Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Những phong tục nghi lễ vòng đời của người việt ở huyện tam nông, tỉnh phú thọ (...

Tài liệu Những phong tục nghi lễ vòng đời của người việt ở huyện tam nông, tỉnh phú thọ (truyền thống và biến đổi)

.PDF
97
175
87

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA LỊCH SỬ ***** HOÀNG THỊ MỘNG NHƢ NHỮNG PHONG TỤC NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA NGƢỜI VIỆT Ở HUYỆN TAM NÔNG, TỈNH PHÚ THỌ (TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học PGS. TS. NGUYỄN DUY BÍNH HÀ NỘI – 2017 LỜI CAM ĐOAN Khóa luận tốt nghiệp “Những phong tục nghi lễ vòng đời của người việt ở huyện tam nông, tỉnh Phú Thọ (truyền thống và biến đổi)” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Thầy giáo PGS. TS Nguyễn Duy Bính. Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận án là trung thực. Các trích dẫn trong công trình đầy đủ và chính xác. Nếu có gì sai phạm tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày , tháng , năm . Sinh viên Hoàng Thị Mộng Nhƣ LỜI CẢM ƠN Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Những phong tục nghi lễ vòng đời của người Việt ở huyện tam Nông, tỉnh Phú Thọ (truyền thống và biến đổi), ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của PGS. TS Nguyễn Duy Bính. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc của mình tới thầy. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô trong khoa Lịch Sử, thư viện Quốc gia Việt Nam; các anh chị làm việc tại thư viện huyện Tam Nông, thư viện tỉnh Phú Thọ, Uỷ ban Nhân Dân huyện Tam Nông đã giúp đỡ tôi hoàn thiện khóa luận. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến bạn Nguyễn Thị Dung, bạn Hoàng Thúy Vân đã đồng hành, giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu. Hà Nội, ngày , tháng , năm Sinh viên Hoàng Thị Mộng Nhƣ MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài. ........................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. .......................................................................... 2 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. ............................................................................ 5 6. Đóng góp của đề tài. ..................................................................................... 6 7. Bố cục của đề tài. .......................................................................................... 6 NỘI DUNG....................................................................................................... 7 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI VIỆT Ở HUYỆN TAM NÔNG .. 7 1. 1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ............................................................... 7 1.1.1 Vị trí và lãnh thổ...................................................................................... 7 1.1.2 Địa hình ................................................................................................... 7 1.1.3 Khí hậu .................................................................................................... 9 1.1.4 Sông ngòi ................................................................................................. 9 1.2 Đặc điểm dân số và sự phân bố dân cƣ. ................................................ 10 1.3 Đặc điểm kinh tế ..................................................................................... 10 1.4. Đặc điểm văn hóa- xã hội ...................................................................... 13 Chƣơng 2 CÁC TẬP TỤC TRONG NGHI LỄ VÒNG ĐỜI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT Ở HUYỆN TAM NÔNG ........................... 17 2.1 Khái niệm “nghi lễ vòng đời” và các khái niệm liên quan. ................. 17 2.2 Những nghi lễ truyền thống trong vòng đời của ngƣời Việt ở huyện Tam Nông. ...................................................................................................... 20 2.2.1 Nghi lễ sinh đẻ ....................................................................................... 20 2.2.3 Nghi lễ Hôn nhân .................................................................................. 28 2.2.4 Nghi lễ mừng thọ................................................................................... 36 2.2.5 Nghi lễ tang ma ..................................................................................... 38 Chƣơng 3 XU HƢỚNG BIẾN ĐỔI VÀ MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ CÁC NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA NGƢỜI VIỆT Ở HUYỆN TAM NÔNG.... 65 3.1 Xu hƣớng biến đổi của các tập tục trong nghi lễ vòng đời của ngƣời Việt ở huyện Tam Nông ................................................................................ 65 3.1.1 Tập tục trong nghi lễ vòng đời của người Việt không phải bất biến mà có nhiều biến đổi để phù hợp với cuộc sống hiện đại. ................................. 65 3.1.2 Giao thoa, tiếp biến với các giá trị văn hóa mới là xu hướng biến đổi trong thời gian tiếp theo. ................................................................................ 67 3.1.3 Nguyên nhân của sự biến đổi ............................................................... 68 3.2 Một vài nhận xét ...................................................................................... 71 3.2.1 Các tập tục trong nghi lễ vòng đời phản ánh đời sống văn hóa- tâm linh của cộng đồng người Việt ở Huyện Tam Nông vô cùng phong phú và đa dạng ............................................................................................................ 71 3.2.2 Các tập tục trong nghi lễ vòng đời của người Việt ở huyện Tam Nông bao gồm nhiều điều cấm kị, kiêng kị ............................................................72 3.2.3 Nghi lễ vòng đời của người Việt ở huyện Tam Nông vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực ...................................................................74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Cộng đồng người Việt Nam có 54 dân tộc khác nhau. Trong đó dân tộc Kinh còn gọi là người Việt chiếm gần 90% tổng số dân của Việt Nam. Người Việt cư trú khắp các tỉnh thành nhưng đông nhất là các vùng đồng bằng và thành thị. Nghi lễ gắn với tín ngưỡng dân gian chính là một phần trong đời sống tâm linh của con người. Cùng với thời gian, những nghi lễ ấy được duy trì, phát triển và hoàn thiện, được bổ sung những nghi lễ mới cho phù hợp với hoàn cảnh của xã hội mà con người sinh sống. Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc có một nghi lễ vòng đời khác nhau và đó chính là đặc trưng văn hóa tộc người. Nghiên cứu về những nghi lễ vòng đời của người Việt ở huyện Tam Nông để hiểu sâu sắc hơn về những phong tục tập quán trong nền văn hóa bản địa mà tổ tiên họ đã xây dựng nên. Bên cạnh đó, để có được những hiểu biết về lịch sử văn hóa của một tộc người, trước hết cần tìm hiểu chiều sâu đời sống tâm linh, tư tưởng của họ. Nghiên cứu những tập tục trong nghi lễ vòng đời là một hướng tiếp cận trực tiếp vào cốt lõi của đời sống tâm linh, niềm tin, tín ngưỡng. Tín ngưỡng được thể hiện qua các tập tục, nghi lễ, trong đó nghi lễ vòng đời là một mắt xích quan trọng. Thông qua những nghi lễ của các giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời một con người, có thể tìm hiểu thế giới quan, nhân sinh quan, phong tục tập quán, tâm hồn, tình cảm của tộc người cần nghiên cứu, mà ở đây chúng tôi đề cập đến là người Việt ở huyện Tam Nông. Nghi lễ vòng đời người là môi trường khá bền vững trong việc bảo lưu vốn văn hóa truyền thống. Bởi chính trong những tập tục của các nghi lễ ấy chứa đựng mọi yếu tố của bản sắc văn hóa: từ không gian (chiều rộng) đến thời gian 1 (chiều dài), từ văn hóa cá nhân đến văn hóa cộng đồng. Đặc biệt, nó chứa đựng đời sống tâm linh, tâm hồn tình cảm của con người. Những tập tục được thực hiện trong nghi lễ vòng đời như sợi dây vô hình xâu chuỗi, vừa gắn kết, vừa trói buộc các cá nhân với cộng đồng, giữa thế giới những người đang sống với những người đã khuất...Chính vì vậy, nghi lễ vòng đời người là môi trường tốt nhất để bảo tồn bản sắc văn hóa của mỗi tộc người, đồng thời cũng là mảng nghiên cứu quan trọng để hiểu văn hóa của một dân tộc [1, tr.13-14]. Kết quả nghiên cứu đề tài của khóa luận có thể là cơ sở khách quan cho các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lí văn hóa có được những thông tin hữu ích trong việc hoạch định chính sách để bảo tồn những giá trị văn hóa, mà ở đây là văn hóa của người Việt ở huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Đồng thời cũng là một trong những cơ sở để Đảng, Chính phủ có được các chính sách phù hợp trong công tác xây dựng, đoàn kết cộng đồng người Việt với các dân tộc khác trên địa bàn huyện Tam Nông nói riêng và trên địa bàn tỉnh Phú Thọ nói chung. Xuất thân là một người học tập và nghiên cứu lịch sử, với niềm đam mê văn hóa dân tộc, đặc biệt là các giá trị văn hóa tinh thần. Mặt khác, là một người con của quê hương Tam Nông (Phú Thọ), luôn muốn hiểu rõ hơn các phong tục, tập quán nơi mình sinh ra và hy vọng giới thiệu những nét văn hóa tiêu biểu của miền đất tổ đến với mọi người. Chính vì những lý do đó mà tôi chọn đề tài: “Những phong tục nghi lễ vòng đời của người việt ở huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ (truyền thống và biến đổi)” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Nghiên cứu văn hóa của người Việt nói chung đến nay không phải là một vấn đề mới mẻ. Các tác phẩm viết về người Việt nói chung như: Tác phẩm Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính, được xuất bản năm 1990, đã đề cập về phong tục trong gia tộc, thôn xóm (hương đảng) và các 2 phong tục trong xã hội. Đây là bộ biên khảo tương đối đầy đủ về các phong tục tập quán cũ của nước Việt. Là một nhà nho uyên bác mang tư tưởng tân tiến, tác giả không chỉ mô tả từng tập tục, mà còn về gốc tích, nguyên thủy cái tục ấy, nhìn nhận, đánh giá để xem nó hay, dở ra sao, từ đó xét điều gì quá tệ sẽ bỏ bớt đi. Còn tục gì hay của ta thì cứ giữ lấy. Cuốn Hỏi đáp về làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa, tổ chức lễ hội truyền thống (1998) của nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội. Cuốn sách được trình bày dưới dạng hỏi và đáp, giải đáp tất cả những vấn đề cơ bản liên quan đến việc xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa và tổ chức lễ hội truyền thống. Cuốn sách có vai trò tuyên truyền, giúp mọi người hiểu được bản chất, cách thức thực hiện những vấn đề đã nêu sao cho phù hợp với chủ trương, đường lối chính sách của Đảng. Các tập tục, nghi lễ trong sinh con, tục cưới hỏi, ma chay của một số dân tộc (dân tộc Dao, Tày, Thái, Gialai, Ba na,...) trong đó bao gồm cả người Việt được đề cập đến trong tác phẩm Lễ tục vòng đời của tác giả Phạm Minh Thảo xuất bản năm 2000. Tác giả Nguyễn Quang Khải với tác phẩm Tập tục và kiêng kị, xuất bản năm 2001 đã tập hợp những điều kiêng kị tiêu biểu theo phong tục dân gian Việt Nam bao gồm: các tập tục kiêng kị trong hôn nhân gia đình truyền thống, trong đời sống và kiêng kị tuổi qua 12 con giáp. Tác giả Trương Thìn với Nghi lễ vòng đời người xuất bản năm 2010 đã phác họa một bức tranh tương đối đầy đủ về những nghi lễ vòng đời của người Việt. Trong Những điều cần biết về nghi lễ hôn nhân người Việt, xuất bản năm 2010, tác giả Trương Thìn đã nêu lên những lễ nghi cơ bản trong phong tục cưới hỏi truyền thống cũng như hiện đại. Các công trình nghiên cứu về huyện Tam Nông như: 3 Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Tam Nông (1947- 2012) xuất bản năm 2012 đã nêu bật được chặng đường lịch sử kháng chiến chống Pháp, đế quốc Mĩ xâm lược, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và hơn 25 năm chặng đường thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ huyện Tam Nông, quân và dân Tam Nông đã lập được nhiều thành tích vẻ vang, ghi những mốc son chói sáng vào trang sử truyền thống của huyện. Cuốn sách cũng đề cập đến những chính sách, chỉ đạo của Đảng bộ huyện đối với sự phát triển văn hóa- xã hội của huyện. Bùi Thị Hưng (2014), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên đề: Đảng bộ huyện Tam Nông (tỉnh Phú Thọ) lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa từ năm 1999 đến năm 2013. Luận văn đã đề cập đến tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện từ 1999, đồng thời nêu lên những chính sách chỉ đạo của Đảng bộ huyện đối với đời sống văn hóa của huyện. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình trên, khóa luận đi sâu tìm hiểu về nghi lễ vòng đời của người Việt ở huyện Tam Nông, từ đó đưa ra những nhận xét cá nhân. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Dưới góc độ sử học đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tập tục trong hệ thống nghi lễ vòng đời người của người Việt ở huyện Tam Nông xuyên suốt chiều dài lịch sử. Qua đó, hiểu được đời sống tâm linh của cộng đồng người Việt ở huyện Tam Nông, đồng thời thấy được những thay đổi theo hướng tích cực, ngày càng văn minh của các nghi lễ vòng đời người của họ. Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn trên địa bàn huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. 4 Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống các nghi lễ vòng đời của người Việt từ xưa đến nay, qua đó khái quát lên sự biến đổi theo thời gian của các nghi lễ này. Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các tập tục trong nghi lễ sinh đẻ, thôi nôi và sinh nhật, mừng thọ, tang ma. Trong đó, nghiên cứu những nghi thức, kiêng kị của người Việt được tiến hành trong các giai đoạn nhất định của cuộc đời con người từ khi trong bụng mẹ, chào đời, đầy tháng, đầy năm, trưởng thành, hôn lễ, mừng thọ, tang ma. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Để hoàn thành đề tài, tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp luận gồm: phương pháp biện chứng, phương pháp logic và phương pháp lịch sử. Sử dụng phương pháp biện chứng, tác giả đặt đối tượng nghiên cứu là hệ thống các tập tục trong nghi lễ vòng đời của người Việt ở huyện Tam Nông với các dân tộc khác trong huyện và với các vùng khác ở Việt Nam. Sử dụng phương pháp lịch sử, tác giả đặt đối tượng nghiên cứu trong không gian (địa bàn huyện Tam Nông), thời gian (từ xưa đến nay). Sử dụng phương pháp lôgic, giúp tác giả hiểu được quy luật nội tại của đối tượng nghiên cứu; thấy được quy luật phát triển khách quan của đối tượng. Thứ hai, tác giả sử dụng phương pháp cụ thể gồm: Sưu tầm các tư liệu liên quan như tư liệu thành văn, tư liệu hiện vật, tư liệu khảo cổ, tư liệu văn hóa dân gian; đính chính tư liệu; phỏng vấn; điền giã (tham dự các đám cưới, đám hỏi, đám tang,...) 5. Nguồn tƣ liệu. Đề tài nghiên cứu về các nghi lễ vòng đời – thuộc phạm trù tín ngưỡng, văn hóa, đời sống tâm linh nên tư liệu có được chủ yếu là các bức ảnh về hôn lễ, đầy tháng, tang ma... được chụp lại trong quá trình nghiên cứu của tác giả. 5 Các tư liệu truyền miệng rất phong phú, đa dạng, chính xác và khách quan. Các nguồn tư liệu khác: tạp chí, các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề, tài liệu internet… 6. Đóng góp của đề tài. Thông qua kết quả nghiên cứu của đề tài, giúp tác giả có cái nhìn sâu sắc hơn về nền văn hóa bản địa. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những đặc điểm, vai trò và nêu lên xu hướng biến đổi của các tập tục trong hệ thống nghi lễ vòng đời của cộng đồng người Việt tại huyện Tam Nông. Khóa luận là nguồn tư liệu hữu ích cho những ai quan tâm nghiên cứu nền văn hóa đất tổ. Kết quả nghiên cứu của khóa luận đóng góp và nguồn tư liệu lịch sử địa phương. 7. Bố cục của đề tài. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Khóa luận được kết cấu làm 3 chương: Chƣơng 1: Khái quát về ngƣời Việt ở huyện Tam Nông. Chƣơng 2: Các tập tục trong nghi lễ vòng đời truyền thống của ngƣời Việt ở huyện Tam Nông. Chƣơng 3: Đặc điểm và xu hƣớng biến đổi của các nghi lễ vòng đời của ngƣời Việt ở huyện Tam Nông. 6 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI VIỆT Ở HUYỆN TAM NÔNG 1. 1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 1.1.1 Vị trí và lãnh thổ Tam Nông là một huyện nằm phía tây nam của tỉnh Phú Thọ. Huyện lị là thị trấn Hưng Hóa [15, tr.10]. Phía đông giáp huyện Lâm Thao, phía đông nam giáp thành phố Hà Nội (cách thành phố Hà Nội 70 km). Phía tây giáp các huyện Cẩm Khê (tây bắc), Yên Lập (tây), Thanh Sơn (tây nam). Phía nam giáp huyện Thanh Thủy. Phía bắc giáp huyện Thanh Ba (tây bắc) và thị xã Phú Thọ. Diện tích tự nhiên 15.596 ha, dân số trên 82.000 người. Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính trực thuộc huyện, bao gồm 19 xã và 01 thị trấn, với 172 khu dân cư (trong đó 17 xã, thị trấn miền núi; 03 xã, 13 khu thuộc vùng khó khăn trong chương trình 135 của Chính phủ); toàn huyện có 20 dân tộc (Kinh, Tày, Thái, Mường, Hoa, Nùng, H.Mông, Dao, Sán Chung, Co Ho, Thổ, Tà Ôi, La Chí, Lô Lô), trong đó dân tộc Kinh 74.958 người, các dân tộc khác 511 người (theo số liệu thống kê năm 2009). Đảng bộ huyện có 42 cơ sở đảng với 5.624 đảng viên (tính đến tháng 12/2012) [11]. Huyện Tam Nông là cửa ngõ phía Tây của Hà Nội, nối liền với các tỉnh phía tây bắc của Tổ quốc [11]. 1.1.2 Địa hình Nhìn tổng thể địa hình của huyện Tam Nông phần lớn là đồi núi thấp, xen kẽ có các dộc ruộng, đột xuất có các núi cao như núi Chi, đèo Khế phía tây nam và một số đầm nước. Dựa vào điều kiện địa lý có thể chia đất đai của huyện thành các vùng như sau: 7 Vùng đất thấp nằm dọc theo sông Hồng gồm những cánh đồng có chiều ngang hẹp, tạo thành một vệt dài theo bờ sông từ xã Hồng Đà đến các xã Thượng Nông, Hương Nộn, Cổ Tiết, Tam Cường, Thanh Uyên, Hiền Quan, Vực Trường, Hương Nha, Tứ Mỹ và dọc theo sông Bứa gồm các xã Hùng Đô, Quang Húc, Tề Lễ. Các cánh đồng trên hầu hết là do phù sa sông Hồng, sông Bứa được bồi tụ qua nhiều năm trước khi có đê chắn, tạo thành lớp đất tương đối màu mỡ, thuận lợi cho cây lúa, hoa màu và cây lương thực. Vùng đồi núi được chia thành hai khu vực: vùng đồi núi thấp và vùng đồi núi cao. Vùng đồi núi thấp nằm ở phía tây bắc huyện có đỉnh tròn mấp mô như làn sóng nối tiếp nhau thuộc các xã: Cổ Tiết, Văn Lương, Thanh Uyên, Hiền Quan, Hương Nha, Tứ Mỹ, Xuân Quang, Phương Thịnh, Quang Húc. Vùng đồi núi cao nằm ở phía tây nam huyện thuộc địa bàn các xã Dị Nậu, Thọ Văn, Tề Lễ bao gồm nhiều gò núi nhấp nhô, có những điểm đột xuất như núi Chi (cao 216 m), Đèo Khế (117 m) và các quả đồi chạy dọc theo dãy núi Càng Cua từ đầm Dị Nậu qua đường 24 đến Dộc Vừng. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 15.596,92 ha. Trong đó: diện tích đất nông nghiệp là 11.315,24 ha, chiếm 72,55%; đất phi nông nghiệp là 3.888,40 ha, chiếm 24,93%; đất chưa sử dụng là 393,28 ha, chiếm 2,52%. Do đặc điểm vị trí là nơi tiếp giáp giữa miền núi và đồng bằng nên đất đai của huyện Tam Nông tương đối phong phú và đa dạng, bao gồm một số loại đất chính như: Đất vàng đỏ phát triển trên nền đá sa thạch và phiến thạch, đất xám vàng phát triển trên nền phù sa cổ, đất phù sa không được bồi hàng năm và đất phù sa được bồi hàng năm của sông Hồng, sông Đà, sông Bứa, đất thung lũng dốc tụ, đất đồi núi bậc thang và đất lầy thụt. Đất đai của vùng gò đồi huyện Tam Nông vừa là đất gạch cua vừa là đất cát tro, phủ trên mặt một lớp từ 20 đến 30 cm, xuống dưới là đất gạch cua pha sỏi có chỗ đá ong, kém màu mỡ, thích hợp với việc trồng cây công nghiệp dài 8 ngày như sơn, trẩu, cọ, chè,... Xét sơ lược về cấu tạo địa chất, Tam Nông nằm trên vùng đất đá tiền Cambri, phổ biến là các đá biến chất của phức hệ sông Hồng và các đá biến chất tuổi Thái Cổ và đại nguyên sinh, tồn tại ít ra cũng trên 120 triệu năm, có cấu trúc bên trong rất ổn định, bền vững. Trong lòng đất thuộc địa phận Tam Nông có một lượng than bùn tương đối phong phú. Vùng ven sông Hồng có chứa lượng đất sét, cát đen dồi dào làm vật liệu xây dựng tốt [15, tr.36]. 1.1.3 Khí hậu Tam Nông là huyện nằm giữa khu vực đồng bằng và đồi núi, mang đặc điểm chung của khí hậu miền trung du Bắc bộ thuộc khu vực có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Về mùa đông ở nhiều vùng trong huyện thường có sương mù, sương muối vào sáng sớm thường hanh khô, lượng mưa thấp chỉ chiếm khoảng 15- 20% lượng mưa cả năm. Gió đông nam bắt đầu thổi từ tháng 4 đến tháng 11 trong năm, tạo ra sự mát mẻ trên nhiều vùng địa bàn, thuận tiện cho việc trồng trọt và canh tác [9, tr.11]. 1.1.4 Sông ngòi Chế độ thủy văn của Tam Nông tương đối phong phú nhờ có 3 con sông, hàng chục con ngòi và một số đầm hồ lớn. Sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Tứ Mỹ rồi nhập vào sông Đà ở xã Hồng Đà theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, tạo thành một vòng cung, dài trên 32km. Sông Hồng là con sông có độ phù sa vào loại lớn nhất Bắc bộ, có tới 7,660kg/m3 nước. Hằng năm, sau mùa mưa lũ, nước rút đi để lại trên đồng ruộng một lớp phù sa màu mỡ dày từ 10- 15cm, thuận lợi cho viêc trồng cây lương thực và hoa màu. Sông Đà chảy qua địa bàn huyện Tam Nông chỉ là điểm hợp lưu của sông Đà và sông Hồng nhưng lưu lượng trung bình của sông Đà rất lớn, tới 1.760m3/s gấp 2 lần sông Thao, gấp 10 lần sông Lô [18, tr.31- 35]. 9 Ngoài hai con sông trên, huyện Tam Nông còn được thiên nhiên ban tặng con sông Bứa bắt nguồn từ Sơn La. Con sông này hầu như nằm hoàn toàn trong tỉnh Phú Thọ, chảy qua các xã như Tề Lễ, Quang Húc, Hùng Đô đến Tứ Mỹ đổ vào sông Thao. Sông Bứa có ít phù sa (khoảng 1,1kg/m3) chủ yếu là cung cấp nước tưới cho trồng trọt và giao thông vận chuyển hàng hóa trên sông. Bên cạnh hệ thống các con sông, huyện Tam Nông còn có rất nhiều ngòi lớn nhỏ thuộc phụ lưu các con sông cùng một số hồ, đầm thiên tạo phong phú, nằm rải rác ở một số địa phương trong huyện như đầm Thượng Nông, đầm Dị Nậu, đầm Phú Cường có diện tích trung bình từ 15 đến 100 ha mặt nước. Với hệ thống sông ngòi và đầm hồ phong phú, có trữ lượng tương đối lớn là điều kiện thuận lợi cho Tam Nông có nguồn tài nguyên nước dồi dào, phục vụ đời sống và vận chuyển hàng hóa, nuôi trồng thủy sản nước ngọt và phát triển sản xuất nông nghiệp. 1.2 Đặc điểm dân số và sự phân bố dân cƣ. Người Kinh chiếm khoảng 99% dân số, cư trú ở hầu hết các xã, thị trấn. Nhân dân có kinh nghiệm canh tác trên đất đồi, núi, ruộng trũng, đất phù sa, kết hợp sản xuất nông nghiệp với lâm nghiệp, chăn nuôi gia súc, cây trồng bản địa và cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, trồng rau quả vùng nhiệt đới. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên có xu hướng giảm, năm 2001 là 0,92% và năm 2007 còn 0,89%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân hằng năm là 1%. Tình hình phân bố dân cư giữa các xã không đều, đông nhất là Hương Nộn, Hiền Quan, thị trấn Hưng Hóa, xã Hồng Đà, thưa cư dân nhất là xã Tề Lễ, Dị Nậu, Thọ Văn. Mật độ dân số trung bình là 527 người/km2 [20]. 1.3 Đặc điểm kinh tế Từ xa xưa, nhân dân huyện Tam Nông làm nghề trồng lúa nước là chính. Trong quá trình sản xuất đã lựa chọn được một số giống lúa ngon nổi tiếng như nếp cái hoa vàng rất dẻo và thơm. Lúa sọc còn gọi là lúa kiến đỏ được 10 trồng nhiều ở các xã ven sông Hồng. Đặc điểm của cây lúa này là dù gieo trồng sớm hay muộn đến trung tuần tháng 10 dương lịch mới trổ bông, đẻ khỏe, chịu ngập cao rất thích hợp cho vùng đất ven sông, chân ruộng trũng vụ mùa hoặc cấy ngay sau vụ gặt chiêm. Loại lúa này cho gạo màu hồng, khi nếp chín mùi rất thơm và ngon. Ở một số địa phương nhân dân còn cấy một số loại lúa khác như lúa lại cái (lúa ngoi) cho gạo ngon nhưng năng suất thấp. Lúa mộ gieo trồng vào vụ mùa, lúa chịu hạn tốt chủ yếu được gieo trồng ở những vùng đất bãi hoặc ven đồi. Trong những năm gần đây do nhu cầu phát triển lương thực về số lượng nên một số giống lúa ngon cổ truyền, năng suất thấp không được duy trì. Nhân dân chủ yếu cấy các loại lúa lai (lúa tạp giao), gạo không ngon bằng giống cũ nhưng năng suất cao. Ngoài lúa, nhân dân trong vùng còn trồng nhiều loại rau màu khác dọc theo ven sông Hồng, sông Bứa và trên các đồi như ngô, khoai lang, sắn, lạc, đỗ, mía,... Tam Nông có khá nhiều rừng, trong rừng có nhiều lâm thổ sản quý như đinh lim, sến, táu, vàng tâm, sồi, dẻ; các loại thảo dược và nhiều động vật hiếm như hươu, nai, lợn rừng, trăn,... Đất đai vùng đồi chủ yếu là đất Feralit vàng và đỏ, rất thích hợp trồng các loại cây công nghiệp như trẩu, sở,... Đặc biệt là cây sơn, một loại cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao. Có thời kỳ, sơn của Tam Nông đã được xuất khẩu sang Trung Quốc, Nhật Bản. Tuy nhiên do việc trồng, chăm sóc và thu hoạch nhựa sơn tương đối công phu, yêu cầu quy trình kỹ thuật chặt chẽ nên ít người bỏ vốn kinh doanh. Bên cạnh cây sơn, cây cọ, cây chè, cây cà phê cũng là những sản phẩm tiêu biểu của Tam Nông. Trước đây, Tam Nông có những khu rừng cọ rộng hàng chục héc-ta. Sản phẩm chính của cây cọ là lá dùng để làm nhà khi chưa có các loại vật liệu khác thay thế. Cây chè ở tỉnh Phú Thọ nói 11 chung và huyện Tam Nông nói riêng rất phát triển [xem phụ lục 2]. Thời thuộc Pháp, chè búp tươi của các địa phương thuộc huyện Tam Nông cũng như tỉnh Phú Thọ được người Pháp mua và chế biến, sau đó đem bán khắp Đông Dương và sang cả nước Pháp. Sau này, người Hoa Kiều cũng mua. Ngoài ra ở một số địa phương còn trồng các loại cây lấy dâù như trẩu, sở, dọc, trám. Dầu sở rất có giá trị nên thời thuộc Pháp, khi khai thác chúng đã đem về nước và chế biến thành một thứ dầu “sà lách” (dầu trộn rau sống) có màu vàng, ăn rất ngon, thường dùng trong các bữa tiệc. Nhiều loại cây ăn quả cũng được trồng nhiều trong vườn nhà như mít, cam, chanh, dứa, vải, chuối,... Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi trong vùng cũng khá phát triển. Năm 2007, lĩnh vực chăn nuôi chiếm tỷ trọng 33,2%. Trong đó: chăn nuôi gia súc chiếm tỷ trọng 59%, chăn nuôi gia cầm chiếm 16% và sản phẩm chăn nuôi khác chiếm 14%. Chủ yếu là chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, dê,... Sản xuất chăn nuôi ở địa bàn đều ở quy mô cá thể hộ gia đình, những năm gần đây mới xuất hiện một vài mô hình chăn nuôi theo trang trại. Việc sản xuất chăn nuôi ở quy mô nhỏ gây khó khăn rất lớn trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nâng cao năng suất hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi, đặc biệt là phòng dịch bệnh [20]. Tam Nông cũng là một huyện có diện tích rừng khá đáng kể 2,87 nghìn ha (2007). Diện tích rừng sản xuất chủ yếu trồng bạch đàn để lấy gỗ phục vụ sản xuất giấy và làm nhiên liệu. Về phát triển làng nghề: Năm 2004, Uỷ ban Nhân dân tỉnh đã công nhận làng nghề mộc Minh Đức- xã Thanh Uyên. Đồng thời hỗ trợ vốn để phát triển nghề mây tre đan tại xã Tam Cường, Thượng Nông và thị trấn Hưng Hóa, phát triển nghề sơn mài truyền thống tại xã Thọ Văn. Cùng với trồng trọt, chăn nuôi nhân dân Tam Nông còn làm các nghề khác như đan lát, làm mộc, đánh cá,... Các sản phẩm làm ra không chỉ phục 12 vụ cuộc sống hàng ngày mà còn được nhân dân đem trao đổi, buôn bán với nơi khác. Việc giao lưu buôn bán ở huyện Tam Nông phát triển từ rất sớm. Tuy nhiên lĩnh vực thương mại chỉ dừng lại ở mức phát triển mạng lưới chợ, hệ thống cửa hàng lớn, nhỏ phân bố đều trong các xã, thị trấn. Bước đầu đã hình thành các điểm bán hàng tập trung ở mỗi xã. 1.4. Đặc điểm văn hóa- xã hội Nhân dân huyện Tam Nông có đời sống tinh thần hết sức phong phú. Có thể nói đây là vùng đất còn lưu truyền nhiều nhất những truyền thuyết, truyện cổ dân gian của tỉnh Phú Thọ. Tuy bị hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm dưới chế độ thực dân phong kiến, những dòng văn học dân gian tiêu biểu là các điệu múa, các làn điệu dân ca hát xoan (1), hát ghẹo (2), hát ví giao duyên, tục ngữ, ca dao về kinh nghiệm lao động sản xuất,... vẫn tồn tại và ngày càng được phát huy. Đặc biệt ở Tam Nông còn lưu truyền nhiều câu chuyện đặc sắc, tiêu biểu là truyện cười Văn Lang (xã Văn Lương ngày nay) mang tên quốc gia thời dựng nước. Những câu chuyện vừa ca ngợi tinh thần hăng say lao động của nhân dân vừa đả kích, châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu cay đối với tầng lớp thống trị, cường hào trong làng đồng thời góp phần phê phán những thói hư, tật xấu của con người, thể hiện khát vọng về một đời sống đầy đủ, tốt đẹp như: “Sắn qua đường 24”, “Xôi dẻo”, “Cây rau dền”, “Ba vạ”,... Bên cạnh đó, vùng đất Tam Nông còn bảo tồn và lưu giữ được nhiều loại hình vă hóa dân gian khác mang đặc trưng từng địa phương như tục chạy lợn, cướp cờ (Cổ Tiết), cầu trâu (Hương Nha), diễn xướng cày bừa 1 Hát Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần, tương truyền có từ thời các vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ chức các cuộc hát Xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới. Có 3 hình thức hát xoan: hát thờ cúng các vua Hùng và Thành hoàng làng; hát nghi lễ cầu mùa tốt tươi, cầu sức khỏe; và hát lễ hội là hình thức để nam nữ giao duyên. Ca nhạc của Xoan là ca nhạc biểu diễn với đầy đủ các dạng thức nhạc hát: hát nói, hát ngâm, ngâm thơ và ca khúc; có đồng ca nữ, đồng ca nam, tốp ca, đối ca, hát đa thanh, hát đuổi, hát đan xen, hát có lĩnh xướng và hát đối đáp.Trong hát Xoan, múa và hát luôn đi cùng và kết hợp với nhau, dùng điệu múa minh họa nội dung cho lời ca 2 Hát ghẹo là hình thức hát nước nghĩa trong dịp hội làng của người Việt và người Mường hay còn gọi là hát giao duyên nam nữ. Sự tích hát Ghẹo gắn với việc dựng lại ngôi đền làng Nam Cường. Nội dung lời hát Ghẹo cũng như các loại hình dân ca trữ tình khác, phần lớn đều có hình thức và nội dung như cao dao hoặc rất gần gũi với ca dao, thường được tổ chức vào những ngày hội mùa xuân, mùa thu, ngày hội được mùa và những đêm trăng sáng. 13 (Hương Nha), thi cướp phết(3) (Hiền Quan) [xem phụ lục 3], múa mo (Nam Cường),... Hàng năm mỗi dịp xuân về, các lễ hội, các tục lệ được các địa phương tổ chức tại các ngôi đình của làng. Có hội tổ chức 2-3 ngày, có hội tổ chức 3-5 ngày, thu hút đông đảo tầng lớp nhân dân tham gia, tạo nên không khí hết sức sôi nổi [20]. Nhân dân huyện Tam Nông sống thành các làng với nhiều gia đình nhỏ tập trung. Nhà của nhân dân huyện Tam Nông trước kia được làm từ những nguyên liệu như tre, gỗ, cọ,... Ngày nay, các vật liệu mới xuất hiện, kiến trúc nhà ở, đặc biệt là kiến trúc đình, chùa rất đa dạng, phong phú và đặc sắc. Hiện nay, trên địa bàn huyện Tam Nông còn 2 ngôi đình, 25 ngôi chùa, 10 ngôi đền, 6 ngôi miếu với gần 90 % số dân theo nghi lễ tôn giáo của đạo Phật [20]. Mỗi ngôi đình, chùa đều mang nét kiến trúc khác nhau, nhưng đều là các công trình có giá trị văn hóa nghệ thuật cao, thể hiện tài năng kiến trúc và điêu khắc dân gian cũng như óc sáng tạo, thẩm mỹ tinh tế của nhân dân địa phương. Trong những năm gần đây, một số công trình lịch sử văn hóa của Tam Nông được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia như di tích ở xóm Đồi xã Cổ Tiết, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường lên chiến khu Việt Bắc chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã dừng chân ở lại một số ngày [Xem Phụ lục 4]; cột cờ Hưng Hóa thị trấn Hưng Hóa [Xem phụ lục 5-6]. Về di tích kiến trúc nghệ thuật cổ có đền Thượng (xã Hương Nha); chùa Vực Trường (xã Vực Trường); đình, chùa Quang Húc (xã Quang Húc), đình Cổ Tiết [Xem phụ lục 7]... Năm 1992 đình Quang Húc được Bộ Văn hóa- Thông tin quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa [Xem phụ lục 8]. Hàng năm vào dịp lễ, dân làng mở hội tưng bừng, nhiều trò 3 Hội phết Hiền Quan được tổ chức vào ngày 13 tháng Giêng hàng năm là trò diễn lại sự tích lịch sử của nữ tướng Thiều Hoa, một tướng giỏi dưới thỏi Hai Bà Trưng. Vào ngày hội, tại sân đình Hiền Quan, trước đông đảo người dự lễ. Sau khi Chủ tế đọc tiểu sử và công lao của Bà Thiều Hoa thì tiến hành rước quả phết được làm bằng củ tre. Các đấu thủ được chia làm hai tốp. Trên sân giữa hai tốp đào một cái hố sâu 60- 70cm và thả quả phết vào đó. Các đấu thủ cầm rùi phết thi nhau moi quả phết lên. Mọi người xung quanh hố hò reo cổ vũ, ai giành được phết đem về thì năm đó có nhiều may mắn. 14 chơi dân gian diễn ra và đình Quang Húc trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa của nhân dân vùng lưu vực sông Bứa [18, tr.23- 28]. Nơi đây còn khá nhiều ngôi Đình, Đền, Chùa, Miếu… thờ Đức Thánh Tổ Hùng Vương cùng các Bộ tướng của ngài. Bên cạnh đó ở Tam Nông cũng tồn tại rất nhiều truyền thuyết, sự tích và những lễ hội cổ truyền mang đậm yếu tố văn hóa cổ xưa. Các làng xã ở đây còn là nơi in dấu ấn lịch sử của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa của Lý Nam Đế, rồi phong trào Cần Vương do Nguyễn Quang Bích lãnh đạo… Cùng tồn tại với nền văn hóa vật chất và văn hóa dân gian đặc sắc, vùng đất Tam Nông còn bảo lưu được rất nhiều truyền thuyết, huyền thoại về thuở bình minh của đất nước và khởi nguồn dân tộc. Những câu chuyện “Tản Viên Sơn Thánh” (Sơn Tinh), hay Cao Sơn, Qúy Minh, thần núi, thần sông, thần đầm, thần ghềnh, thần bến dọc sông Đà, sông Thao như thần ghềnh Ngọc Tháp, Hùng Hải trị nước, ông Hộ giết thuồng luồng,... là những nhân vật tham gia vào công việc trị thủy từ xa xưa, được nhân dân thần thánh hóa đều bắt nguồn từ nơi đây. Bên cạnh dòng văn hóa dân gian phong phú, đa dạng do nhân dân sáng tạo nên, ở Tam Nông cũng có những danh nho nổi tiếng làm rạng danh cho quê hương làng xã được sử sách ghi nhận và ca ngợi như Nguyễn Quang Bích, Lý Bật. Tam Nông còn là vùng đất hiếu học. Ông bà, cha mẹ dạy dỗ con cháu điều hay lẽ phải, ngăn ngừa thói hư, tật xấu. Tính đến 2003, toàn huyện có tất cả các loại hình trường phổ thông từ giáo dục mầm non đến tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông với hàng chục vạn học sinh theo học [18, tr.28] Khai thác tiềm năng du lịch trên cơ sở phát huy các lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn đa dạng hoá sản phẩm các loại hình du lịch. Lễ hội truyền thống có ở hầu hết các xã, thị trấn, các lễ hội phục 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất