên, đó là liên hệ gián tiếp. Trong một số từ Hán Việt chúng ta cũng có thể gặp B và T liên hệ với nhau. Cách đọc Hán Việt có TỲ {tỷ số . tỷ thí) nhưng cũng có BÌ {p h à n bi. so b ì) c ó TIỆN nhưng cũng có BÈN; còn chữ n ô m thì dùng TIỆN (Hán Việt) đế ahĩ â m b ề n hoặc b iề n (nổm) (‘). Điều này chứng tỏ rằng liên hệ B - T Ịthổng phái là hoàn toàn kv lạ đối với tiếng Việt. 2. ẢM ĐẨU M [mi Trong hệ thống ă m đầu Tiền Việt M ư ờ n g và Việt M ư ờ n g chung [94] đã có â m này. Đ ó là một â m mồi, tắc, vang, hữu thanh, cùng dãy với loạt â m mũi N H , N G, N. (' ). Liên hệ íy trong các từ Hán Việt dược giải thích như sau [2] : T Hán Việt hất nguồn từ thanh mẫu TINH, TÙNG, TÂM. TÀ; nhưng cõng có một số ít bắt nguồn từ thanh màu BANíỉ. BÀNíi. TỊNH, (vốn là âm môi). Tuy nhiên, chỉ khi nào BANG, BÀNOi. TỊNH dứng trước giới ủm [i] (tam giáp A) dài hơn, mạnh hơn, hướng về phía trước hơn và không tròn môi thi mới cho T Hán Viột. Trong trường hợp như vậy [p] - thanh máu B/iNCỈ, [b] - thanh mâu TỊNH phải biến thành [pj]và [bjj; rổi sau khi hợp nhất và vồ thanh hóa. biến thành [ps]; cuối cùng [ps] hợp nhất với [sị; rư [s] biến sang [t]. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan