Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng...

Tài liệu Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng

.PDF
98
7
73

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO ĐĂNG VINH NHỮNG QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU Chương 1: 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NHỮNG QUY 8 ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1. Tổng quan về hoạt động của tổ chức tín dụng 8 1.1.1. Khái niệm và phân loại tổ chức tín dụng 8 1.1.2. Hoạt động của tổ chức tín dụng 10 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn 10 1.1.2.2. Hoạt động cấp tín dụng 11 1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ 12 1.1.2.4. Các hoạt động kinh doanh khác 13 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng 13 1.2.1. Xuất phát từ vai trò quan trọng của các tổ chức tín dụng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia 14 1.2.2. Xuất phát từ tính chất rủi ro cao trong hoạt động của các tổ chức tín dụng 16 1.2.3. Xuất phát từ sự ảnh hưởng của việc phá sản tổ chức tín dụng đối với hệ thống tài chính quốc gia 18 1.2.4. Xuất phát từ tính chất đặc thù trong nghiệp vụ thanh toán của các tổ chức tín dụng 20 1.2.5. Xuất phát từ tính chất đặc thù về chủ nợ và con nợ trong hoạt động của tổ chức tín dụng 22 1.2.6. Xuất phát từ sự chi phối lớn của Nhà nước đối với hoạt động của tổ chức tín dụng 23 1.3. Tổng quan pháp luật các nước trong việc xử lý tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 24 1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước trong việc xử lý tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 24 1.3.1.1. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tin dụng của Hoa Kỳ 24 1.3.1.2. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tin dụng của Cộng hòa Liên bang Nga 27 1.3.1.3. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng hòa Pháp 29 1.3.1.4. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng hòa Armenia 30 1.3.1.5. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng hòa Estonia 32 1.3.1.6. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng hòa Latvia 33 Một vài nhận định rút ra từ việc nghiên cứu pháp luật các nước về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 34 1.3.2.1. Cơ sở pháp luật điều chỉnh đối với việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng là không giống nhau 34 1.3.2.2. Tính chất của thủ tục giải quyết phá sản tổ chức tín dụng ở các quốc gia là khác nhau 35 1.3.2.3. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng được quy định một cách chặt chẽ so với các loại hình kinh doanh khác, đồng thời thừa nhận quyền của Ngân hàng Trung ương và tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng 36 1.3.2. 1.3.2.4. Vai trò can thiệp, hỗ trợ mạnh mẽ của cơ quan quản lý hoạt động tổ chức tín dụng và tổ chức bảo hiểm tiền gửi vào quá trình giải quyết phá sản các tổ chức tín dụng 37 1.3.2.5. Thủ tục phục hồi tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán được tiến hành sớm; việc Tòa án mở thủ tục phá sản thường đồng nghĩa với việc mở thủ tục thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng 39 1.3.2.6. Pháp luật các nước chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền khi tổ chức tín dụng bị phá sả 39 1.3.2.7. Việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng ưu tiên thực hiện với phương thức chuyển giao nguyên trạng tổ chức tín dụng thông qua các hình thức sáp nhập, hợp nhất với tổ chức tín dụng khác 40 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TỔ CHỨC 42 TÍN DỤNG LÂM VÀO TÌNH TRẠNG MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Tổng quan pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 42 2.1.1. Thủ tục kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng có nguy cơ mất khả năng thanh toán 43 2.1.1.1. Các trường hợp tổ chức tín dụng bị đặt vào trong tình trạng kiểm soát đặc biệt 44 2.1.1.2. Thẩm quyền quyết định đặt tổ chức tin dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt 45 2.1.1.3. Thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát đặc biệt 46 2.1.1.4. Nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt 48 2.1.1.5. Thời hạn kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng 49 2.1.2. 50 Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 2.2. Nhận định về việc áp dụng pháp luật phá sản hiện hành đối với tổ chức tín dụng 52 2.2.1. Vấn đề xác định dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản đối với các tổ chức tín dụng - một loại hình doanh nghiệp đặc thù trong nền kinh tế quốc dân 53 2.2.2. Vấn đề thực hiện nghĩa vụ nộp đơn của con nợ khi lâm vào tình trạng phá sản 55 2.2.3. Về việc thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ 56 2.2.4. Về việc áp dụng quy định về trách nhiệm thông báo doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản 58 2.2.5. Vấn đề áp dụng các loại thủ tục sau khi Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng 58 2.2.6. Về thứ tự phân chia tài sản phá sản của tổ chức tín dụng 61 Chương 3: 62 KIẾN NGHỊ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TỔ CHỨC TÍN DỤNG LÂM VÀO TÌNH TRẠNG MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 62 3.1.1. Việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng cần được thực hiện một cách thận trọng 62 3.1.2. Hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu của việc phá sản tổ chức tín dụng đến hệ thống tài chính quốc gia 63 3.1.3. Việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng cần có cơ chế đặc biệt bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền 63 3.1.4. Việc xử lý phá sản tổ chức tín dụng cần được tiến hành một cách hiệu quả và nhanh chóng 64 3.1.5. Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật khi xử lý tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng phá sản 64 3.1.6. Tạo cơ chế khuyến khích và tăng cường tính chủ động của các chủ nợ và các tổ chức, cá nhân khác trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng 65 3.2. Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán 65 3.2.1. Cần làm rõ mối quan hệ giữa quy chế kiểm soát đặc biệt và thủ tục phá sản cũng như bước chuyển từ tình trạng kiểm soát đặc biệt sang tình trạng phá sản 66 3.2.2. Về xác định tình trạng mất khả năng thanh toán làm căn cứ mở thủ tục phá sản 68 3.2.3. Về trách nhiệm thông báo tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng phá sản 70 3.2.4. Về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng 72 3.2.5. Về vai trò đại diện của chủ nợ tham gia thủ tục phá sản 74 3.2.6. Về việc áp dụng thủ tục phục hồi khi giải quyết phá sản tổ chức tín dụng 75 3.2.7. Về hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản 78 3.2.8. Về quản lý tài sản của tổ chức tín dụng sau khi mở thủ tục phá sản 80 3.2.9. Về xử lý các khoản nợ của tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng phá sản 82 3.2.10. Nghiên cứu xác định thời điểm, tư cách pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi tham gia vào quan hệ phá sản tổ chức tín dụng 82 3.2.11. Về việc khai báo nợ của các chủ nợ đối với tổ chức tín dụng 84 3.2.12. Về thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản của tổ chức tín dụng 84 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BHTG : Bảo hiểm tiền gửi NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHTƯ : Ngân hàng Trung ương TCTD : Tổ chức tín dụng XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc mọi thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện hoạt động một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, không thể tránh khỏi hiện tượng, bên cạnh những doanh nghiệp được thành lập và kinh doanh có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm và công ăn việc làm cho người lao động, góp phần cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, còn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau đã và đang làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, nợ nần chồng chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình. Đối với những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đó, pháp luật các nước trên thế giới đã có một hệ thống pháp luật riêng để xử lý, đó là pháp luật về phá sản. Phá sản trong nền kinh tế thị trường là hiện tượng và xu hướng tất yếu của quá trình cạnh tranh, chọn lọc tự nhiên để loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, khẳng định sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả [2]. Luật Phá sản doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/1994 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện vấn đề phá sản doanh nghiệp. Tiếp đó, Luật Phá sản (sửa đổi, bổ sung) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004 thay thế Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng thủ tục phá sản, bảo vệ quyền và lợi ích của chủ nợ, góp phần quan trọng vào việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường kinh doanh trở nên lành mạnh hơn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, hợp tác xã ra đời, tồn tại và kinh doanh nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, có vị thế khác nhau trong nền kinh tế. Nếu doanh nghiệp kinh doanh những lĩnh vực 1 đặc thù, có liên quan mật thiết đến nền kinh tế, phục vụ quốc phòng an ninh... thì việc doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng phá sản cần phải được Nhà nước quan tâm và quản lý chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp thông thường khác. Các tổ chức tín dụng (TCTD) là một trong những dạng doanh nghiệp đặc thù đó, do vậy, khi áp dụng các quy định của Luật Phá sản, cần có những đặc thù riêng. Chính vì vậy, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 trước đây và Luật Phá sản năm 2004 đều quy định giao cho Chính phủ thẩm quyền quy định áp dụng Luật đối với các loại doanh nghiệp đặc biệt, trong đó có TCTD. Luật Phá sản năm 2004 có quy định giao: Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu [23, Điều 2]. Điều này không chỉ cho thấy sự tiếp cận của Việt Nam đối với kinh nghiệm và thông lệ quốc tế mà còn chỉ rõ sự nhận thức về tầm quan trọng cũng như những điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động của ngân hàng phải được tính đến khi đặt vấn đề phá sản loại hình tổ chức kinh doanh này. Trong thời gian vừa qua, đã có một số lượng nhất định các vụ phá sản doanh nghiệp được Tòa án giải quyết nhưng trong số đó, Tòa án chưa tiến hành thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với ngân hàng, TCTD nào. Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng một nguyên nhân quan trọng là chúng ta vẫn chưa đưa ra được một khuôn khổ pháp lý phù hợp cho việc phá sản loại hình doanh nghiệp đặc thù như TCTD. Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Luật Phá sản năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản, tuy nhiên, nghị định này không áp dụng đối với các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Theo nghị định này thì "việc áp dụng Luật Phá sản 2 đối với các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ" [6, Điều 2]. Tuy nhiên, cho đến nay, Chính phủ mới ban hành được Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày 03/11/2008 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài chính khác. Trong khi đó, đối với các TCTD thì Luật Các TCTD năm 1997 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2002) có quy định về phá sản TCTD như sau: Sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng mà tổ chức tín dụng đó vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, thì có thể bị Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản [19, Điều 98]; ... Trong trường hợp tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản, việc thanh lý của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản [19, Điều 100]. Như vậy, cho đến nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể việc áp dụng thủ tục phá sản đối với các TCTD. Vấn đề hoàn thiện quy định về phá sản các TCTD lại càng trở nên quan trọng trong bối cảnh các ngân hàng thương mại được thành lập với số lượng khá lớn thời gian vừa qua và chất lượng hoạt động cũng còn hạn chế. Chính vì vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng đang khẩn trương nghiên cứu tìm kiếm một mô hình pháp lý phù hợp cho việc giải quyết phá sản TCTD để có thể áp dụng hiệu quả ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn. Trong hoàn cảnh như vậy, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề đặc thù trong việc áp dụng thủ tục phá sản đối với TCTD là một vấn đề hết sức cần thiết, có tính thực tiễn. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài "Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng" làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề pháp luật phá sản, có thể nói, không còn là vấn đề hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam. Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên cứu nghiên cứu do các nhà khoa học pháp lý, người làm công tác thực tiễn của Việt Nam thực hiện. Trong những năm gần đây, khi việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường được thực hiện thì pháp luật phá sản, một bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật kinh doanh cũng được chú trọng nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản được thực hiện dưới nhiều hình thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có công trình nghiên cứu toàn diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản nhưng cũng có công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan đến pháp luật phá sản. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Báo cáo phúc trình Đề tài "Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích để khuyến nghị hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luật có liên quan", Dự án VIE/98-001, 2002; Công trình nghiên cứu "Pháp luật phá sản của Việt Nam", của PGS.TS Dương Đăng Huệ, Nxb Tư pháp, 2005 v.v... Ngoài ra, có thể kể đến những bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí có nghiên cứu bàn về nhiều khía cạnh khác nhau của pháp luật phá sản: Trần Khắc Hoàng: "Một số vấn đề về thực tiễn phá sản doanh nghiệp", Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/2002; TS. Dương Đăng Huệ: "Về thực trạng pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2003; Hà Thị Thanh Bình: "Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2003; Trương Hồng Hải: "Đặc điểm của Quy chế xác định tài sản doanh nghiệp phá sản doanh nghiệp của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi", Tạp chí Luật học, số 1/2004; v.v... Về vấn đề giải quyết phá sản đối với TCTD, có thể kể đến một số công trình như: Nguyễn Văn Vân: "Định hướng xây dựng pháp luật phá sản các tổ chức tín dụng", Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8/2002; Đặng Thanh Bình: "Áp dụng pháp luật về phá sản doanh nghiệp đối với tổ chức tín dụng", 4 Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2003; Viên Thế Giang: "Một số vấn đề về áp dụng Luật phá sản năm 2004 đối với các tổ chức tín dụng", Tạp chí Ngân hàng, số 2/2005; v.v... Trong số các công trình nghiên cứu trên, Khóa luận tốt nghiệp năm 2003 của Đặng Thanh Bình là một công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về vấn đề này, tuy nhiên, kết quả nghiên cứu này mới chỉ là nghiên cứu bước đầu, được thực hiện trong bối cảnh của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 nên cũng còn hạn chế về nội dung. Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu những đặc thù trong việc giải quyết phá sản đối với TCTD vẫn chưa được nhiều nhà khoa học và những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Nhiều vấn đề xung quanh việc giải quyết phá sản TCTD còn chưa được làm rõ, và có phương án xử lý phù hợp. Vì vậy, trong khi pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn nhiều hạn chế, chưa có quy định cụ thể, phù hợp làm ảnh hưởng không nhỏ đến thực tiễn giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản thì việc tiếp tục nghiên cứu đề tài là cần thiết nhằm phân tích một cách đầy đủ, toàn diện về những đặc thù của việc giải quyết phá sản TCTD. Việc nghiên cứu đề tài này lại càng có ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh Nhà nước ta dự kiến xây dựng Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân hàng, Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) và tiến hành sửa đổi Luật Ngân hàng nhà nước (NHNN), Luật Các tổ chức tín dụng. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài sẽ tập trung vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đòi hỏi phải có những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản TCTD; xác định những đặc thù trong việc giải quyết phá sản TCTD so với thủ tục phá sản chung. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị xây dựng mô hình và quy định những đặc thù trong thủ tục giải quyết phá sản TCTD ở Việt Nam. Nội dung luận văn không đi sâu vào việc phân tích lý luận về khái niệm TCTD và các hoạt động của TCTD cũng như cơ chế giám sát, khắc phục rủi ro trong hoạt động của TCTD. Đề tài nhận diện, đánh giá rủi ro trong hoạt động của TCTD là một chủ đề cần được nghiên cứu chuyên sâu ở một công trình khác. 5 4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Luận văn được tiến hành trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cụ thể là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh và đặc biệt là phương pháp luật học so sánh. Bằng cách so sánh các quy định pháp luật phá sản của các hệ thống pháp luật trên thế giới nhằm tìm ra những mô hình pháp lý điển hình áp dụng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Luận văn cũng tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam về phá sản và văn bản pháp luật có liên quan để đánh giá thực trạng, những vướng mắc, khó khăn cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở phân tích, so sánh đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị về việc xây dựng một mô hình trong việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng cũng đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu trên sẽ góp phần đưa đến thành công của luận văn. 5. Những đóng góp mới của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ thực trạng pháp luật hiện hành về phá sản và yêu cầu đặc thù trong hoạt động của các TCTD, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất cơ chế, quy định đặc thù nhằm giải quyết một cách có hiệu quả các TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể, luận văn sẽ có những đóng góp mới sau đây: - Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng cơ chế riêng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản; - Nhận diện và trình bày những mô hình pháp lý áp dụng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản trên thế giới; 6 - Xác định những điểm đặc thù của việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản so với so với giải quyết phá sản các loại hình doanh nghiệp kinh doanh thông thường; - Đánh giá thực trạng pháp luật phá sản và pháp luật có liên quan của Việt Nam và khả năng áp dụng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của việc áp dụng pháp luật phá sản đối với các TCTD trong thời gian vừa qua; - Kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản và các quy định pháp luật có liên quan nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết phá sản TCTD. 6. ý nghÜa lý luËn vµ thùc tiÔn cña luËn văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết phá sản TCTD. Những kiến nghị từ kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần trực tiếp vào việc hoàn thiện pháp luật phá sản của Việt Nam liên quan đến việc giải quyết phá sản TCTD. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng. Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Quan điểm, giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán ở Việt Nam. 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NHỮNG QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1.1. Khái niệm và phân loại tổ chức tín dụng Khi nền sản xuất hàng hóa hình thành và phát triển thì tiền tệ xuất hiện và nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ đã dẫn đến sự xuất hiện của những tổ chức chuyên thực hiện các hoạt động thu nhận các nguồn vốn nhà rỗi trong xã hội và sử dụng nguồn vốn này để cấp tín dụng, làm các dịch vụ tiền tệ khác và các tổ chức này gọi là tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật để hoạt động ngân hàng (gồm hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng) với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán [19, Điều 20]. Như vậy, TCTD cũng là một loại hình doanh nghiệp nhưng TCTD có những đặc điểm riêng mà dựa vào đó, có thể nhận biết và phân biệt chúng với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực, ngành, nghề khác trong nền kinh tế. Cụ thể: - TCTD là một loại doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ, một loại hàng hóa đặc biệt trong nền kinh tế. - TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Nội dung kinh doanh chủ yếu của TCTD là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, TCTD còn có thể thực hiện các nghiệp vụ khác như cho kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm... 8 - TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Các TCTD được thành lập và tồn tại theo các hình thức pháp lý do pháp luật quy định. Mỗi loại hình TCTD được tổ chức theo từng phương thức có đặc điểm riêng và thực hiện hoạt động kinh doanh trong phạm vi được pháp luật quy định. - Căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ, các TCTD có thể được chia thành: tổ chức tín dụng nhà nước; tổ chức tín dụng cổ phần; tổ chức tín dụng hợp tác; tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài. - Căn cứ vào phạm vi thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, TCTD có thể được phân chia thành hai loại: tổ chức tín dụng là ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Trong đó: + Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. + Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. Như vậy, dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt TCTD là ngân hàng với TCTD phi ngân hàng là hoạt động nhận tiền gửi không kỳ hạn và hoạt động dịch vụ thanh toán. TCTD là ngân hàng được quyền huy động vốn dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn và thực hiện dịch vụ thanh toán, còn TCTD phi ngân hàng không được thực hiện các hoạt động này. 9 1.1.2. Hoạt động của tổ chức tín dụng Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hoạt động của các TCTD bao gồm các hoạt động chủ yếu sau đây [19]. 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn Vốn kinh doanh của các TCTD chủ yếu là tư nguồn vốn huy động. Vì vậy, hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD. Các TCTD có thể huy động vốn thông qua các hình thức sau đây: - Nhận tiền gửi: Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại TCTD hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền. Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của NHNN. - Huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá: Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi trong đó, TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời hạn nhất định. TCTD được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của NHNN. - Huy động bằng vay vốn giữa các TCTD: Ngoài việc huy động vốn của dân cư và của các tổ chức kinh tế - xã hội, pháp luật còn cho phép TCTD được vay vốn của các TCTD trong nước và các TCTD nước ngoài. Các TCTD cho nhau vay chủ yếu được thực hiện trên thị trường liên ngân hàng thông qua hợp đồng tín dụng. Việc vay vốn giữa các TCTD nhằm điều hòa, phân phối vốn để tăng cường khả năng thanh toán, bảo đảm an toàn, hiệu quả cho hoạt động của từng TCTD. 10 - Vay vốn của NHNN: TCTD là ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn thông qua các hình thức: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với TCTD tạm thời mất khả năng chi trả, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD. 1.1.2.2. Hoạt động cấp tín dụng Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của TCTD, được hiểu là việc TCTD thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. - Cho vay: là một hình thức cấp tín dụng của TCTD cho khách hàng. TCTD được quyền cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống tùy thuộc vào tính chất và khả năng nguồn vốn của TCTD. - Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác: là một hình thức cấp tín dụng của TCTD thông qua việc mua thương phiếu, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Các TCTD được tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho nhau. TCTD là ngân hàng có thể được NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác đã được chiết khấu. - Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Cho thuê tài chính được hiểu là việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Theo đó, bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương 11 tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê; bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. - Bảo lãnh ngân hàng: là một hình thức cấp tín dụng của TCTD, theo đó, TCTD cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng được bảo lãnh nếu đến hạn mà khách hàng được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của. TCTD được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân. 1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là hoạt động ngân hàng gắn liền với các hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng. TCTD được mở tài khoản tiền gửi tại NHNN, tại các tổ chức tín dụng khác. Riêng TCTD có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định. TCTD là ngân hàng còn được mở tài khoản cho khách hàng trong nước và ngoài nước, được thực hiện các dịch vụ thanh toán: Cung ứng các phương tiện thanh toán; Thực hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép; Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do NHNN quy định. TCTD được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Các TCTD là ngân hàng được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được NHNN cho phép. 12 1.1.2.4. Các hoạt động kinh doanh khác Theo quy định của pháp luật hiện hành, TCTD có thể thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác như: - Được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật; - Được tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức, bao gồm thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của NHNN. - Được kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế khi được NHNN cho phép. - Được quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân theo hợp đồng. - Được lập công ty độc lập để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Riêng ngân hàng được cung ứng các dịch vụ bảo hiểm theo quy định của pháp luật. TCTD không được trực tiếp kinh doanh bất động sản. - Được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng. - Được cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Pháp luật phá sản có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, là bộ phận quan trọng không thể thiếu trong cơ chế kinh tế thị trường, do đó, hoàn thiện pháp kinh tế không thể không hoàn thiện pháp luật phá sản. TCTD với tư cách là một loại doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm, hoạt động của các TCTD chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan nhà 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan