Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng...

Tài liệu Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng

.PDF
135
3
83

Mô tả:

Formatted: Left ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LẠI THỊ HỒNG NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LẠI THỊ HỒNG NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ CỦA VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan HÀ NỘI - 2012 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG 6 CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 1.1. Khái niệm chung về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 6 1.1.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng 6 1.1.1.1. Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung 7 1.1.1.2. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng 13 1.1.2. Mối quan hệ giữa các quy định về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng và việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 18 1.2. Một số vấn đề lý luận công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 20 1.2.1. Khái niệm thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 20 1.2.2. Khái niệm công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 21 1.2.3. Yêu cầu đối với văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 26 1.2.3.1. Yêu cầu về hình thức đối với văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 26 1.2.3.2. Yêu cầu về nội dung của văn bản công chứng thỏa thuận về 27 4 tài sản của vợ chồng 1.2.3.3. Trình tự, thủ tục chung công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 29 1.3. Ý nghĩa pháp lý của việc công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 31 Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT YÊU CẦU CÔNG 38 CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG TẠI CƠ QUAN CÔNG CHỨNG 2.1. Các trường hợp phát sinh yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 38 2.1.1. Yêu cầu công chứng theo quy định của pháp luật 38 2.1.2. Yêu cầu công chứng theo ý chí tự nguyện của vợ chồng 41 2.1.3. Công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng theo yêu cầu của bên thứ ba có liên quan đến giao dịch về tài sản với vợ chồng 42 2.2. Áp dụng pháp luật để công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong thực tiễn 43 2.2.1. Công chứng thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản chung của vợ chồng 43 2.2.2. Công chứng thỏa thuận (cam kết) tài sản riêng của vợ, chồng 46 2.2.3. Công chứng thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 50 2.2.4. Công chứng thỏa thuận chia tài sản chung sau khi ly hôn 59 2.2.5. Công chứng thỏa thuận tặng cho tài sản giữa vợ và chồng 62 2.2.6. Thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân 66 2.2.7. Thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của vợ chồng 69 2.2.8. Công chứng thỏa thuận ủy quyền giữa vợ và chồng 72 5 2.2.9. Công chứng các thỏa thuận sửa đổi, bổ sung và hủy bỏ hợp đồng, giao dịch giữa vợ và chồng 76 Chương 3: 79 MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG VIỆC CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Những vướng mắc phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 79 3.1.1. Những vướng mắc phát sinh trong việc áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình 79 3.1.2. Những vướng mắc trong việc áp dụng Luật Nhà ở 84 3.1.3. Những vướng mắc trong việc áp dụng Luật Đất đai 87 3.1.4. Một số điểm tồn tại trong việc áp dụng Luật Công chứng 89 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 98 3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật là cơ sở pháp lý công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng 98 3.2.1.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình 98 3.2.1.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn hiện các quy định về pháp luật nhà ở 101 3.2.1.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật đất đai 103 3.2.1.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật công chứng 104 3.2.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả của hoạt động công chứng 113 KẾT LUẬN 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 118 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự CCV : Công chứng viên LCC : Luật Công chứng LHN&GĐ : Luật Hôn nhân và gia đình UBND : Ủy ban nhân dân VPCCHN : Văn phòng công chứng Hà Nội Formatted: Left 7 8 MỞ ĐẦU Formatted: Indent: First line: 0.5" 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nền kinh tế thị trường mang lại cho kinh tế gia đình những cơ hội, đồng thời cũng đặt kinh tế gia đình trước những rủi ro và thách thức. "Gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Coi đầu tư cho gia đình là đầu tư cho sự phát triển bền vững" [32]. Với vai trò quan trọng như vậy, Nhà nước cần phải có chính sách nhằm bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững cho gia đình và xã hội. Hoạt động công chứng hợp đồng, giao dịch đã tỏ rõ là giải pháp hiệu quả để Nhà nước quản lý và bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch phát sinh trong xã hội, trong đó có giao dịch về tài sản của vợ chồng trong thời gian qua. Thỏa thuận về tài sản của vợ chồng xuất phát từ yêu cầu chính đáng của vợ chồng trong việc chủ động nguồn vốn đề đầu tư kinh doanh, hạn chế các rủi ro có thể gặp phải, bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng và gia đình. Tuy nhiên, do trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế cộng với quy định còn phức tạp, chưa cụ thể và thống nhất của pháp luật đã làm cho vợ chồng lúng túng, e ngại khi lập văn bản thỏa thuận về tài sản. Trong khi đó, công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng đã tỏ rõ những ưu việt của mình trong việc bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng, từ đó bảo đảm quyền và lợi ích của vợ chồng và người thứ ba có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng, đồng thời hạn chế các tranh chấp có thể phát sinh. Vì vậy, việc công chứng thỏa thuận về tài sản được vợ chồng quan tâm, lựa chọn ngay cả khi pháp luật không yêu cầu bắt buộc thỏa thuận về tài sản của vợ chồng phải được công chứng. 9 Formatted: Space Before: 0 pt Trong khi nhu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trong xã hội không ngừng gia tăng thì các quy định của pháp luật lại chưa theo kịp với thực tiễn, các quy định hiện hành còn chưa rõ ràng, thống nhất đã gây khó khăn cho công chứng viên (CCV) trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết các yêu cầu công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trên thực tế. Mặc dù là một vấn đề không mới và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của xã hội nói chung và gia đình nói riêng nhưng vấn đề công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện. Nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc nâng cao giá trị pháp lý của văn bản công chứng liên quan đến thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, một vấn đề quan trọng mà những người làm nghề dịch vụ công chứng như chúng tôi phải bảo đảm. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: "Những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề công chứng dưới góc độ là hoạt động bổ trợ tư pháp đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu như: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, của Đặng Văn Khanh; "Nghiên cứu so sánh pháp luật về công chứng một số nước trên thế giới nhằm góp phần xây dựng luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, của Tuấn Đạo Thanh… Vấn đề công chứng giao dịch tài sản nói chung cũng đã được quan tâm nghiên cứu như: "Một số vấn đề về công chứng giao dịch tài 10 sản ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Đỗ Xuân Hòa. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu các giao dịch tài sản nói chung, còn việc nghiên cứu những vấn đề pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng dưới góc độ thực hiện quyền tài sản của vợ chồng thì chưa có công trình nghiên cứu nào được thực hiện. Vì vậy, có thể khẳng định, đề tài là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách chuyên sâu, có hệ thống, toàn diện về vấn đề công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các yêu cầu công chứng trên thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Đề tài nghiên cứu nhằm các mục đích sau đây: + Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về tài sản của vợ chồng, với vai trò là cơ sở pháp lý đảm bảo tính hợp pháp, có căn cứ của các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại cơ quan công chứng; + Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về công chứng nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng. - Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: + Giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến chế định tài sản của vợ chồng là cơ sở pháp lý thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, xây dựng văn bản công chứng và bảo đảm giá trị của văn bản công chứng. + Nghiên cứu một số tình huống thỏa thuận về tài sản của vợ chồng đã gặp trong thực tiễn tại Văn phòng Công chứng Hà Nội (VPCCHN). + Phân tích mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật về tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Đất đai, Luật Nhà ở… và Luật Công chứng (LCC), trên cơ sở đó có những đề xuất nhằm bảo đảm tính chính xác, khách quan và giá trị pháp lý của văn bản công chứng, nâng cao 11 hiệu quả thực hiện công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại các cơ quan công chứng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: + Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về tài sản của vợ chồng và pháp luật công chứng để xác định cơ sở pháp lý xây dựng và công chứng văn bản thỏa thuận về tài sản của vợ chồng. + Phân tích, đánh giá một số tình huống công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thường gặp tại VPCCHN. Để đảm bảo giữ bí mật các thông tin về nội dung công chứng theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 12 của LCC, các tình huống tại luận văn được xây dựng trên cơ sở các tình huống đã gặp từ thực tiễn. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: + Trong phạm vi luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ nghiên cứu việc công chứng các thỏa thuận về tài sản giữa vợ và chồng mà không nghiên cứu việc công chứng các thỏa thận khác về tài sản giữa vợ chồng với người thứ ba như mua bán, tặng cho… Luận văn chỉ xem xét và đánh giá một số tình huống công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng thường gặp tại VPCCHN. + Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả cũng chỉ tập trung nghiên cứu chế định tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình (LHN&GĐ) năm 2000 với vai trò là cơ sở pháp lý để xây dựng một văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, không nghiên cứu các vấn đề về nghiệp vụ công chứng. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài - Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: so sánh, phân 12 tích, tổng hợp, thống kê. 6. Những điểm mới và đóng góp của đề tài - Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống những khía cạnh pháp lý của việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng. - Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng, phát hiện những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng trên thực tiễn. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật liên quan đến việc công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng để đảm bảo giá trị pháp lý của văn bản công chứng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về công chứng các thỏa thuận tài sản của vợ chồng. Chương 2: Áp dụng pháp luật giải quyết yêu cầu công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng tại cơ quan công chứng. Chương 3: Những vướng mắc, bất cập trong việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng và một số kiến nghị. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG CÁC THỎA THUẬN VỀ TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 1.1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG 1.1.1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng Quan hệ vợ chồng được hình thành từ sự kiện kết hôn, sự kiện này làm phát sinh quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng. Kết hôn còn là một trong các sự kiện làm phát sinh một gia đình, với các chức năng sinh đẻ, giáo dục và chức năng kinh tế. Sau khi kết hôn, vợ chồng có trách nhiệm chăm sóc cho nhau, cùng nhau chia sẻ việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái cũng như thực hiện các giao dịch nhằm đảm bảo các nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình. Để thực hiện được điều này, vợ chồng phải cùng nhau duy trì một khối tài sản chung nhằm nuôi sống và đáp ứng các nhu cầu của các thành viên trong gia đình. Vì vậy, quyền sở hữu tài sản là yếu tố quan trọng để bảo đảm sự tồn tại và phát triển của gia đình. Dưới góc độ pháp lý, "quyền sở hữu là tổng hợp một hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự" [63, tr. 178]. Như vậy, quyền sở hữu tài sản của vợ chồng được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chính các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng. Quyền sở hữu này bao gồm quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng của mỗi bên và quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản chung. Vì vậy, vợ chồng có thể cùng lúc duy trì hai hình thức sở hữu đối với tài sản đó là sở hữu chung đối với tài sản chung của vợ chồng và sở hữu riêng đối với tài sản riêng. Formatted: Vietnamese (Vietnam) Trong thời kỳ hôn nhân, xuất phát từ tính cộng đcồng của quan hệ hôn nhân, đòi hỏi vợ, chồng phải duy trì một khối tài sản chung để đảm bảo các 14 nhu cầu của vợ, chồng và các thành viên trong gia đình. Vì vậy, pháp luật cần quy định cơ sở pháp lý để xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung, là căn cứ để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình, quyền và lợi ích của các thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, ngoài tài sản chung, vợ chồng có thể có tài sản riêng là những tài sản hình thành trước khi kết hôn, khi chưa bị các quan hệ hôn nhân gia đình chi phối hoặc những tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng... Mỗi hình thức sở hữu có đặc thù pháp lý riêng biệt, vì vậy, việc xác định quyền sở hữu chung, sở hữu riêng của vợ chồng có ý nghĩa quan trọng đối với việc công chứng các thỏa thuận về tài sản của vợ chồng. 1.1.1.1. Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung là một trong các cơ sở pháp lý để bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng thỏa thuận về tài sản của vợ chồng. Vì vậy, việc CCV xác định đúng quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản yêu cầu công chứng sẽ góp phần quan trọng trong việc bảo đảm "tính hợp pháp" của văn bản công chứng.  Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 27 của LHN&GĐ năm 2000: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung [46]. Như vậy, việc xác định quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung dựa vào các căn cứ là thời kỳ hôn nhân và nguồn gốc phát sinh tài sản. - Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân. Sau khi kết hôn, vợ chồng cùng chung sống với nhau, cùng nhau tạo dựng tài sản chung và thực hiện các nghĩa vụ tài sản nhằm bảo đảm nhu cầu 15 của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, vì vậy, pháp luật cần quy định cơ sở pháp lý để bảo đảm vợ chồng có thể sở hữu chung đối với tài sản trong thời kỳ hôn nhân. "Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân" [46, Điều 8]. Như vậy, ngày đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là mốc thời gian bắt đầu tính thời kỳ hôn nhân. Những tài sản mà vợ chồng có được từ ngày đăng ký kết hôn cho đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng (trừ những tài sản được pháp luật quy định là tài sản riêng như được tặng cho riêng, được thừa kế riêng, tài sản có được từ việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân). Trên thực tế, để do điều kiện lịch sử, phong tục tập quán, chiến tranh kéo dài nên rất nhiều trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình và góp phần giải quyết tình trạng "hôn nhân thực tế" ở nước ta, đối với các trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà không đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được pháp luật thừa nhận. Điểm a, Mục 3 của Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Theo Mục 1 của Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực 16 hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn. Đây là một trường hợp ngoại lệ của LHN&GĐ năm 2000, trong trường hợp này, thời kỳ hôn nhân không được tính từ ngày đăng ký kết hôn mà được tính từ ngày vợ chồng chung sống với nhau trên thực tế. Như vậy, trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì tài sản mà họ có được, thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác từ "ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng" là tài sản chung của vợ chồng. Ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân được xác định dựa vào sự kiện: vợ, chồng chết; quyết định tuyên bố vợ, chồng bị chết của Tòa án có hiệu lực pháp luật; bản án ly hôn, quyết định về ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đất đai là một tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân, do vậy, vợ chồng chỉ có quyền sử dụng đất mà không có quyền sở hữu đất. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 27 của Luật Đất đai năm 2003LHN&GĐ năm 2000: "Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận" [48]. Như vậy, thời kỳ hôn nhân cũng là căn cứ để xác định quyền sử dụng chung của vợ chồng đối với đất đai. Trong thời kỳ hôn nhân, các tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân chỉ là một trong các căn cứ để xác định tài sản chung của vợ chồng. Để xác định chính xác tài sản của vợ, chồng 17 Formatted: Vietnamese (Vietnam) là tài sản chung hay tài sản riêng, CCV còn phải căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng. - Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh tài sản của vợ chồng. Tài sản của vợ chồng có thể được hình thành từ nhiều nguồn gốc khác nhau như từ hoạt động lao động của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, từ sự định đoạt hợp pháp của chủ sở hữu tài sản (tặng cho, thừa kế), từ sự thỏa thuận của vợ chồng hoặc từ nguồn gốc hợp pháp khác được pháp luật thừa nhận. + Hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh của vợ chồng là nguồn gốc tạo lập tài sản chủ yếu của vợ chồng. Tài sản được hình thành do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh có thể là tiền lương, phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng, lợi nhận từ đầu tư sản xuất kinh doanh, lợi tức thu được từ việc góp vốn, đầu tư chứng khoán... Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản do vợ chồng "tạo ra" trong thời kỳ hôn nhân. Những tài sản này do vợ chồng dùng tài sản do lao động, sản xuất kinh doanh và các nguồn tài sản hợp pháp khác để mua sắm, trao đổi như máy vi tính, ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh… + Quyền sở hữu tài sản chung của vợ chồng có thể được xác lập do sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản khi tặng cho hoặc để lại thừa kế cho cả hai vợ chồng. Trường hợp này, việc xác lập quyền sở hữu tài sản của vợ chồng trên cơ sở định đoạt hợp pháp tài sản từ người khác qua việc tặng cho tài sản hoặc được hưởng di sản do thừa kế theo di chúc. Việc tặng cho tài sản có giá trị thường được thực hiện đối với những người có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng như bố, mẹ, vợ, chồng, con, tuy nhiên, cũng không loại trừ những trường hợp khác. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Đối với trường hợp vợ chồng được hưởng 18 di sản theo di chúc mà di chúc để lại di sản cho cả hai vợ chồng, không phân định rõ phần di sản mà mỗi người được hưởng thì di sản đó là tài sản chung của hai vợ chồng. + Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản chung còn được xác lập trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng. Trong thời kỳ hôn nhân, việc cùng nhau tạo lập tài sản, đóng góp tài sản để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu của gia đình thể hiện trách nhiệm của vợ, chồng đối với các thành viên trong gia đình. Vì vậy, việc thỏa thuận nhập tài sản riêng của vợ, chồng vào khối tài sản chung để làm giàu cho khối tài sản chung của vợ chồng cần được khuyến khích. Trên thực tế, có nhiều tài sản có nguồn gốc là tài sản riêng nhưng được vợ, chồng sử dụng cho gia đình, lâu dần không còn chứng cứ để xác định tài sản đó là tài sản riêng hay tài sản chung thì vợ chồng hoàn toàn có thể thỏa thuận để công nhận tài sản đó là tài sản chung. Xuất phát từ những lý do như vậy, nhằm đảm bảo sự cân bằng, hợp lý và bảo đảm lợi ích của gia đình cũng như các thành viên trong gia đình, pháp luật quy định "những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" [46, Điều 27]. + Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng còn được xác lập dựa trên các căn cứ được pháp luật thừa nhận. Những tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở hữu theo quy định của pháp luật do phát hiện vật vô chủ, vật không xác định được chủ sở hữu, tìm thấy vật bị chôn giấu, chìm đắm, vật do người khác đánh rơi, bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc… cũng là tài sản chung của hai vợ chồng. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 27 của LNH&GĐ năm 2000: "Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung" [46]. Đây là nguyên tắc suy đoán về tài sản chung của vợ chồng, lần đầu tiên được quy định trong 19 LNH&GĐ năm 2000, pháp luật về hôn nhân và gia đình trước đây chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Theo Điểm a, Khoản 3 của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm: "tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số, mà vợ, chồng có được" [58].  Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung. Vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản chung. Sự phát triển của quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ dựa vào sự nỗ lực, cố gắng của một cá nhân, quan hệ này đòi hỏi sự nỗ lực, chung sức, chung lòng của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, việc ỷ lại của một bên sẽ làm cho quan hệ hôn nhân và gia đình khó phát triển. Vì vậy, trách nhiệm tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người là trách nhiệm của vợ chồng. Bên cạnh các quyền hưởng thụ từ tài sản như chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thì vợ chồng phải có trách nhiệm cùng nhau tạo lập khối tài sản chung đó. Đối với tài sản thuộc sở hữu chung, vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Tuy nhiên, về nguyên tắc, việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ, chồng phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận và chỉ để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình. Quy định này nhằm xác định nghĩa vụ chung của vợ, chồng đối với các giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng 20 thực hiện vì lợi ích chung của gia đình. Vợ, chồng có thể trực tiếp thực hiện các giao dịch hoặc ủy quyền cho vợ hoặc chồng đại diện cho mình thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Khoản 1, Điều 24 của LHN&GĐ năm 2000 quy định: "Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản" [46, Điều 24]. Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở đảm bảo cho gia đình tồn tại và phát triển, đảm bảo quyền và lợi ích của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, đồng thời để thực hiện nghĩa vụ tài sản chung nhằm phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia đình... Thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, vợ chồng có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối. Đối với việc định đoạt tài sản chung giữa vợ và chồng, vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận tặng cho tài sản giữa vợ và chồng, thỏa thuận chia tài sản chung của "vợ chồng" sau khi ly hôn, thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng… 1.1.1.2. Quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng Vợ, chồng chỉ có quyền xác lập các giao dịch về tài sản nếu tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình… Do vậy, việc xác định quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm giá trị pháp lý của văn bản công chứng.  Căn cứ xác lập quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho các bên theo thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan