Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố hà...

Tài liệu Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
108
3
144

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN BÍCH HUYỀN NH¢N TH¢N NG¦êI PH¹M TéI VíI VIÖC QUYÕT §ÞNH H×NH PH¹T Tõ THùC TIÔN THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Người cam đoan Nguyễn Bích Huyền MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: MÔT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT .........................................6 1.1. Một số vấn đề lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội ................................6 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội ............................................................6 1.1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội ...........................................................10 1.2. Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt ......................................18 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt ..................................................................19 1.2.2. Các nguyên tắc quyết định hình phạt ..........................................................28 1.2.3. Các căn cứ quyết định hình phạt .................................................................30 1.3. Nhân thân ngƣời phạm tội là một trong các căn cứ quyết định hình phạt ....................................................................................................34 Chƣơng 2: QUY ĐỊNH VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI VỚI VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH .......................................................................................38 2.1. Quy định về nhân thân ngƣời phạm tội với việc miễn hình phạt .........38 2.2. Quy định về nhân thân ngƣời phạm tội với việc quyết định hình phạt nhẹ hơn ..............................................................................................41 2.3. Quy định về nhân thân ngƣời phạm tội với việc quyết định hình phạt nặng hơn ............................................................................................52 2.3.1. Các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội với tư cách là yếu tố cấu thành tăng nặng khung hình phạt: ...............................................................52 2.3.2. Các tình tiết thuộc nhân thân người phạm tội là yếu tố quyết định hình phạt nặng hơn trong một khung hình phạt ..................................................55 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI TRONG VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ..................................................................69 3.1. Thực tiễn áp dụng quy định về nhân thân ngƣời phạm tội trong việc quyết định hình phạt trên địa bàn thành phố Hà Nội ....................69 3.1.1. Kết quả đạt được .........................................................................................69 3.1.2. Những vi phạm, sai lầm ..............................................................................73 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng nhân thân ngƣời phạm tội trong việc quyết định hình phạt ...............................................................78 3.2.1. Hoàn thiện về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự ....................................79 3.2.2. Xây dựng án lệ ............................................................................................86 3.2.3. Tăng cường công tác hướng dẫn thi hành pháp luật và tổng kết công tác xét xử trên địa bàn thành phố Hà Nội ....................................................88 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc việc xét xử của hai cấp Tòa án thành phố Hà Nội....................................................................................89 3.2.5. Nâng cao năng lực và ý thức pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và luật sư trên địa bàn thành phố Hà Nội .....................90 KẾT LUẬN ..............................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................98 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử NTNPT: Nhân thân người phạm tội QĐHP: Quyết định hình phạt TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Kết quả xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm của hai cấp TAND thành phố Hà Nội từ năm 2010 – 2014 70 Bảng 3.2: Số liệu quyết định hình phạt trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự trên địa bản thành phố Hà Nội 72 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài QĐHP là một hoạt động rất quan trọng, không thể thiếu của giai đoạn xét xử một vụ án hình sự. Việc Toà án tuyên một hình phạt đảm bảo tính công lý có ý nghĩa chính trị, xã hội và pháp lý hết sức to lớn. QĐHP đúng, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng của pháp luật hình sự, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chính là để bảo vệ pháp chế và chế độ Xã hội chủ nghĩa, là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được các mục đích của hình phạt. Quyết định một hình phạt đúng pháp luật sẽ là cơ sở quan trọng để có thể nâng cao hiệu quả của hình phạt. Hình phạt đã tuyên, một mặt phải thể hiện được sự trừng trị cần thiết của Nhà nước đối với người phạm tội, để có thể răn đe được người phạm tội và những người khác, ngăn ngừa họ thực hiện hành vi phạm tội; giáo dục, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Mặt khác, hình phạt đã tuyên cũng phải bảo đảm được tính chất là một phương tiện giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm. Để đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật của hoạt động QĐHP, pháp luật hình sự nước ta đã chính thức ghi nhận các căn cứ QĐHP trong BLHS để Toà án dựa vào khi QĐHP. Trong các căn cứ đó, ngoài các quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là những căn cứ quan trọng bước đầu, thì NTNPT và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách hình sự thuộc NTNPT là những căn cứ tiếp theo không kém phần quan trọng, bảo đảm cho Tòa án quyết định được loại hình phạt, mức hình phạt đúng. Đây là một trong những biểu hiện nhân đạo, công bằng và cá thể hóa hình phạt được thể hiện rõ trong luật hình sự nước ta, được thực tiễn xét xử khẳng định và ghi nhận. Việc áp dụng đúng NTNPT trong QĐHP có ý nghĩa cải tạo, giáo dục và phòng ngừa rất lớn. Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tiễn áp dụng các căn cứ QĐHP từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực đến nay trên địa bàn Hà Nội đã cho thấy vẫn còn nhiều Toà 1 án mắc phải những sai sót nhất định khi thực hiện hoạt động QĐHP, nhất là trong việc áp dụng NTNPT với QĐHP. Mặt khác, xuất phát từ việc nhận thức rõ hậu quả tiêu cực cho xã hội do hoạt động QĐHP không đúng gây ra, chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu một cách căn bản, có hệ thống về “NTNPT với việc QĐHP” dưới góc độ lý luận và thực tiễn là hết sức cần thiết và có giá trị nhằm nâng cao nhận thức và khắc phục những vướng mắc, thiếu sót trong thực tiễn hoạt động QĐHP của Toà án. Ngoài ra, nghiên cứu nâng cao hiệu quả việc áp dụng NTNPT trong QĐHP cũng là một nhiệm vụ cấp thiết để xây dựng pháp luật hình sự công bằng, nhân đạo, dân chủ và công minh trong nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, vấn đề NTNPT và QĐHP không chỉ được đề cập đến trong giáo trình Luật hình sự của các trường đại học như Đại học Luật Hà Nội, khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội... để đào tạo cử nhân luật học, cán bộ tư pháp tương lai, mà còn là mối quan tâm của các cán bộ làm công tác xét xử, là trọng tâm nghiên cứu của các nhà khoa học pháp lý hình sự như: GS. TSKH. Đào Trí Úc, Nghiên cứu và phòng ngừa tội phạm của những người chưa thành niên ở Việt Nam (Phần 1), Luận án Phó tiến sỹ (tiến sỹ), M.1981; ThS. Phạm Thanh Bình: Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/1995; ThS. Nguyễn Mai Bộ: Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/1999; ThS. Đinh Văn Quế: Một số điểm mới của Bộ luật Hình sự năm 1999 về hình phạt và QĐHP - Tạp chí Tòa án nhân dân số 3/2000; Đặng Xuân Đào: “Một số nội dung mới của các quy định về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999” - Tạp chí Tòa án nhân dân số 8/2000; GS. TSKH. Lê Cảm: Về bản chất pháp lý của quy phạm “Nguyên tắc QĐHP” tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1+2/1989; Nhân thân người phạm tội - Tạp chí Tòa án nhân dân số 10/2001; 2 GS. TSKH. Lê Cảm và TS. Trịnh Tiến Việt: Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản - Tạp chí Tòa án nhân dân số 1/2002; TS. Trịnh Tiến Việt: Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 1999 và một số kiến nghị - Tạp chí Tòa án nhân dân số 13/2004; TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy: Nhân thân người phạm tội trong luật Hình sự Việt Nam – Luận án tiến sĩ, 2005. Nhìn chung, các công trình, chuyên khảo đề cập đến vấn đề NTNPT và QĐHP mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát nội dung của vấn đề, xem xét NTNPT (ở các cấp độ khác nhau) trong tội phạm học và trong luật hình sự nói chung hoặc về các khía cạnh khác nhau trong một nhóm chủ thể nhất định như người chưa thành niên phạm tội, người phạm tội là phụ nữ. Có thể nói, vấn đề NTNPT trong thực tiễn QĐHP chưa được quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng, chưa được ưu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về NTNPT và QĐHP, chúng tôi nhận thấy cần có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về vấn đề áp dụng NTNPT trong việc QĐHP, phân tích thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ đó có những kiến nghị sửa đổi bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về NTNPT và QĐHP. Cũng qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động QĐHP của Toà án để đạt được mục đích cuối cùng của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề chung về NTNPT và QĐHP, cụ thể là: khái niệm, các đặc điểm của NTNPT; khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc và các căn cứ QĐHP cũng như nhấn mạnh NTNPT là một trong các căn cứ QĐHP. Thứ hai, làm rõ sự ảnh hưởng của các tình tiết NTNPT trong việc QĐHP ở các phương diện: miễn hình phạt, QĐHP nhẹ hơn và QĐHP nặng hơn. 3 Thứ ba, chỉ ra được những sai sót trong thực tiễn áp dụng các quy định về NTNPT trong QĐHP trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng đúng các quy định này. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn xác định tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về NTNPT và QĐHP, cùng với các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về NTNPT với việc QĐHP và thực tiễn áp dụng các quy định này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Thứ nhất, về quy định pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của BLHS năm 1999 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành về NTNPT và QĐHP. Thứ hai, về địa bàn nghiên cứu, luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử tại các Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2014. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; khảo sát thực tiễn xét xử qua các vụ án điển hình… Ngoài ra, tác giả có chọn lọc kết quả của các bài viết, công trình nghiên cứu đã công bố, các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn về những vấn đề có liên quan đến việc nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn NTNPT và QĐHP là những vấn đề được khá nhiều tác giả nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Thực tế đó đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu đề tài nhưng cũng chính là khó khăn lớn đối với tác giả vì sẽ không 4 tránh khỏi sự trùng lặp về những kiến thức pháp luật hình sự cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi trong khoa học pháp lý. Mặc dù vậy, dựa trên những nghiên cứu lý luận về NTNPT và QĐHP, tìm hiểu quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và kết quả đánh giá thực tiễn áp dụng NTNPT với việc QĐHP trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của các Toà án trên địa bàn thành phố Hà Nội có thể thấy ý nghĩa của luận văn là: Thứ nhất, góp phần đảm bảo sự nhận thức thống nhất những vấn đề chung về NTNPT và QĐHP. Thứ hai, chỉ ra những sai sót trong thực tiễn vận dụng và nguyên nhân của việc áp dụng chưa đúng những quy định về NTNPT trong QĐHP. Thứ ba, đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm việc áp dụng đúng NTNPT trong QĐHP trong thực tiễn xét xử, bao gồm: Giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về NTNPT; Kiến nghị áp dụng căn cứ thực tiễn (án lệ) của hoạt động QĐHP; Nâng cao ý thức pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và luật sư trong việc áp dụng NTNPT với QĐHP. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, phụ lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội và quyết định hình phạt Chương 2: Quy định về nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định về nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt trên địa bàn thành phố Hà Nội và các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƢỜI PHẠM TỘI VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 1.1. Một số vấn đề lý luận về nhân thân ngƣời phạm tội 1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội Tội phạm bao giờ cũng được thực hiện bởi một con người cụ thể mà khi nghiên cứu về tình trạng phạm tội nói chung và tội phạm cụ thể nói riêng, cần thiết phải nêu được những đặc điểm liên quan đến bản thân người phạm tội. Xuất phát từ quan điểm người phạm tội là một con người chứa đựng những đặc điểm vốn có nhất định. Ngoài ra, người phạm tội còn có những đặc điểm khác mà một người bình thường không thể có được cho nên, để nêu được khái niệm NTNPT thì chúng ta phải biết được, phải hiểu được nhân thân của một con người. Theo khái niệm chung của xã hội học Mác – Lênin về nhân thân con người thì nhân thân – đó là bản chất xã hội của con người được thể hiện thông qua vị trí của con người trong hệ thống quan hệ xã hội. Nhân thân là một phạm trù mang tính xã hội – lịch sử. Nhân thân sẽ không thể được làm sáng tỏ nếu xem xét nó với tư cách là một hiện tượng tách biệt và khép kín, tách rời nó với hiện thực xã hội và các điều kiện lịch sử cụ thể đặc trưng cho hiện thực đó. Với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội, được đặc trưng bởi những đặc tính và phẩm chất cá nhân đa dạng, mỗi cá nhân cụ thể có một nhân thân tương ứng. “Khái niệm nhân thân đồng thời cũng bao hàm cả con người với tư cách là một thành viên của xã hội, là một công dân, là đại diện của các giai cấp, các nhóm xã hội nhất định v.v…, là người mang trong mình một số các đặc điểm xã hội điển hình” [44, tr.96]. Một dấu hiệu rất quan trọng của nhân thân con người đó là ý thức, là toàn bộ thế giới tinh thần nội tại của nó. Khi được thiết định bởi các điều kiện xã hội bên ngoài, bản thân thế giới tinh thần này trở thành một yếu tố cấu thành tích cực của nhân thân, nó trung gian hóa sự tác động của mọi biểu hiện trong xã hội đến con người sao cho phù hợp với nội dung riêng của nó; đồng thời trong mỗi trường hợp 6 cụ thể, nó xác định việc con người sẽ lựa chọn lập trường xã hội nào, lựa chọn cách xử sự này hay cách xử sự khác. Các hiện tượng tâm lý đan xen một cách hữu cơ với cuộc sống toàn vẹn của cá nhân, vì chức năng hoạt động cơ bản của mọi hiện tượng và quá trình tâm lý là điều tiết hoạt động của con người. Khi nói đến nhân thân con người là chúng ta muốn nói đến sự tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm, dấu hiệu sinh học, nhân khẩu học các đặc điểm về xã hội học, đạo đức – tâm lý. Cần phải quan tâm đến các giá trị xã hội và phương diện của hiện thực xã hội, những người xung quanh, gia đình, bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, anh em, tài sản, lao động, các nghĩa vụ công dân v.v… Nội dung của các mối quan hệ đó đặc trương cho định hướng của nhân thân. Đối với nhân thân, quan trọng hơn cả là có được các mối quan hệ sâu sắc và ổn định, vì xuất phát từ đó mà hình thành nên quan điểm, lý tưởng, lập trường, quan niệm đạo đức của con người. “Cách xử sự của con người trong xã hội – mà nhân thân thể hiện ra bên ngoài, cũng gắn liền với lĩnh vực trí tuệ, cảm xúc và ý chí của nhân thân” [44, tr.99] Bản chất của nhân thân thể hiện ở chỗ nó không bị quy về các đặc thù tâm lý cá nhân của con người, mà là sự thống nhất giữa cái chung, cái đặc thù và cái riêng trong sự phát triển và hình thành. Cho nên nhân thân kế thừa và phản ánh kinh nghiệm xã hội của mọi thế hệ trước, tiếp xúc ở một chừng mực nào đó với các thành tựu văn hóa, lao động, sáng tạo, ứng xử xã hội mang tính nhân loại chung của các dân tộc khác nhau và đồng thời nắm bắt lấy chúng. Ngoài ra, nhân thân bao giờ cũng thể hiện các đặc điểm của một chế độ xã hội nhất định trong ý thức giai cấp, trong thế giới quan chung và lý tưởng chính trị của mình v.v… Cuối cùng, nhân thân con người là sự thể hiện các đặc điểm cá nhân không lặp lại, trong đó phản ánh con đường sinh sống cá thể của con người, sự tồn tại cá nhân của nó – đó là sự tồn tại được quy định bởi một nội dung cụ thể của các mối quan hệ gia đình, sản xuất, sinh hoạt v.v… “Đó cũng chính là môi trường vi mô mà trong đó con người sống, hoạt động và hình thành với tư cách là một nhân thân” [44, tr.100] Từ sự phân tích trên, cho phép chúng ta đưa ra khái niệm nhân thân con 7 người – đó là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu, mối quan hệ xã hội của mỗi con người cụ thể, bao gồm: các đặc điểm, dấu hiệu về xã hội – nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ văn hóa, địa vị xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế; các đặc điểm, dấu hiệu về tâm lý như quan điểm, nhu cầu, sở thích, thói quen, lý trí, ý chí, cảm xúc, tình cảm… và các đặc điểm, dấu hiệu, mối quan hệ xã hội khác. Theo khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị luật hình sự cấm, do con người cụ thể (có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS) thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Như vậy, nói đến NTNPT trong lĩnh vực luật hình sự là nói đến nhân thân của chính con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội. Như đã phân tích ở trên, nhân thân con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Theo đó, NTNPT bao gồm trong nó tổng hợp các đặc điểm của cá nhân về mặt sinh học, mặt xã hội, nói lên tính chất của con người đã thực hiện tội phạm. Con người khi được sinh ra không sẵn chứa trong mình khả năng trở thành tội phạm mà khả năng đó chỉ trở thành hiện thực dưới tác động tiêu cực của nhiều yếu tố trong quá trình con người tự hoàn thiện về mặt sinh học, tâm lý, nhân sinh quan... Quá trình đó cho thấy NTNPT là phạm trù có tính lịch sử vì “những đặc điểm về nhân cách của người phạm tội không phải được tiềm ẩn ở con người đó ngay từ khi mới sinh ra, mà chúng được hình thành dưới sự ảnh hưởng, tác động của môi trường không thuận lợi bên ngoài” [43, tr.50] trong quá trình trưởng thành của con người. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết luận của Mác về bản chất của con người: “Bản chất con người không phải là cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội” [8, tr.257]. Trong khoa học pháp lý hình sự, dựa trên kết luận của Mác đã có nhiều công trình nghiên cứu về NTNPT dưới các góc độ khác nhau. Trong đó, các nhà khoa học luật gia nước ta đã có một số quan điểm về NTNPT như sau: - GS. TSKH. Lê Cảm: “NTNPT theo luật hình sự đó là hệ thống các thuộc 8 tính có ý nghĩa xã hội của người đã thực hiện tội phạm, phản ánh khả năng cải tạo người đó bằng các biện pháp và pháp lý hình sự” [10]. - Theo GS. TS Đỗ Ngọc Quang: “NTNPT là tổng hợp những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con chứa đựng phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội” [27, tr.132] - Theo tác giả Lý Văn Quyền “ khái niệm NTNPT được hiểu là nhân thân người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm đoán và trừng phạt” [45, tr.131] - Theo TS Nguyễn Mạnh Kháng “NTNPT là tổng hợp các đặc tính, các dấu hiệu thể hiện bản chất của con người mà trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và dưới tác động của chính các điều kiện, hoàn cảnh đó động cơ phạm tội nảy sinh” [26]. - Theo ThS Võ Khánh Vinh: “NTNPT tức là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người đó” [53]. - Theo GS.TS Kiều Đình Thụ:” NTNPT là tổng hợp tất cả những khía cạnh xã hội đặc trưng của người phạm tội tạo thành cá nhân, có ý nghĩa giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS” [11, tr.169] Theo quan điểm của chúng tôi, NTNPT – đó là nhân thân của người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm đoán và trừng trị. Như vậy, chỉ có việc thực hiện hành vi phạm tội mới cho phép phân biệt nhân thân của người phạm tội với nhân thân của con người nói chung. Ngoài ra, dù con người có chứa đựng các đặc điểm tiêu cực giống với các đặc điểm đặc trưng cho người phạm tội đến đâu đi nữa thì cũng không được phép coi người đó là người phạm tội nếu họ không thực hiện hành vi phạm tội, cũng như không được phép xuất phát từ tính tất yếu cho rằng cá nhân này hay cá nhân khác phải là tội phạm. NTNPT, dù cho tự nó có những biểu hiện này hay biểu hiện khác, kể cả việc thực hiện tội phạm nghiêm trọng đến đâu chăng nữa, thì để đánh giá đúng về nó và hơn nữa là về nhân thân nói chung cũng chỉ có được trên cơ sở xem xét mọi đặc tính xã hội quan trọng và 9 mọi biểu hiện của nhân thân; nội dung và mối tương quan giữa chúng, cụ thể là “tỷ lệ” giữa các dấu hiệu và biểu hiện xã hội tích cực với các dấu hiệu và biểu hiện tiêu cực của nhân thân trong mối liên hệ qua lại giữa chúng. Chính do tổng thể các đặc tính và dấu hiệu xã hội, cấu trúc và mối tương quan giữa chúng như vậy đã đem lại cho chúng ta một quan niệm đầy đủ về người phạm tội và cho phép hiểu được cách xử sự phạm tội của người đó, nguyên nhân và động cơ phạm tội, và từ kết quả của cách đánh giá như vậy mới có cơ sở đảm bảo cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo cho chính sách hình sự và cho việc chọn lựa các biện pháp cần thiết, thích hợp nhằm giáo dục, cải tạo đối với từng trường hợp cụ thể. Tổng hợp những quan điểm về khái niệm NTNPT và những vấn đề đã trình bày trên đây, dưới góc độ luật hình sự ta có thể hiểu khái niệm NTNPT như sau: NTNPT là tổng hợp các đặc điểm về xã hội, tâm lý, đạo đức, sinh học, nói lên tính chất của con người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự là tội phạm. Các đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật. 1.1.2. Đặc điểm nhân thân người phạm tội Các đặc điểm NTNPT có thể phân chia thành ba nhóm tương ứng với một số lĩnh vực sau: Một là, các đặc điểm về mặt pháp lý hình sự. Hai là, các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học. Ba là, các đặc điểm về mặt đạo đức, tâm lý học. Để thấy rõ vai trò, vị trí và mức độ ảnh hưởng cụ thể của các đặc điểm nêu trên đối với quá trình hình thành nhân cách người phạm tội như thế nào, dưới đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng nhóm đặc điểm đó. 1.1.2.1. Các đặc điểm về mặt pháp lý hình sự của nhân thân người phạm tội Các đặc điểm pháp lý hình sự của NTNPT là những dấu hiệu quan trọng nhất để khẳng định về nhân thân người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và là tiêu chí nói lên tính nguy hiển cho xã hội của người này. Đó là những dấu hiệu cơ bản sau: 10 Thứ nhất, tính chất của tội phạm được thực hiện. Thứ hai, cơ chế thực hiện tội phạm: đơn nhất phức tạp hay là đa tội phạm, nếu là đa tội phạm thì đó là dạng nào: phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, tái phạm nguy hiểm. Thứ ba, động cơ và mục đích nhằm đạt được của người phạm tội khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Thứ tư, hình thức phạm tội: đơn lẻ hay là đồng phạm và nếu là đồng phạm thì đó là đồng phạm đơn giản, đồng phạm phức tạp hay đồng phạm có tổ chức. Vai trò của người phạm tội là gì: người thực hành, người xúi giục, người giúp sức hay người tổ chức. Thứ năm, người phạm tội là người có tiền án hay tái phạm. Nếu là tái phạm thì là dạng nào: tái phạm chung, tái phạm nguy hiểm hay tái phạm đặc biệt nguy hiểm. Ngoài ra, còn một loạt các đặc điểm khác về mặt pháp lý hình sự là những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS liên quan đến NTNPT được ghi nhận trong luật, cụ thể là khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 BLHS 1999. Vì nhà làm luật yêu cầu Tòa án khi QĐHP phải coi NTNPT là một trong các căn cứ cần phải cân nhắc (Điều 45 BLHS 1999). Chẳng hạn, tính nguy hiểm cho xã hội của NTNPT được thể hiện rõ qua chỉ số tái phạm như sau: theo số liệu thống kê trong 10 năm (1989-1999) của Công an thành phố Hà Nội, thì trong 307180 người phạm tội cướp tài sản có 2149 người có đa tiền án chiếm tỷ lệ 69% và trong số còn lại có 60% người có từ hai tiền án trở lên [10]. 1.1.2.2. Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học của nhân thân người phạm tội Các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học của NTNPT là những dấu hiệu cho phép khẳng định thông tin về NTNPT dưới góc độ tội phạm học và là tiêu chí có vai trò quan trọng trong việc xây dựng định hướng, đưa ra các biện pháp tác động mang tính chất giáo dục - cải tạo lao động đối với những người bị kết án, cũng như soạn thảo các biện pháp đấu tranh phòng, chống tình trạng phạm tội. Khi nghiên cứu các đặc điểm về mặt xã hội - nhân khẩu học của NTNPT cần 11 lưu ý những dấu hiệu cơ bản như độ tuổi, giới tính, trình độ văn hóa, vị trí, vai trò xã hội, dạng nghề nghiệp, lĩnh vực hoạt động, địa điểm thường trú, hoàn cảnh gia đình, tình trạng vật chất (tài sản, nhà ở),.. mà những dấu hiệu này tự bản thân chúng đã là đặc trưng cho cá nhân mỗi một con người, tất cả mọi người chứ không thể căn cứ vào chúng mà khẳng định cá nhân một người nào đó là người phạm tội. Nhưng những dấu hiệu này có sự tác động tương hỗ qua quá trình hình thành nhân cách đạo đức, nhân sinh quan lối sống của một người, cũng như các quan hệ giao tiếp của người đó với các thành viên trong gia đình, trong nhà trường, trong cơ quan, ngoài xã hội. Và do vậy, dưới góc độ tội phạm học những dấu hiệu này cung cấp cho các cơ quan tư pháp hình sự những thông tin để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh, những điều kiện cụ thể đã ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách đạo đức, các nhu cầu vì lợi ích, giá trị xã hội, về sự định hướng có tính lệch lạc (không phù hợp với lợi ích chung của gia đình, tập thể hoặc xã hội) của người phạm tội. Chúng ta có thể chỉ ra một số nét chủ yếu của những dấu hiệu thường thấy khi nghiên cứu NTNPT như sau: - Dấu hiệu về giới tính: Dấu hiệu về giới tính cho phép xác định người phạm tội là nam giới họặc nữ giới. Qua nghiên cứu tỷ lệ giữa nam giới và nữ giới trong việc phạm tội thì tỷ lệ nam giới phạm tội bao giờ cũng nhiều hơn nữ giới và mang tính chât ốn định hơn. Từ đó cho thấy có thể xác định đuợc đặc trưng của nam giới là dễ bị ảnh hưởng của môi trường và điều kiện sống để hình thành những đặc điểm tâm lý tiêu cực hoặc dễ bị nhiễm các thói hư, tật xấu trong xã hội nhiều hơn nữ giới. Tuy nhiên, không nên giải thích các đặc điểm cùa hành vi phạm tội cùa nam giới và nữ giới bằng sự khác biệt sinh lý (mặc dù chúng ở một chừng mực nào đó có thể có ảnh hưởng đến các đặc điểm cùa hành vi thực hiện các loại tội phạm bằng vũ lực). Theo kết quả khảo sát cho thấy, tỷ lệ nữ giới phạm tội chỉ chiếm 5 - 10% trong tổng số những người phạm tội và là không đáng kể so với tỷ lệ của họ trong thành phần dân số. Các tội phạm do nữ giới thực hiện thường xảy ra phổ biến ở lĩnh vực thương nghiệp và tài chính, ngân hàng, y tế, xây dựng, nông nghiệp, chủ yếu là cướp giật tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, sản xuất, 12 buôn bán hàng giả, chứa mại dâm. Trong mỗi nhóm phụ nữ khác nhau (khác nhau về nơi ở, về nghề nghiệp, địa vị xã hội v.v...) thì tỷ lệ phạm tội và hình thức phạm tội cũng khác nhau. Ví dụ, đối với phụ nữ nông thôn thường phạm tội trộm cắp tài sản (chiếm 43,5% trong tổng số phụ nữ phạm tội trộm cắp tài sàn), đối vói phụ nữ là công nhân viên chức hoặc tiểu thương thường phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (chiếm 19,6% trong tổng số phụ nữ phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) v.v... Lý do phụ nữ phạm tội giết người thường là ghen tuông tình ái, mâu thuẫn gia đình. Họ thường phạm tội riêng lẻ, nếu tham gia trong tổ chức phạm tội thì chỉ giữ vai trò thứ yếu. Số liệu thống kê trong những năm gần đây cho thấy số lượng phụ nữ phạm tội có chiều hướng gia tăng. Các loại tôi phạm do nữ giới thực hiện ngày càng đa dạng và có những hình thức phạm tôi nguy hiểm hơn như mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, mua bán phụ nữ. Điều đó chỉ ra rằng cơ cấu phạm tội xét theo giới tính hiện nay đã có sự thay đổi lớn. - Dấu hiệu về độ tuổi: Các nhà tội phạm phân độ tuổi thành người chưa thành niên (từ 14 đến 18 tuổi), thanh niên (từ 18 đến 30 tuổi), trung niên (từ 30 đến 50 tuổi) và người già (từ 50 tuổi trở lên). Cùng với sự biến đổi của độ tuổi là quá trình diễn ra sư thay đổi của bản thân nhân thân. Độ tuổi có ảnh hường rất lớn đến tính chất mức độ của tội phạm, đến việc thực hiện các loại tội phạm khác nhau ở những người có độ tuổi khác nhau. Thực tế cho thấy, nếu xem xét mối tương quan giữa các nhóm người phạm tội có độ tuổi khác nhau trong tổng thể những người phạm tội thì nhóm người phạm tội ờ độ tuổi từ 18 - 30 tuổi chiếm tỷ lê cao nhất, sau đó là nhóm người phạm tội ờ độ tuổi từ 30 đến dưới 50 và nhóm người phạm tội chưa thành niên (từ 14-18 tuổi); cuối cùng là những người từ 50 tuổi trở lên, họ phạm tội ít hơn. Sự phân nhóm người phạm tội theo dấu hiệu độ tuổi này là phù hợp với những điều kiện sinh hoạt xã hội, với tính chất tâm lý xã hội của họ, từ đó cho phép nghiên cứu nâng cao tính cụ thể và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Có thể chỉ ra tỷ lệ cụ thể về độ tuổi của những người phạm tội như sau: Trên địa bàn toàn quốc, những người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm 64%, 13 riêng tội cướp tài sản thì những người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm đến 75%, trên 30 tuổi chiếm 20%, từ 14 đến 18 tuổi chiếm 5% [10]. Trên địa bàn Hà Nội, theo thống kê trong thời gian 10 năm (1989 - 1999), chỉ tính trong số 48.637 người phạm tội thì những người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm 62% (nếu chỉ tính trong số 3071 người phạm tội cướp tài sản, thì những người ở độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm hết 2246 (tỷ lệ 73%), trên 30 tuổi chiếm 11% và từ 14 đến 18 tuổi chiếm 12%) [10]. Mức độ phạm tội phổ biến chiếm tỷ lệ cao nhất ờ nhóm người phạm tội có độ tuổi từ 18 - 30 tuổi đã phản ánh một sự thật, là ở độ tuổi đó đang diễn ra quá trình hình thành nhân thân và quá trình lựa chọn một môi trường vi mô ổn định. Những người ở độ tuổi này chưa có nhiều kinh nghiệm sống, trong khi đây lại là giai đoạn mà họ phải giải quyết nhiều vấn đề sinh hoạt phức tạp và phải đụng độ với nhiều tình huống hơn cả, điều đó có thể thúc đẩy việc xảy ra các xung đột với những người xung quanh và hình thành các chuyển biến tâm lý xấu ờ họ. Theo thống kê tội phạm, những người ở độ tuổi này thường phạm các loại tội có sử dụng bạo lực như cố ý gây thương tích, hiếp dâm, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản...; và thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng số người phạm tội bị đưa ra xét xử. Ở độ tuổi 30 trở lên, con người thường đã tích lũy được kinh nghiệm sống phong phú, những người ở độ tuổi này thường hay phạm các loại tội về chức vụ và kinh tế, như tham ô, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ quyền hạn... Ở độ tuổi từ 14 - 18 tuổi (chưa thành niên) con người có rất ít kinh nghiệm sống, tính tình rất dễ bị kích thích bởi tình cảm, không biết kiềm chế, không có thói quen giải quyết ngay cả những tình huống không phức tạp lắm; vì vậy, nhiều khi tạo điều kiện dẫn đến các quyết định và hành vi sai trái mà trong các trường hợp đó người lớn tuổi sẽ không phạm phải. Phần lớn người chưa thành niên thường phạm các loại tội xâm phạm sờ hữu mà theo thống kê tội phạm, thì chù yếu là tội trộm cắp tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản. Những người ờ độ tuổi từ 50 trở lên, do đã tích lũy được các ưu điểm của lối sống xã hội đúng đắn, khả năng tự kiềm chế cao, có vị trí tương đối ổn định trong xã hội..., vì vậy, mức độ phạm tội ít hơn. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan