Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự việt nam...

Tài liệu Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự việt nam

.PDF
95
3
109

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN QUÝ THÁI BÌNH NGUY£N T¾C Xö Lý VÒ H×NH Sù TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VĂN QUÝ THÁI BÌNH NGUY£N T¾C Xö Lý VÒ H×NH Sù TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Văn Quý Thái Bình MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC XỬ LÝ VỀ HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................... 8 1.1. Đường lối xử lý về hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa thành Bộ luật hình sự năm 1985 ........................................................................ 8 1.2. Nguyên tắc xử lý về hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành .................... 12 1.3. Khái niệm và các đặc điểm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam ............................................................ 13 1.3.1. Khái niệm nguyên tắc xử lý về hình sự.............................................. 13 1.3.2. Các đặc điểm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự ........ 17 1.4. Nội hàm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự....... 21 1.4.1. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong nguyên tắc xử lý về hình sự ........ 21 1.4.2. Bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong nguyên tắc xử lý về hình sự....... 22 1.4.3. Bảo đảm nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự trong nguyên tắc xử lý về hình sự ...................................................... 23 1.4.4. Bảo đảm nguyên tắc công minh trong nguyên tắc xử lý về hình sự ....... 23 1.4.5. Bảo đảm nguyên tắc nhân đạo trong nguyên tắc xử lý về hình sự ........ 26 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 29 Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY PHẠM CỦA NGUYÊN TẮC XỬ LÝ VỀ HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM GIAI ĐOẠN 2010-2015 .............................. 32 2.1. Thực trạng các quy phạm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 ...................................................... 32 2.2. Nội dung của nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn thi hành nguyên tắc xử lý về hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010-2015 ................. 35 2.2.1. Tư tưởng nguyên tắc pháp chế (tại khoản 1 Điều 3 nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự năm 1999) … ............................................ 36 2.2.2. Tư tưởng nguyên tắc bình đẳng (tại đoạn 1 khoản 2 Điều 3 nguyên tắc xử lý trong Bộ luật hình sự năm 1999) ............................ 40 2.2.3. Tư tưởng nguyên tắc công minh (tại đoạn 2 và đoạn 3 khoản 2 Điều 3 nguyên tắc xử lý trong Bộ luật hình sự năm 1999) … ........... 43 2.2.4. Tư tưởng nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm hình sự (tại khoản 1 Điều 3 nguyên tắc xử lý trong Bộ luật hình sự năm 1999) ....... 49 2.2.5. Tư tưởng nguyên tắc nhân đạo (tại đoạn 3 khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5 Điều 3 nguyên tắc xử lý trong Bộ luật hình sự năm 1999). .......................................................................................... 52 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 55 Chương 3: HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC XỬ LÝ VỀ HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 .................................... 57 3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện nguyên tắc xử lý về hình sự ................ 57 3.1.1. Về mặt lập pháp.................................................................................. 57 3.1.2. Về mặt lý luận .................................................................................... 59 3.1.3. Về mặt thực tiễn ................................................................................. 61 3.2. Kiến giải lập pháp cụ thể để hoàn thiện nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 ........................................ 63 3.3. Một số kiến nghị bảo đảm thi hành nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................. 74 Kết luận chương 3 ......................................................................................... 77 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, những nguyên tắc được thừa nhận chung về Nhà nước pháp quyền, những thành tựu về khoa học luật hình sự của các nước trên thế giới cần được chọn lọc và xây dựng trong chính sách pháp luật nói chung cũng như cần được quy định cụ thể trong nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam nói riêng. Tuy vậy, pháp luật hình sự nước ta, đặc biệt là Bộ luật hình sự nước ta năm 1985, cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009), đã xây dựng một hệ thống nguyên tắc xử lý để làm phương châm, định hướng cho hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật vào đấu tranh phòng, chống tội phạm nhưng chưa thật sự làm sáng tỏ đầy đủ ý nghĩa của nguyên tắc xử lý về hình sự này, trong từng quy định còn chưa phát triển kịp thời với giai đoạn hiện nay. Pháp luật nước ta nói chung và pháp luật hình sự nói riêng còn nhiều bất cập, nhiều vấn đề chưa phù hợp với nguyên tắc xử lý tội phạm trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, vi phạm nguyên tắc Hiến định, nguyên tắc pháp luật hình trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Vì vậy, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Trong đó, xây dựng nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự là cơ sở để hoàn thiện chính sách hình sự, pháp luật hình sự, hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự được thống nhất, bảo đảm quyền và tự do của công dân, tạo điều kiện cho công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 1 Vấn đề này đã đặt ra cho pháp luật nước ta trong đó có pháp luật hình sự cần có những chính sách xử lý về hình sự phù hợp để công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, đặc biệt là hoàn thiện các nguyên tắc xử lý về hình sự nhằm bảo đảm cho các hoạt động thực tiễn xử lý về hình sự được thực hiện tốt nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và tự do của con người cũng như lợi ích pháp của các cơ quan, tổ chức, thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm và thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hoá, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó, bồi dưỡng cho mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tham gia phòng ngừa và chống tội phạm, tạo điều kiện cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [50, tr.8], xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền ở nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam” là vấn đề cấp thiết trên cả lĩnh vực lý luận và thực tiễn của nước ta trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời và đến Bộ luật hình sự năm 1999 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đều quy định về nguyên tắc xử lý trong luật hình sự, các nhà nghiên cứu về khoa học pháp lý đã có những bài viết nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau liên quan đến vấn đề này như: 2.1. Các sách chuyên khảo, sách tham khảo, sách hướng dẫn và các giáo trình, bao gồm: Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, của GS-TSKH Lê Cảm; Chương III- Các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam trong sách Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), 2 Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007, của GS-TSKH Lê Cảm; Chương V- Các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam trong sách Luật hình sự Việt Nam, Quyển 1- Những vấn đề chung, NXB Khoa học xã hội năm 2000, Hà Nội của GS-TSKH Đào Trí Úc; Sách chuyên khảo: Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong pháp luật hình sự, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2011, của PGS-TS Trịnh Quốc Toản; Chương I “Điều khoản cơ bản” của TS Uông Chu Lưu trong sách Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999- Phần chung, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 2001; Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, năm 1994, của GS-TS Võ Khánh Vinh; 2.2. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, bao gồm: Lê Viết Phan Anh, Mô hình lập pháp về Bộ luật hình sự (Phần chung) sau pháp điển hóa lần thứ ba, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22, 23 và 24/2013; Lê Viết Phan Anh, Khoa học pháp lý Việt Nam trước yêu cầu sửa đổi Hiến pháp, cải cách tư pháp hoàn thiện chính sách hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Tạp chí Kiểm sát, số 18/2013; GS-TSKH Lê Cảm, Chế định các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 3/2000; GS-TSKH Lê Cảm, Đạo luật hình sự: Một số vấn đến cơ bản, Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2000; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chính sách xử lý tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học số 03/2005; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Luật học số 2/2000; GS-TSKH Đào Trí Úc, Bản chất và vai trò của các nguyên tắc luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/1999; TS Trịnh Tiến Việt, Những đề xuất hoàn thiện cấu trúc phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam trước yêu cầu mới của đất nước, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 22/2014; Trần Đình Hải, Bổ sung nguyên tắc “công minh” thành 3 nguyên tắc cơ bản của Bộ luật hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số13/2014; Nguyễn Minh Hải, Về sự thay đổi của chính sách hình sự và vấn đề xung đột quan điểm trong việc áp dụng pháp luật hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 04/2010; Phạm Minh Tuyên, Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, số 18/2013; Lê Văn Cảm- Đinh Hoàng Quang, Những kiến giải lập pháp cụ thể về chế định đạo luật hình sự trong Chương I Dự thảo Phần chung Bộ luật hình sự (sửa đổi), Tạp chí Kiểm sát, số 19/2014; Lê Văn Cảm, Cụ thể hóa một số quy phạm hiến định vào Dự thảo II Bộ luật hình sự (sửa đổi), Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 22/2014; Trịnh Tiến Việt, “Những đề xuất hoàn thiện cấu trúc Phần chung Bộ luật hình sự Việt Nam trước yêu cầu mới của đất nước”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2015; Nguyễn Huy Phượng, Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 22/2011; … 2.3. Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bao gồm: Đoàn Ngọc Xuân (2014), Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Trần Việt Hùng (2012), Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Thanh Thủy (2014), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), … Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập các vấn đề về lý luận chung của chính sách hình sự, các nguyên tắc trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chỉ phân tích chung các chính sách hình sự trong đó có nguyên tắc xử lý hình sự hoặc nghiên cứu chung về nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam mà chưa đi sâu nghiên cứu phân tích chi tiết về nguyên tắc xử lý trong Bộ luật hình sự và chưa đánh giá thực tiễn áp dụng 4 nguyên tắc xử lý này trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì vậy, luận văn chọn đề tài phân tích, đánh giá về lý luận và thực tiễn đối với nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm vi một luận văn thạc sỹ mà đề tài lại quá rộng lớn và phức tạp cần có sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật nhưng bản thân người viết ở miền núi vùng quê Quảng Nam xa xôi, tài liệu nghiên cứu còn ít, năng lực có sự hạn chế nên trong đề tài cũng không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. 3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn như đúng tên gọi của nó: “Nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam” 3.2. Phạm vi, mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây: Trước tiên là nghiên cứu làm rõ các khái niệm, đặc điểm và nội dung nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự và cơ sở lý luận của nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Tiếp theo đó là sau khi tìm hiểu rõ một số vấn đề về lý luận, luận văn này đánh giá sự thể hiện nguyên tắc xử lý về hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự và thực tiễn áp dụng các nguyên tắc này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010-2015 trong xử lý tội phạm. Từ đó, trên cơ sở lý luận và trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc xử lý về hình sự, đề tài đưa ra một số giải pháp để khắc phục về lý luận cũng như về thực tiễn áp dụng nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản 5 Việt Nam về pháp luật, khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng, trên cơ sở chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam. 4.2. Về phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên các phương pháp sau: Phương pháp diễn dịch, quy nạp và phương pháp so sánh pháp luật và dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng như các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật, các nguyên lý của phép biện chứng duy vật. Bên cạnh đó, khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: Tổng hợp, phân tích, so sánh, lôgic, thống kê, tham khảo ý kiến các chuyên gia về hình sự cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn. 5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài nghiên cứu Đóng góp mới của luận văn gồm những vấn đề sau đây: 5.1. Phân tích, đánh giá làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận các nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền nhằm tiếp thu, ghi nhận và áp dụng có hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. 5.2. Luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận đối với các nguyên tắc xử lý về hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. 5.3. Thực tiễn thi hành các quy phạm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 đối với địa bàn tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, luận văn có một số quan điểm phân tích, đánh giá những vướng mắc đối với nguyên tắc xử lý về hình sự. Từ đó, xác định rõ vấn đề vướng mắc là từ lý luận và thực tiễn. 5.4. Trên cơ sở phân tích, đánh giá những vướng mắc đó, luận văn đưa ra những kiến nghị, những giải pháp phù hợp để hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự, hoàn thiện việc áp dụng nguyên tắc xử lý về hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. 6 6. Ý nghĩa luận văn 6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, người viết đã phân tích và chỉ ra một số nội dung nguyên tắc xử lý về hình sự đối với tội phạm trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần cho việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện nay mà theo tác giả cho là chủ yếu, cơ bản và quan trọng nhất. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị, nhằm khắc phục phần nào trong số những quy phạm đang tồn tại trong luật thực định, hướng tới tăng cường bảo vệ các quyền con người. 6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn Cùng với ý nghĩa về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu, nhận ra một số tồn tại, trong hoạt động thực tiễn thi hành nguyên tắc xử lý về hình sự, đưa ra căn cứ và giải pháp nhằm giúp cho những người hoạt động thực tiễn khắc phục phần nào tồn tại, hạn chế và bảo đảm thi hành nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa trong hoạt động nghiên cứu khoa học đối với học viên, sinh viên chuyên ngành tư pháp hình sự. 7. Kết cấu luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực trạng các quy phạm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2010 - 2015. Chương 3: Hoàn thiện nguyên tắc xử lý về hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC XỬ LÝ VỀ HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Đường lối xử lý về hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa thành Bộ luật hình sự năm 1985 Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985, sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tuy nhiên trong thời gian này, đất nước vẫn còn chia cắt, cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ vẫn còn tiếp diễn. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ xây dựng pháp luật còn thiếu kinh nghiệm nên văn bản pháp luật chưa được hệ thống hóa mà chỉ quy định trong các Sắc lệnh, Thông tư… Đến mùa xuân năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Khi đất nước được độc lập, vấn đề bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phát triển đất nước tiến lên xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa là vấn đề quan trọng hàng đầu của nước ta. Để làm tốt vấn đề này, mỗi quốc gia đều có chính sách khác nhau trong pháp luật đấu tranh phòng, chống và xử lý các loại tội phạm. Nước ta định ra mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa thì cần xây dựng chính sách hình sự và hệ thống pháp luật hình sự phù hợp với Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm. “Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm” [49, tr.41]. Trong điều kiện khó khăn của chính quyền non trẻ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước, miền Nam tiếp tục công cuộc kháng chiến thống nhất đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn này đất nước phải đối mặt với nạn thù trong, giặc ngoài hòng 8 phá hoại cộng cuộc xây dựng xã hội mới nhân dân ta. Để bảo vệ thành quả của cách mạng, Nhà nước đã ban hành những văn bản pháp luật nhằm đấu tranh với các loại tội phạm, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh chính trị trong xã hội. Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Chủ tịch Hồ Chí Minh- đã ký Sắc lệnh số 33-C về việc “Lập tòa án quân sự”. Trong Sắc lệnh này, tại Điều IV đã quy định về xử lý hình sự như sau: “Nếu có lý do đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì biết quá hối, vì lầm lẫn, vân vân, thì tòa có thể cho tội nhân được hưởng án treo” [15, tr.12]. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 tại Điều 10 quy định: “Khi phạt tù tòa có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có lý do đáng khoan hồng” [15, tr.74]; Năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 150 ngày 07/11/1950 tại Điều 1 có quy định: “Phạm nhân phải giam giữ trong các trại giam để trừng trị và giáo hóa” [15, tr.194]; Sắc lệnh số 150 ngày 12/4/1953 tại Điều 2 có quy định: “Trừng trị những kẻ phản cách mạng, những cường hào gian ác, những kẻ chống lại hoặc phá hoại chính sách ruộng đất” [15, tr.208]; Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 tại Điều 2 có quy định “Nguyên tắc trừng trị bọn phản cách mạng là: nghiêm trị bọn chủ mưu, bọn cầm đầu, bọn thủ ác, bọn ngoan cố chống lại cách mạng; khoan hồng đối với những kẻ bị ép buộc, bị lừa phỉnh, lầm đường và những kẻ thật thà hối cải; giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt cho những kẻ lập công chuộc tội” [59, tr.193]… Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 đều có quy định: “Mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh” [59, tr.203], “Mọi hành động xâm phạm tài sản tài sản riêng của công dân phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh” [59, tr.454] hay “nghiêm trị bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn tái phạm, bọn phạm tội có tổ 9 chức, bọn cầm đầu, bọn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, bọn gây thiệt hại nặng; xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra” [59, tr.203]. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 03BTP-TT về Hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định các tội phạm và hình phạt đã đưa ra định hướng về đường lối xử lý về hình sự: Đường lối xét xử các tội phạm hình sự là trừng trị nghiêm khắc bọn lưu manh chuyên nghiệp, bọn côn đồ hung hãn, bọn phạm tội có tổ chức, bọn cầm đầu, bọn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, bọn gây ra những hậu quả nghiêm trọng; xử nhẹ hoặc miễn hình phạt cho những kẻ nhất thời phạm tội nhẹ, những kẻ chưa gây hậu quả lớn, những kẻ tự thú, thật thà hối cải, tố giác đồng bọn hoặc tự nguyện bồi thường thiệt hại đã gây ra [60, tr.77]… Đây là các quy định tiền đề cho việc xử lý hình sự đối với các loại tội phạm nhằm bảo đảm trật tự an toàn xã hội, là định hướng để xây dựng các văn bản pháp luật hình sự tiếp theo. Trên cơ sở các văn bản có quy định về định hướng xử lý các tội phạm trong những năm trước khi pháp điển hóa thành Bộ luật hình sự năm 1985, có thể đưa ra một số nhận xét chung về xử lý hình sự trong luật hình sự Việt Nam như sau: 1.Trong giai đoạn này, pháp luật hình sự chưa được hệ thống hóa thành một văn bản riêng biệt. Do đó, pháp luật hình sự cũng chưa xây dựng được hệ thống các nguyên tắc xử lý về hình sự một cách đồng bộ mà chỉ có những quy định rải rác mang ý nghĩa là đường lối chung để xử lý các loại tội phạm. 2. Những quy định này là những phương hướng cơ bản, sự thể hiện nhất quán trong chính sách hình sự là xử lý về hình sự của nước ta có tính nhân đạo, kết hợp giữa nghiêm trị với khoan hồng, trừng trị kết hợp cảm hóa giáo dục. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau nên có một số tư tưởng pháp lý 10 tiến bộ như công bằng, pháp chế chưa được thể hiện cụ thể. 3. Đây là đường lối chung về xử lý các loại tội phạm hình sự làm tiền đề cho hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật về sau. 4. Và cuối cùng, các quy định này là định hướng chung trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì vậy, trước khi xây dựng Bộ luật hình sự thì cần nghiên cứu hoạch định đường lối xử lý về hình sự trên cơ sở “nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại như công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế” [7, tr.34], cũng như phải xem các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao quý nhất để ghi nhận vào pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự. Hơn nữa, hoạch định chính sách hình sự nói chung và đường lối xử lý về hình sự nói riêng cần phải có căn cứ, bảo đảm sức thuyết phục trên cơ sở khoa học thực tiễn khách quan nhằm giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm hình sự từ khi có sự việc phạm tội xảy ra cho đến khi người đó chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích. Từ đó, GS.TSKH Lê Văn Cảm đã đưa ra khái niệm: Đường lối xử lý về hình sự là bộ phận cấu thành của chính sách hình sự nhằm xác định những phương hướng cơ bản có tính chất chỉ đạo của nhà nước trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng và pháp luật thi hành án hình sự, đảm bảo sự ổn định của hệ thống tư pháp hình sự, tăng cường việc bảo vệ các quyền và tự do của con người, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và của nhà nước bằng hệ thống tư pháp hình sự, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, nhằm đạt được kết quả cuối cùng – xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật [6, tr.135,136]. 11 1.2. Nguyên tắc xử lý về hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp về hình sự, đường lối xử lý về hình sự được thể chế hóa thành nguyên tắc xử lý về hình sự và được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự năm 1985 như sau: Điều 3. Nguyên tắc xử lý 1- Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. 2- Nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, kẻ ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm, kẻ biến chất, sa đoạ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội, kẻ phạm tội có tổ chức, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng bọn, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại đã gây ra. 3- Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và đã hối cải thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội hoặc gia đình giám sát, giáo dục. 4- Đối với người phạt tù thì buộc họ phải chấp nhận hình phạt trong trại giam, phải lao động, cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội. Nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. 5- Đối với người đã chấp hành xong hình phạt thì tạo điều kiện cho họ làm ăn, sinh sống lương thiện; khi họ có đủ điều kiện do luật định thì xoá án [46, tr.12]. Trên cơ sở quy định Điều 3 về nguyên tắc xử lý của Bộ luật hình sự năm 1985, có thể đưa ra một số nhận xét chung về xử lý hình sự trong luật hình sự Việt Nam như sau: 12 1) Pháp luật hình sự trong giai đoạn này đã hệ thống hóa thành một văn bản riêng biệt, đã kế thừa và phát triển đường lối xử lý về hình sự thành nguyên tắc xử lý thành một chế định cụ thể. 2) Nguyên tắc xử lý này là “sợ chỉ đỏ”, sự thể hiện nhất quán trong chính sách hình sự nói chung và đường lối xử lý về hình sự nói riêng, xác định những phương hướng cơ bản cho hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật của nước ta. 3) Trong nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1985 đã thể hiện tính nhân đạo, kết hợp giữa nghiêm trị với khoan hồng, trừng trị kết hợp cảm hóa giáo dục, thể hiện các nguyên tắc công minh, không tránh khỏi trách nhiệm hình sự... Tuy nhiên, nguyên tắc bình đẳng chưa được thể hiện rõ ràng và cụ thể trong nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 Bộ luật hình sự năm 1985. 4) Và cuối cùng, các quy định này là định hướng chung trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, Thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiến quyết đấu tranh chống tội phạm; thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta là xử phạt người phạm tội không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội; thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa và lòng tin vào khả năng cải tạo con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa [46, tr.10]. 1.3. Khái niệm và các đặc điểm của nguyên tắc xử lý về hình sự trong luật hình sự Việt Nam 1.3.1. Khái niệm nguyên tắc xử lý về hình sự Trong giai đoạn hiện nay, nước ta thực hiện chiến lược cải cách tư pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 đã chỉ ra rằng “Công tác tư pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế. Chính 13 sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung” [19]. Từ đó, khi nghiên cứu hoạch định chính sách hình sự cần phải: Được xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nền văn minh nhân loại- công bằng và nhân đạo, dân chủ và pháp chế- nên Nhà nước pháp quyền luôn luôn coi các quyền và tự do của con người là những giá trị xã hội cao quý nhất với tính chất là các khách thể hàng đầu được ghi nhận, tôn trọng và bảo vệ [6, tr.28] trong Bộ luật hình sự của nhà nước ta. Hơn nữa, nguyên tắc xử lý về hình sự “cần phải dựa trên những cơ sở khoa học- thực tiễn đúng đắn, khách quan, có căn cứ và đảm bảo sự thuyết phục” [6, tr.139] nhằm giải quyết tốt vấn đề trách nhiệm hình sự từ khi có sự việc phạm tội xảy ra cho đến khi người đó chấp hành xong hình phạt và được xóa án tích. Cuối cùng là trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm của nguyên tắc xử lý về hình sự. “Công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế là các tiêu chuẩn, các đòi hỏi, các nguyên tắc được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế, cũng như của luật pháp quốc gia” [7, tr.35] được ghi nhận trong Nhà nước pháp quyền. Nguyên tắc xử lý về hình sự cần có những tư tưởng chỉ đạo trong hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự, bảo đảm các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, bảo vệ quyền và tự do của con người. Đó là bảo vệ con người tránh khỏi sự xâm hại của tội phạm, đồng thời người phạm tội cũng là con người nên cần được bảo đảm quyền con người của họ. Hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật lĩnh vực tư pháp hình sự thực hiện tốt nguyên tắc xử lý về hình sự là góp phần đưa các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền vào đời sống thực tế, giáo dục công dân ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật là một dạng của thực 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan