Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án...

Tài liệu Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

.DOC
12
99
66

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những phương châm, những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố tụng hình sự được các văn bản pháp luật ghi nhận. Quá trình giải quyết vụ án hình sự thông qua các giai đoạn khác nhau, nhưng các giai đoạn đó đều có mục đích chung là xác định sự thật của vụ án, do vậy xác định sự thật của vụ án không chỉ là nguyên tắc quan trọng của tố tụng hình sự mà còn là nguyên tắc vô cùng quan trọng đối với bất kì luật hình thức nào. Tuy không được xác định là một nguyên tắc mang tính đặc thù của luật tố tụng hình sự nhưng nguyên tắc này đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội. Để hiểu rõ hơn ý nghĩa cũng như việc thực thi nguyên tắc này, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. 1 BÀI LÀM I. Khái quát chung về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. 1. Cơ sở của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. a. Cơ sở thực tiễn. Việc tiến hành các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự đều hướng đến một mục đích chung nhất đó chính là làm rõ tội phạm và người phạm tội. Muốn xác định đúng tội phạm và người phạm tội, việc xác định sự thật của vụ án là vấn đề quan trọng nhất. Hơn nữa, việc áp dụng nguyên tắc xác định sự thật còn đảm bảo cho việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Do vậy việc quy định nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất là điều hoàn toàn cần thiết. b. Cơ sở pháp lý. Nguyên tắc xác định sự thật được quy định tại Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS). Ngoài ra, việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này còn được quy định tại một số Điều luật trong Bộ luật này và các văn bản luật liên quan. 2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Đây cũng chính tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tất cả các giai đoạn, quá trình cũng như các hoạt động tố tụng hình sự đều nhằm một việc duy nhất là tìm ra sự thật của vụ án, xét xử đúng người, đúng tội, không để lọt người, lọt tội. Để đấu tranh chống tội phạm đạt được hiệu quả tốt thì mọi hành vi phạm đều được phát hiện và xử lý trước pháp luật. Luật tố tụng hình sự ghi nhận nguyên tắc này theo những nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, trong quá trình tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; làm rõ những chứng cứ xác định có tội, xác 2 định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Các biện pháp hợp pháp là những biện pháp được pháp luật cho phép và công nhận để đảm bảo tìm kiếm được sự thật như biện pháp ngăn chặn, biện pháp điều tra, thu thập chứng cứ, xem xét kết quả giám định, lời khai của nhân chứng... Pháp luật không thừa nhận hình thức ép cung, gài bẫy,… để tìm ra sự thật vụ án bởi kết quả của hoạt động này chỉ mang lại một kết quả gian dối, không phải là sự thật của vụ án. Để xác định sự thật của vụ án, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ các vấn đề. Khách quan chính là việc xem xét vấn đề đúng với sự tồn tại của nó mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người, việc suy diễn không có căn cứ không được coi là sự thật của vụ án. Trong quá trình tiến hành tố tụng, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội thẩm không được thiên vị, cảm tình cá nhân, phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Pháp luật cũng quy định có thể thay đổi những người tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Kiếm sát viên, Thẩm phán nếu có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ không vô tư khi làm nhiệm vụ, để đảm bảo cho việc xác định sự thật của vụ án được đúng đắn. Bên cạnh đó, việc xác định sự thật của vụ án nhất thiết phải coi trọng yếu tố toàn diện, không thể đánh giá vấn đề theo một phương diện nào đó. Muốn vậy, cần phải thu thập các nguồn thông tin, chứng cứ hay tiến hành các hoạt động khác một cách đầy đủ. Nếu như việc hoạt động chứng minh của những người tiến hành tố tụng đáp ứng được cả ba yếu tố quan trên thì mới có thể thực hiện một cách tốt nhất nguyên tắc xác định sự thật. Ví dụ: Trong vụ án giết người, đã bắt được hung thủ, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải lấy lời khai của hung thủ, người làm chứng hoặc nạn nhân… Kết hợp với việc làm này là giám định, xem xét các chứng cứ, dấu vết tại hiện trường vụ án để xác định sự thật của vụ án. Nếu có sự mâu thuẫn thì cần điều tra để đi đến thống nhất sự thật. 3 Thứ hai, mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Để nguyên tắc này được thực hiện tốt thì đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tức là phải được đào tạo về nghiệp vụ và làm chủ được nghề nghiệp, nắm được những quy định của pháp luật, có tư duy pháp lý, có thói quen và phương pháp giải quyết các vấn đề pháp lý, có đạo đức nghề nghiệp. Việc xác định sự thật khách quan của vụ án phải dựa trên quan điểm Mác - Lênin về vấn đề nhận thức vì nó ảnh hưởng lớn đến việc xác định đúng đắn vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Ví dụ: Khi thu thập được con dao tại hiện trường vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng cần tiến hành đưa đi giám định, xét nghiệm dấu vân tay và vết máu xem đây có phải là hung khí gây án hay không? Trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng lấy đó làm bằng chứng chứng minh hành vi phạm tội của người phạm tội. Việc thu thập con dao ấy phải không làm thay đổi hiện trường vụ án cũng như không làm thay đổi các dấu vết trên con dao. Thứ ba, nội dung của xác định sự thật của vụ án luôn phải trả lời cho câu hỏi: có hành vi phạm tội xảy ra hay không; thời gian, địa điểm và các tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, lỗi do cố ý hay do vô ý; người thực hiện hành vi phạm tội có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích hoặc động cơ phạm tội; những tình tiết tăng nặng, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra… Những nội dung đó là cơ sở cho việc định tội danh của một tội phạm cụ thể. Ví dụ: Do mẫu thuẫn với B, A đổ thuốc diệt chuột bát canh và mang sang biếu nhà ông B. Gia đình ông B có 4 người đã ăn bát canh đó và bị chết. Giám định pháp y kết luận rằng: nguyên nhân tử vong là do trúng độc thuốc diệt chuột. Cơ quan điều tra phải xác định rõ hành vi phạm tội của A, động cơ của A ở đây là để trả thù mâu thuẫn đã xảy ra lâu nay giữa 2 bên. Lỗi của A la lỗi cố ý trực tiếp đó là căn cứ xác định tội danh của A là tội giết người với tình tiết tăng nặng là giết 4 nhiều người. A phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình theo quy định của BLHS và theo thủ tục tố tụng hình sự. Thứ tư, trách nhiệm chứng minh tội phạm, xác định sự thật vụ án thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi vì các cơ quan tiến hành tố tụng được Nhà nước thành lập và giao quyền áp dụng các biện pháp do Bộ luật TTHS quy định mới có điều kiện để xác định sự thật khách quan của vụ án. Mặt khác, để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự, Nhà nước thông qua các cơ quan chuyên trách của mình phải có trách nhiệm đưa ra chứng cứ chứng minh họ đã thực hiện hành vi phạm tội xâm hại đến lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Luật tố tụng hình sự không quy định bị can, bị cáo phải khai đúng sự thật, cũng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Muốn xác định được bị can, bị cáo có tội hay không phải dựa trên những chứng cứ đã thu được trong vụ án để xem xét. Trong quá trình điều tra, xét xử, bị can, bị cáo có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh mình vô tội. Trên cơ sở những chứng cứ rút ra từ những lời khai của bị can, bị cáo kết hợp những chứng cứ khác cơ quan tiến hành tố tụng xác định bị can, bị cáo có tội hay không có tội. Ví dụ: Ông N bị tạm giữ để điều tra vì có một số căn cứ chứng minh người đó liên quan đến vụ giết người như có dấu vân tay, có con dao gọt hoa quả mà nhà ông N vẫn thường sử dụng... Ông N không cần chứng mình mình vô tội. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không đưa ra được chứng cứ để chứng minh là ông N có tội thì ông được coi là vô tội, không bị tạm giam mà phải tiến hành trả tự do cho ông. Bên cạnh đó, N cũng có quyền đưa ra những chứng cứ để chứng minh rằng mình vô tội như: tại thời điểm xảy ra vụ án mình không có mặt tại hiện trường, con dao mà hung thủ dùng làm hung khí là con dao nhà ông bị mất trước ngày xảy ra vụ án… Tóm lại, xác định sự thật vụ án là một nguyên tắc quan trọng trong quá trình tố tụng hình sự, đảm bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, trừng phạt thích đáng những người có hành vi phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội. Việc xác định một người có tội hay không có tội đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền xác định một cách khách quan, đầy đủ. Có như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mới được đảm bảo toàn diện và công bằng nhất. 5 3. Ý nghĩa của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. Để đảm bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, trừng phạt thích đáng những người có hành vi phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội việc xác định sự thật của vụ án là một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện được điều này. Nếu không có nguyên tắc này thì việc xác định có tội hay không có tội trở nên rất khó kiểm soát. Nếu như pháp luật không quy định chủ thể, biện pháp dùng để xác định sự thật cũng như nội dung xác định sự thật của vụ án thì việc thực hiện mục đích trên là không thể. Và như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân rất có thể bị xâm phạm. Cụ thể, ý nghĩa của nguyên tắc này được xem xét dưới những góc độ sau: Ý nghĩa chính trị - xã hội: Xác định sự thật của vụ án là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, pháp luật sẽ được chấp hành nghiêm chỉnh. Các quyền cơ bản của những con người trong xã hội cũng sẽ được bảo đảm khi việc xác định có tội, xác định vô tội, làm rõ tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo được thực hiện một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Ý nghĩa pháp lý: Góp phần cụ thể hóa nguyên tắc hiến định và là cơ sở để tiến hành các giai đoạn tố tụng. Hiến pháp năm 1992 quy định tại Điều 71: “… Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân” và Điều 72: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ...”. Việc xác định sự thật phải được tiến hành do cán bộ tư pháp thuộc “Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án” và chỉ được sử dụng “biện pháp hợp pháp”. Nguyên tắc này đã loại trừ những trường hợp người tiến hành tố tụng lại sử dụng các biện pháp có khả năng xâm hại nghiêm trọng tới các quyền cơ bản của công dân để làm rõ sự thật của vụ án. Để đảm bảo một cách tối đa quyền lợi của người dân, cơ quan tiến hành tố tụng phải có đầy đủ căn cứ chứng minh tội phạm, thể hiện qua bản án kết tội của Tòa án mới có thể khẳng định là có tội. Ngoài ra nguyên tắc này cũng đặt ra nghĩa vụ đối với các cơ quan này không được thiên vị, cảm tình cá nhân, mà phải thu thập và đánh giá chứng cứ của vụ án trên tất cả các 6 phương diện, cân nhắc kỹ mọi tình tiết có thể làm ảnh hưởng đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Từ đó, mọi tình tiết thu được trong quá trình điều tra, xét xử đều được đánh giá trên cơ sở pháp lý để rút ra kết luận về vụ án. Do vậy, việc thực hiện đúng nguyên tắc xác định sự thật là cơ sở quan trọng nhất để khẳng định một người là có tội hay không có tội. II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. 1. Thành tựu đạt được. Thực hiện đúng nguyên tắc xác định sự thật là cơ sở quan trọng cho việc xác định đúng người đúng tội, đảm bảo trật tự công cộng. Rất nhiều vụ việc đã được điều tra và xét xử vô cùng nhanh chóng, từ đó đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của rất nhiều người. Mặc dù số lượng cũng như tính chất phức tạp của tội phạm ngày một tăng lên nhưng phần lớn trong số đó đã được phát hiện và xử lý kịp thời. Có thể xem xét vụ án cướp tiệm vàng ở phố Sàn, Lục Nam, Bắc Giang gần đây. Đây là một trong những vụ việc nhận được nhiều sự quan tâm của người dân. Các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện công tác điều tra, truy tố vô cùng nhanh chóng và chính xác. 2. Hạn chế còn tồn đọng và nguyên nhân của nó. Hiện nay, số lượng các bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị tuyên hủy và cần giám đốc thẩm tăng lên một cách đáng kể so với trước đây. Có thể kể đến một số vụ việc tiêu biểu như vụ án vườn điều ở Bình Thuận, hay vụ án vườn mít, Lê Bá Mai hai lần bị tuyên tử hình về tội giết người, hiếp dâm rồi lại được tuyên trắng án ở Bình Phước. Ngoài ra, một số bản án được tuyên không nhận được sự đồng thuận trong dư luận, điển hình như vụ án cô giáo thiêu sống cả nhà anh chồng ở Mỹ Đình, Hà Nội. Có thể thấy nguyên nhân dẫn đến những vấn đề trên chính là thiếu sót trong việc nhận định, xác minh và đánh giá các chứng cứ, tìm ra sự thật của vụ án. Vấn đề này là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Thứ nhất, đó là sự hạn chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ non kém của cán bộ điều tra không đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn. Trong thực tiễn của hoạt động điều tra, một số điều tra viên chưa nắm chắc được những quy định của pháp luật 7 hình sự, pháp luật tố tụng hình sự; phương pháp điều tra còn hạn chế, thụ động, nặng về hành chính, khả năng mở rộng và khám phá còn yếu; trong một số vụ án số lượng và giá trị của chứng cứ rất lớn nên các điều tra viên không thu thập được đầy đủ và có đánh giá chưa đúng về vụ án. Thứ hai, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện sai nguyên tắc xác định sự thật chính là vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến không xác định được sự thật. Bên cạnh đó là sự thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ của cán bộ tư pháp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì thành tích cá nhân, tập thể hoặc vì động cơ vụ lợi của một số chủ thể tiến hành tố tụng mà tình trạng sai, oan trong các vụ án hình sự ngày một gia tăng. Thứ ba, nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa cho bị can, bị cáo là những nguyên tắc được ghi nhận và đảm bảo thực hiện trong thực tế cùng với nguyên tắc sự thật. Thế nhưng trên thực tế, việc suy đoán rồi kết tội cho bị can, bị cáo vẫn mang tính chủ quan, không dựa trên những chứng cứ thu thập được một cách khách quan, vẫn áp dụng những hình thức điều tra, xét hỏi mang tính áp đặt, không dựa vào những đặc điểm khách quan của vấn đề. Việc xét xử, đưa ra quyết định cuối cùng của Toà án có thể sai lầm khi cơ quan tiến hành tố tụng chưa tìm hiểu rõ về nhân thân người phạm tội mặc dù đó là một trong những điều bắt buộc phải chứng minh trong các vụ án hình sự. Nhiều khi người có thẩm quyền, cơ quan tiến hành tố tụng có cách nhìn phiến diện về nhân thân của người phạm tội; có những sai lầm trong nhận định về lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, không xem xét hết những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can bị cáo. Thứ ba, một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện sai nguyên tắc xác định sự thật chính là vi phạm thủ tục tố tụng dẫn đến không xác định được sự thật. Bên cạnh đó là sự thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ của cán bộ tư pháp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì thành tích cá nhân, tập thể hoặc vì động cơ vụ lợi của một số chủ thể tiến hành tố tụng mà tình trạng sai, oan trong các vụ án hình sự ngày một gia tăng. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác dẫn đến việc chưa làm rõ được sự thật của vụ án vì lý do khách quan như sự không phối hợp của các cơ quan, tổ 8 chức. Với các tội phạm diễn ra trong một thời gian dài thì việc xác định sự thật thực sự rất khó khăn bởi những người tiến hành tố tụng có thể được thay thế theo thời gian, cùng với đó là sự phối hợp nhân dân, cơ quan và tổ chức không thực sự hiệu quả do vậy dẫn đến việc bỏ sót tình tiết hay đưa ra những kết luận thiếu chính xác. 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. a. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật. Để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc, nhận thấy chúng ta cần phải có một hệ thống pháp luật ổn định và chặt chẽ. Theo quan điểm của nhóm, việc hướng đến hình thức tranh tụng trong phiên tòa là một trong những phương án có tính khả thi cao nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này. Rõ ràng, với hình thức đó, Viện Kiểm sát sẽ phải có những căn cứ thực sự thuyết phục mới có thể buộc tội được một người đã thực hiện hành vi phạm tội thì tất yếu việc xác định sự thật phải được tiến hành đúng và đủ. b. Hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc. Thứ nhất, một trong những nội dung của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là “trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Theo quy định này thì trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Theo chúng em, nên bỏ trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án do trách nhiệm này thuộc chức năng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; mặt khác chức năng chính cua Tòa án là xét xử. Mặt khác, việc phải chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của tòa án khi ra bản án và phán quyết của mình, vì vậy nguyên tắc này cũng nên thay đổi theo hướng tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Thứ hai, hoàn thiện hình thức tranh tụng trong phiên tòa là một trong những phương án rất đáng quan tâm. Không chỉ nâng cao tính khách quan, hiệu quả trong công tác tố tụng nói chung mà còn nâng cao trách nhiệm của những người có nghĩa vụ chứng minh. Nếu như không đảm bảo việc xác định sự thật một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thì rõ ràng việc thực hiện chức năng công tố của Viện 9 Kiểm sát cũng như xét xử của Tòa án, thi hành án của cơ quan Thi hành án… là không thể đảm bảo. Thứ ba, nâng cao và mở rộng hoạt động đào tạo chuyên môn cho cán bộ tư pháp, đặc biệt là các cán bộ điều tra. Việc đào tạo được thực hiện tốt sẽ đem lại một đội ngũ cán bộ điều tra có nghiệp vụ chuyên môn giỏi, giúp cho việc điều tra, khám phá sự thật của vụ án được tiến hành một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Thứ tư, một trong những giải pháp cần thiết nữa đó chính là nâng cao sự phối – kết hợp giữa các cơ quan, tổ chức với nhau, giữa các cơ quan, tổ chức với nhân dân nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp nói chung là nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật nói riêng. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao trách nhiệm của những người tham gia tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho cán bộ tư pháp hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thứ năm, để nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này, thiết nghĩ cần phải nâng cao chất lượng kiểm sát các hoạt động nhằm xác định sự thật. Rất nhiều vụ việc oan sai do sự bất cẩn của người tiến hành tố tụng không những xâm phạm nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mà còn gây ra sự mất ổn định xã hội. III. Kết luận. Xác định sự thật là một trong những nguyên tắc quan trọng nhằm thực hiện được chức năng và nhiệm vụ của hoạt động tố tụng hình sự. Có thể thấy việc thực hiện nguyên tắc này một cách đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Tuy nhiên, tình hình thực hiện nguyên tắc này trên thực tế còn tồn tại khá nhiều bất cập. Do vậy, hoàn thiện những vấn đề về pháp lý và thực tiễn là mục tiêu cần được hướng đến nhằm đạt được mục tiêu trước mắt là xác định đúng người đúng tội và xa hơn là duy trì trật tự chung và ổn định xã hội 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008. 2. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001. 3. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003. 4. Nguồn tin trên Internet. 11 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………..01 I. Khái quát chung về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.…………………………..…………………………………02 1. Cơ sở của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.…………………………..…………………………..…………………02 a. Cơ sở thực tiễn.…………………………..………………………………...02 b. Cơ sở pháp lý.…………………………..………………………………….02 2. Nội dung cơ bản của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.…………………………..…………………………………….02 3. Ý nghĩa của nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.…………………………..……………………………………………..06 II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.……………………………………….07 1. Thành tựu đạt được.…………………………..…………………………...07 2. Hạn chế còn tồn đọng và nguyên nhân của nó.……………………………07 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc xác định sự thật của vụ án.………………………………….09 a. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật.………………………………..09 b. Hoàn thiện việc thực hiện nguyên tắc.…………………………………….09 III. Kết luận.…………………………..……………………………………...10 Danh mục tài liệu tham khảo.…………………………..…………………….11 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan