MỞ ĐẦU..................................................................................................1
I. Nội dung nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia......1
II. Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc.........................................1
1. Tham gia vào các tổ chức quốc tế....................................................1
2. Quyền phủ quyết của các ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo
an..............................................................................................................2
3. Vấn đề hạn chế chủ quyền (hạn chế quyền và nghĩa vụ quốc tế)..3
KẾT LUẬN..............................................................................................4
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia có quyền tự quyết định chính sách đối
ngoại của mình mà không có sự áp đặt từ chủ thể khác trên cơ sở tôn trọng chủ
quyền của mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Các quốc gia không phân biệt vị
trí địa lý, thể chế chính trị, tiềm lực kinh tế, quốc phòng…luôn bình đẳng về chủ
quyền. Ngày nay bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia được nhìn nhận ở cả
phương diện pháp lý và thực tiễn. Để hiểu rõ hơn về nguyên tắc này, em xin lựa
chọn đề: ”Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền
giữa các quốc gia.”
I. Nội dung nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia
Tất cả mọi quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền. Bình đẳng về chủ quyền bao
gồm những nội dung sau:
- Tất cả các quốc gia bình đẳng về mặt pháp.
-
Mỗi quốc gia được hưởng các quyền xuất phát từ chủ quyền hoàn toàn.
- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng tư cách của các quốc gia khác.
- Sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của quốc gia là bất khả xâm phạm.
- Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế,
văn hóa và xã hội của mình.
- Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tuân thủ một cách đầy đủ và có thiện chí các nghĩa
vụ quốc tế của mình và chung sống trong hòa bình với các quốc gia khác.
II.
Đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc
Bình đẳng về chủ quyền được xem xét trong mối quan hệ giữa các quốc gia
với nhau và mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ quốc tế mà quốc gia thực hiện.
1. Tham gia vào các tổ chức quốc tế
Khi tham gia vào các tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên tự nguyện trao
cho tổ chức quốc tế một số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình. Sự trao quyền
1
này không đồng nghĩa với việc hạn chế chủ quyền. Khi thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình đối với tổ chức quốc tế là quốc gia đang thực hiện chủ quyền của
mình và tham gia vào các tổ chức quốc tế. Các quốc gia có quyền kiểm tra giám sát
hoạt động của chính tổ chức quốc đó đó.
2. Quyền phủ quyết của các ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an.
Hội đồng Bảo an là cơ quan có quyền lực cao nhất của Liên hợp quốc, chịu
trách nhiệm duy trì và gìn giữ nền hòa bình và an ninh quốc tế, có quyền cho phép
tiến hành các hành động quân sự cũng áp đặt các lệnh trừng phạt. Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc gồm 15 thành viên trong đó có 5 quốc gia là ủy viên thường trực
(Trung Quốc, Pháp, Liên bang Nga, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len và
Hoa Kỳ). Các ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an có quyền phủ quyết để
không thông qua 1 quyết định hoặc nghị quyết nào đó. Vấn đề đặt ra là quyền phủ
quyết này có mâu thuẫn với nguyên tắc binhg đẳng về chủ quyền hay không?
Về phương diện lịch sử: Trong chiến tranh lạnh, các Ủy viên thường trực là
những cường quốc đại diện cho 2 hệ thống: hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa và
hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, với quyền phủ quyết đã thực hiện việc kìm
chế lẫn nhau khi xuất hiện những nguy cơ đối đầu lên đến cực độ. Rõ ràng, quyền
phủ quyết của các Ủy viên thường trực đã thể hiện rất rõ vai trò của Liên hợp quốc
trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, trật tự quốc tế chuyển thành đa cực, chuyển từ đối đầu
sang đối thoại, hợp tác nhưng hàng loạt các vấn đề quốc tế đặt ra mà để giải quyết
được vẫn luôn cần đến sự có mặt của các cường quốc với tư cách là Ủy viên
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ: các nước ủy viên không thường trực
Hội đồng Bảo an có quyền nhiểu hơn tất cả các thành viên của Liên hợp quốc.
Nhưng đồng thời nghĩa vụ mà các quốc gia này thực hiện với Liên hợp quốc và
cộng đồng quốc tế cũng là lớn nhất như nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ cung cấp lực
2
lượng quân đội cho Liên hợp quốc hoặc trách nhiệm giải quyết các vấn đề quốc tế,
… trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho những hoạt động của mình. Hoa Kỳ là
quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần 22%, Pháp (6.5%) Anh (5.57%),…Trên
phương diện pháp lý, sự bình đẳng cần phải được nhìn nhận thông qua mối quan
hệ giữa quyền và nghĩa vụ. Do đó, việc các ủy viên thường trực được hưởng nhiều
hơn các quyền cũng tương xứng với các nghĩa vụ mà họ gánh vác.
Mặt khác, việc gia nhập gia nhập Liên hợp quốc hoàn toàn là sự tự nguyện
của các quốc gia xuất phát từ chính những nhu cầu và lợi ích, nguyện vọng của họ.
Họ cũng tự nguyện tuân thủ những quy định, Hiến chương Liên hợp quốc trong đó
có việc thừa nhận quyền phủ quyết của các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an.
Điều này đã phản ánh nội dung của bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia.
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, không ít trường hợp quyền này đã bị
một số quốc gia lạm dụng. Chính sự lạm dụng đó đôi khi đã đẩy Liên hợp quốc
vào tình trạng giải quyết các vấn đề liên quan tới hòa bình và an ninh quốc tế theo
ý chí của một số quốc gia. Hô ̣i đồng Bảo an đã chịu nhiều chi trích mạnh từ khối
các nước Arab – vốn thường xuyên cáo buô ̣c HĐBA đã cho phép Israel vi phạm
nghị quyết của Hô ̣i đồng trong khi lại có quan điểm quá cứng rắn đối với Iraq. Hoa
Kỳ thường xuyên dùng quyền phủ quyết để cân nhắc các vấn đề mà họ coi là quan
ngại về an ninh của Israel. Bất kì cuộc thảo luận này về việc bãi bỏ quyền phủ
quyết hoặc về việc trao quyền đó cho các ủy viên thường trực mới đều vấp phải sự
phản đối của 5 nước ủy viên thường trực hiện nay. Điều này đã làm mờ nguyên tắc
bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia. Vì vậy, Liên hợp quốc cần có sự cải tổ đối
với tổ chức và hoạt động, đặc biệt là Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
3. Vấn đề hạn chế chủ quyền (hạn chế quyền và nghĩa vụ quốc tế)
Bị hạn chế chủ quyền: các quốc gia có hành vi vi phạm nghiêm trọng luật
pháp quốc tế phải gánh chịu hậu quả với hành vi đó thông qua các biện pháp chế
tài hoặc sự trừng phạt của cộng đồng quốc tế. VD: Vào năm 2006, Hội đồng Bảo
3
an Liên Hợp Quốc đã áp dụng các biện pháp trừng phạt Iran vì nước này không
chấm dứt hoạt động làm giàu uranium. Lệnh cấm vận bao gồm việc cấm các nước
cung cấp những công nghệ và nguyên vật liệu liên quan đến hạt nhân cho nước
này, phong tỏa tài sản của các công ty, cá nhân của Iran có liên quan đến chương
trình hạt nhân, yêu cầu Tehran chấm dứt việc tinh chế uranium, hoạt động có thể
dẫn tới sản xuất bom nguyên tử. Cũng với vấn đề này, Liên hợp quốc đã thi hành
sự trừng phạt về kinh tế và thương mại đối với Triều Tiên vào các năm 2006 và
2009. Nghị quyết 1874 đã ngăn cản các dịch vụ tài chính có thể phục vụ cho
chương trình hạt nhân hoặc tên lửa đạn đạo, cấm tất cả việc xuất khẩu vũ khí từ
quốc gia này và phần lớn sự nhập khẩu vào quốc gia này, ngoại trừ vũ khí bộ
binh, vũ khí hạng nhẹ và các thiết bị liên quan. Việc bị hạn chế chủ quyền là một
biện pháp trừng phạt từ phía cộng đồng quốc tế đối với quốc gia vi phạm luật pháp
quốc tế, đảm bảo cho hòa bình và an ninh của các quốc gia khác.
Tự hạn chế chủ quyền: Đây là trường hợp các quốc gia tự lựa chọn vì lợi
ích của chính mình hoặc họ tự hạn chế chủ quyền của mình bằng các trao quyền
cho 1 thể chế khác (tổ chức quốc tế, quốc gia khác,…) được thay mặt mình trong
các hoạt động luên quan đến lợi ích của quốc gia. Ví dụ như Các quốc gia trung
lập lựa chọn đứng ngoài các cuộc tranh chấp quốc tế, không tham gia các tổ chức
chính trị quốc tế, không tham gia hoạt động quân sự quốc tế... Thụy Sĩ cam kết
theo đuổi quy chế trung lập vĩnh viễn (1815), Thụy Sĩ đã đứng ngoài cuộc chiến
tranh thế giới thứ 2. Công quốc Monacocho phép Pháp thay mặt họ trong mọi mối
quan hệ đối ngoại dù đó là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Trường hợp này
không vi phạm nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia.
4
KẾT LUẬN
Bình đẳng về chủ quyền là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại. Việc tôn
trọng nghiêm chinh nguyên tắc này là cơ sở quan trọng để đưa trật tự thế giới phát
triển theo xu hướng ngày càng ổn định, hội nhập và tiến bộ hơn.
5
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ThS. Nguyễn Thị Kim Ngân-ThS Chu Mạnh Hùng – Giáo trình Luật Quốc
tế, Nxb GDVN, 2010.
2. Giáo trình luật quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà Nội,
2012.
3. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. ĐHQG,
Hà Nội, 1997.
4. Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc cơ
bản điều chinh quan hệ hợp tác giữa các quốc gia.
- Xem thêm -