Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện na...

Tài liệu Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay

.PDF
134
6
67

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THANH HẢO NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ THANH HẢO NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGUYÊN 5 TẮC TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. Tổng quan về chủ quyền quốc gia 5 1.1.1. Khái quát về chủ quyền quốc gia 5 1.1.1.1. Sự xuất hiện khái niệm chủ quyền quốc gia trong lịch sử 5 1.1.1.2. Chủ quyền quốc gia theo quan niệm hiện nay 9 1.1.1.3. Một số đặc tính của chủ quyền quốc gia 13 Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia 15 1.1.2.1. Khái niệm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia 15 1.1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc 16 1.1.2. 3 1.1.2.3. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc 16 1.1.2.4. Nội dung nguyên tắc 18 1.1.2.5. Vai trò, ý nghĩa, của nguyên tắc 25 1.1.2.6. Tầm quan trọng của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia 27 1.1.2.7. Mối quan hệ của nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia với các nguyên tắc khác 29 1.2. Hội nhập quốc tế 32 1.2.1. Khái niệm về hội nhập quốc tế 32 1.2.2. Lịch sử quá trình hội nhập quốc tế 34 1.2.3. Các hình thức hội nhập 36 1.2.4. Vai trò, ý nghĩa của hội nhập quốc tế 41 Chương 2: 45 HỘI NHẬP QUỐC TẾ - THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC VỚI CHỦ QUYỀN QUỐC GIA 2.1. Sự tương tác của nguyên tắc với hội nhập quốc tế 45 2.1.1. Tác động của hội nhập quốc tế 45 2.1.1.1. Tác động tích cực của hội nhập quốc tế 45 2.1.1.2. Tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế 48 2.1.2. Thời cơ và thách thức của hội nhập với chủ quyền quốc gia 53 2.1.2.1. Quan điểm các quốc gia về vấn đề hội nhập 53 2.1.2.2. Tác động của hội nhập với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và ngược lại 55 2.1.2.3. Ảnh hưởng của việc thực hiện nguyên tắc với hội nhập quốc tế 66 2.2. Sự lựa chọn của các quốc gia khi tham gia hội nhập quốc tế 67 2.2.1. Xu hướng nói không với hội nhập 68 2.2.2. Xu hướng hội nhập không quan tâm đến chủ quyền quốc gia 69 4 2.2.3. Xu hướng hội nhập vì mục tiêu quốc gia 71 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG 77 CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ GIẢI PHÁP VỚI VIỆT NAM 3.1. Thực trạng thực hiện tôn trọng chủ quyền quốc gia 77 3.1.1. Các quốc gia đã thực hiện vấn đề tôn trọng chủ quyền 77 3.1.1.1. Việc tuân thủ nguyên tắc các quốc gia trên thế giới 77 3.1.1.2. Việc tuân thủ nguyên tắc của các quốc gia ASEAN 80 3.1.2. Một số biến tướng của việc vi phạm nguyên tắc 82 3.1.2.1. Một số dân tộc thiểu số đòi có nhà nước riêng 82 3.1.2.2. Lợi dụng can thiệp nhân đạo để thực hiện mưu đồ chính trị 83 3.1.2.3. Lợi dụng chống khủng bố để lật đổ các nhà nước hợp hiến, hợp pháp 84 3.1.2.4. Lợi dụng vấn đề nhân quyền để thao túng các quốc gia 86 3.2. Thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong điều kiện hội nhập 89 3.2.1. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam hội nhập 89 3.2.1.1. Thuận lợi của Việt Nam khi hội nhập quốc tế 89 3.2.1.2. Thách thức của Việt Nam khi hội nhập quốc tế 91 3.2.1.3. Tác động của hội nhập với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia 93 3.2.2. Bảo vệ chủ quyền Việt Nam trong thời kỳ hội nhập 98 3.2.3. Một số giải pháp, đề xuất, kiến nghị 102 3.2.3.1. Giải pháp để các quốc gia nghiêm túc thực hiện nguyên tắc 102 3.2.3.2. Một số giải pháp để Việt Nam bảo vệ chủ quyền trong tiến trình hội nhập quốc tế 107 KẾT LUẬN 122 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 124 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT AFTA (Asean Free Trade Area) : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) : Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AFTA (ASEAN Free Trade Area) : Khu vực mậu dịch tự do EU (European Union) : Liên minh Châu Âu FTA (Free trade agreement) : Hiệp định thương mại tự do GATT (General Agreement on Tariffs and Trade) : Hiệp định chung về thương mại và thuế quan GSP (Generalized System of Preferences) : Hệ thống ưu đãi phổ cập EFTA (European Free Trade Association) : Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu FTA (Free trade area) : Khu vực mậu dịch tự do MFN (Most Favoured Nation) : Chế độ tối huệ quốc NAFTA (North American Free Trade Agreement) : Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ NATO (North Atlantic Treaty : Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương Organization) NT (National Treament) : Chế độ đối xử quốc gia OECD (Organization for Economic : Tổ chức quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế Cooperation and Development) PTA (Preferential Trade Arangements) : Thỏa thuận thương mại ưu đãi SEATO (Southeast Asia Treaty Organization) : Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á WTO (World Trade Organization) : Tổ chức Thương mại Thế giới 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hóa, tự do thương mại quốc tế hiện nay, vấn đề tôn trọng chủ quyền quốc gia ngày càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Chủ quyền quốc gia là tối cao, bất khả xâm phạm, mỗi quốc gia đều bình đẳng trên trường quốc tế và có quyền tài phán tối cao trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mình. Trong xu thế toàn cầu hóa và đa phương hóa hiện nay chỉ cần lơ là chút chủ quyền quốc gia sẽ bị xâm phạm ngay và một khi quốc gia bị mất chủ quyền sẽ dễ dàng bị chi phối trong mọi hoạt động đối nội và đối ngoại. Một số siêu cường trên thế giới đang giương cao ngọn cờ nhân quyền, lợi dụng can thiệp nhân đạo và chống khủng bố để thao túng một số quốc gia nhỏ nhằm đạt được lợi ích kinh tế và chính trị từ đó biến những quốc gia này thành thuộc địa kiểu mới, thực hiện giấc mơ bá chủ thế giới của mình. Quá trình toàn cầu hóa thúc đẩy các quốc gia hội nhập phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, tuy nhiên nó cũng bắt buộc các quốc gia phải thích ứng với các điều kiện trên sân chơi chung của nhân loại. Vấn đề an ninh quốc phòng, kinh tế, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chống lại những luồng văn hóa tư tưởng trái với chính sách phát triển, chế độ chính trị của mỗi quốc gia. Tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, các quốc gia phải chấp nhận giới hạn quyền lực riêng của mình trên một số lĩnh vực. Vậy chủ quyền quốc gia sẽ bị ảnh hưởng thế nào trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế?. Có hay không vấn đề chủ quyền quốc gia đang bị "thay đổi, thu hẹp", "mài mòn" trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay? Các quốc gia nhận thức về vấn đề này như thế nào và làm thế nào để quốc gia có thể hội nhập quốc tế vẫn đảm bảo chủ chủ quyền quốc gia? Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đồng thời mong muốn được đóng góp một phần công sức vào việc nghiên cứu về tác động của hội 7 nhập quốc tế đối với mỗi quốc gia nói chung và việc bảo vệ và thực hiện chủ quyền của Việt Nam nói riêng. Do vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ luật học nhằm khẳng định đường lối chính sách của nhà nước Việt Nam trong quá trình hội nhập luôn hướng tới những giá trị chung của nhân loại nhưng vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích Trong khuôn khổ của đề tài, luận văn đã nghiên cứu nguồn, nội dung của nguyên tắc, làm rõ vai trò và ý nghĩa quan trọng của nguyên tắc này trong bối cảnh toàn cầu hóa và đa phương hóa. Qua việc phân tích, bình luận để đi tìm câu trả lời cho khẳng định đây là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, ảnh hưởng nhất đến chủ quyền tối cao của mỗi quốc gia. Luận văn cũng đưa ra những kiến nghị, chỉ ra những khó khăn và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Qua đó, luận văn mong muốn đóng góp tiếng nói khoa học pháp lý trong việc khẳng định việc tham gia vào quá trình hội nhập là tất yếu của các quốc gia trên thế giới nhưng phải hội nhập ra sao để phát triển kinh tế mà vẫn giữ vững chủ quyền quốc gia. Luận văn là tài liệu có giá trị tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, đại học Luật nghiên cứu, tìm hiểu về các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định gồm: - Luận giải những vấn đề lý luận chung về chủ quyền quốc gia, nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. 8 - Đánh giá những tác động của hội nhập quốc tế với chủ quyền quốc gia và thực trạng thực hiện nguyên tắc của Việt Nam và thế giới. - Đưa ra định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần thực hiện nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia trên thế giới và đưa ra một số giải pháp cụ thể với Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế để phát triển kinh tế nhưng vẫn giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền quốc gia. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Những trường phái, học thuyết, tư tưởng trong Luật quốc tế hiện đại về nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia. - Hiến chương Liên hợp quốc, Hiến chương ASEAN, Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên hợp quốc và các quy định hiện hành trong Luật quốc tế, Luật quốc gia liên quan đến nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. - Những sự kiện chính trị, xã hội trong quan hệ khu vực và quốc tế liên quan đến nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. 3.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh. - Phương pháp bình luận, diễn giải được sử dụng trong chương 1 của luận văn khi nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của chủ quyền quốc gia nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. - Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích được sử dụng trong chương 2 của luận văn khi nghiên cứu về hội nhập quốc tế, thời cơ và thách thức với chủ quyền quốc gia. 9 - Phương pháp phân tích, tổng hợp, đánh giá, sử dụng lý luận khoa học pháp lý được sử dụng ở chương 2 và chương 3 khi xem xét nghiên cứu và thực tiễn giải quyết những vụ việc liên quan để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập. 4. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan những vấn đề lý luận về nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế. Chương 2: Hội nhập quốc tế - thời cơ và thách thức với chủ quyền quốc gia. Chương 3: Thực trạng thực hiện nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia và giải pháp với Việt Nam. 10 Chương 1 TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TÔN TRỌNG CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1. TỔNG QUAN VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA 1.1.1. Khái quát về chủ quyền quốc gia "Quốc gia là chủ thể đầu tiên của Luật quốc tế và là chủ thể duy nhất có chủ quyền" [16]. Theo Điều 1 Công ước Moongtevideo năm 1993 về quyền và nghĩa vụ các quốc gia thì quốc gia được coi là thực thể chính trị pháp lý bao gồm các yếu tố cơ bản: dân cư, lãnh thổ, bộ máy nhà nước và quyền năng chủ thể. Chủ quyền quốc gia được coi là thuộc tính cơ bản của quốc gia, là phạm trù chính trị, pháp lý có liên hệ mật thiết với vấn đề độc lập chính trị, an ninh, kinh tế... của quốc gia. Hilaire Barnett cho rằng: "Chủ quyền là một học thuyết gây nên sự tranh luận giữa các nhà triết học, luật học, chính trị học... và là một khái niệm được giải thích khác nhau dưới nhiều góc độ". Trong khoa học Luật quốc tế, chủ quyền quốc gia là một trong những nội dung cơ bản được quan tâm, nghiên cứu, nó có mối liên hệ mật thiết tới những vấn đề như quyền lực nhà nước, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và có vị trí quan trọng khi nghiên cứu mối quan hệ giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. 1.1.1.1. Sự xuất hiện khái niệm chủ quyền quốc gia trong lịch sử Khái niệm chủ quyền quốc gia xuất hiện khá sớm trong lịch sử pháp luật quốc tế và được phát triển liên tục cho đến ngày nay. Thuật ngữ "chủ quyền" xuất phát từ tiếng pháp "souverainete" có nguồn gốc từ tiếng Latinh cổ là Superanitas hoặc Supremapotestas đều có nghĩa là quyền lực tối cao" [67]. Tuy 11 vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về chủ quyền quốc gia và quan điểm chính trị pháp lý về nó, tiêu biểu là một số quan điểm. - Quan niệm chủ quyền tuyệt đối: "Quan niệm chủ quyền tuyệt đối của quốc gia đã xuất hiện ở Châu Âu vào khoảng thế kỷ XV-XVI như là một khuynh hướng lý luận pháp luật quốc tế nhằm chống lại quyền lực của đức Giáo hoàng và Hoàng đế" [63]. Đại diện của quan niệm này là Niceolo Machiavelli (1469-1527), trong cuốn "Le Prince" xuất bản năm 1932 ông cho rằng chủ quyền quốc gia phải tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, phải được đặt trên mọi quyền lực khác. Nghĩa là trong phạm vi lãnh thổ của mình, một quốc gia có quyền làm mọi điều bất chấp các quốc gia khác cũng như pháp luật quốc tế, và để tăng cường quyền lực của mình quốc gia có thể sử dụng tất cả các phương thức, biện pháp khác nhau, kể cả việc sử dụng thủ đoạn. "Quan niệm chủ quyền tuyệt đối của quốc gia đã bị các luật gia quốc tế phê phán quyết liệt" [61]. Quan điểm đó trong giai đoạn hội nhập quốc tế lại có tính nguy hiểm lớn khi nó đặt ra nền móng cho việc không thừa nhận giá trị ràng buộc pháp lý của các cam kết quốc tế, cho phép các quốc gia tự ý đặt ra các quy tắc pháp luật bất chấp cả sự tồn tại của pháp luật quốc tế, cam kết quốc tế, tạo cơ sở cho các quốc gia có tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự mạnh lấn át các nước nhỏ, các nước có tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự yếu hơn. Điều đó gây ra trở ngại lớn cho sự hợp tác bình đẳng giữa các quốc gia trong giai đoạn hội nhập kinh tế, quốc tế. - Quan niệm chủ quyền độc lập: Một số nhà lý luận quốc tế đã đưa ra quan niệm chủ quyền độc lập của quốc gia. Theo Chales Rousseau: Chủ quyền quốc gia đồng nghĩa với độc lập quốc gia đó. Ông cho rằng có nhiều điểm tương đồng giữa hai khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia được thể hiện ở ba đặc tính sau: Quyền lực toàn vẹn, quyền lực chuyên biệt, quyền lực tự chủ. Theo quan niệm này, chủ quyền 12 quốc gia phải toàn vẹn, chính quyền được phép can thiệp vào mọi lĩnh vực xét thấy có lợi cho sự tồn tại và phát triển bền vững của quốc gia. Chủ quyền quốc gia độc quyền trên toàn bộ lãnh thổ của mình, trừ trường hợp quốc gia tự mình hạn chế độc quyền này bởi những cam kết quốc tế với các tổ chức quốc tế. Chủ quyền quốc gia phải tự chủ, không lệ thuộc vào quốc gia nào trong quan hệ đối nội và đối ngoại [65]. Như vậy, quan niệm chủ quyền quốc gia độc lập có nhiều điểm tiến bộ hơn quan điểm chủ quyền tuyệt đối. Tuy nhiên, quan điểm chủ quyền độc lập chưa thực sự rõ ràng về nhiều phương diện nhất là vấn đề đối ngoại. Quan niệm này mới chỉ tập trung vào một khía cạnh của chủ quyền quốc gia là lĩnh vực đối nội mà chưa đề cập đến khía cạnh đối ngoại của quốc gia. Nó sẽ trở thành thứ lý luận nguy hiểm khi phát triển quan niệm quyền lực tự chủ lên thành quyền lực vô hạn, làm cho quốc gia và chính quyền trong nước bất chấp mọi nguyên tắc, không chịu phục tùng bất cứ một quyền lực quốc tế nào. - Một số quan niệm khác về chủ quyền quốc gia Trong lịch sử pháp luật quốc tế còn tồn tại nhiều quan niệm về chủ quyền quốc gia. Theo giáo sư GScelles: "Chủ quyền quốc gia tối đa nghĩa là trong quan hệ quốc tế các quốc gia có chủ quyền tuy là không tuyệt đối nhưng cũng đủ rộng lớn hơn chủ quyền các thực thể khác, do có chủ quyền quốc gia đó nên các quốc gia giữ vị trí ưu thế trong xã hội quốc tế" [66]. Ngoài ra, còn có quan niệm chủ quyền đối ngoại của những nước tham gia công ước Montevideo ngày 16/12/1933 về quyền và nghĩa vụ các quốc gia. Theo quan niệm này, các quốc gia phải có một quyền uy chính trị đủ năng lực pháp lý đối ngoại, chủ quyền quốc gia có nghĩa là quyền lực đối ngoại của các quốc gia để giao tiếp với các chủ thể chính trị khác trong quan hệ quốc tế, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Từ thế kỷ 18 để phục vụ cho việc cầm quyền của giai cấp mới, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và nhằm củng cố địa vị của mình trong xã hội mới, 13 các tư tưởng gia chính trị pháp lý ở đây đã cố gắng lập luận và xây dựng hai xu hướng, hai luồng tư tưởng về chủ quyền quốc gia: Chủ quyền pháp luật quốc gia và chủ quyền pháp luật quốc tế. Chủ quyền pháp luật quốc gia được hiểu là pháp quyền tối cao của quốc gia - Nhà nước. Chủ quyền pháp luật quốc tế được hiểu là toàn bộ pháp quyền quốc gia mà nhà nước sử dụng trong quan hệ đối ngoại. Theo quan điểm của nhiều luật gia thì cách định chế chủ quyền quốc gia như vậy là vô căn cứ vì chủ quyền pháp luật quốc gia và chủ quyền pháp luật quốc tế có mối quan hệ mật thiết gắn bó, không tách rời cho dù có nhiều quan điểm khác nhau về mối quan hệ tương thích giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Trên thực tế không thể duy trì được tình trạng quyền lực quốc gia bị hạn chế trong quan hệ đối ngoại theo những thỏa thuận hoặc "luật chơi" quốc tế mà vẫn đảm bảo quyền lực tối cao trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia đó. Tuy vậy cũng cần lưu ý rằng mọi quyền lực quốc gia cũng có thể bị hạn chế bởi ý chí tự quyết của chính quốc gia đó nhưng không phải vì hành động tự quyết đó mà quốc gia bị mất hoặc hạn chế quyền độc lập của mình. Một quốc gia có chủ quyền khi ký kết và thực hiện một cam kết quốc tế nào đó, cho dù trong đó có hạn chế một phần quyền lực và nghĩa vụ quốc gia trong quan hệ quốc tế, thì việc ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế đó không làm mất đi hay hạn chế chủ quyền quốc gia này. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế để tăng cường hợp tác giữa các quốc gia vì lợi ích chung, vì hòa bình và an ninh chính trị quốc tế, quốc gia có thể tự nguyện hạn chế những quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản thông qua các cam kết quốc tế trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định theo những điều kiện nhất định không trái với quy ước quốc tế, hoặc quốc gia cũng có thể gánh vác thêm các quyền và nghĩa vụ bổ sung để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. 14 1.1.1.2. Chủ quyền quốc gia theo quan niệm hiện nay Chủ quyền quốc gia là một trong những thuộc tính chính trị pháp lý cần thiết của quốc gia. Nội dung thực tế và cội nguồn tư tưởng của hệ chủ quyền thay đổi trong suốt quá trình lịch sử tùy thuộc vào tính chất của hình thái kinh tế xã hội. Trong thời đại ngày nay, khái niệm chủ quyền trong pháp luật quốc tế được cấu thành từ ba khái niệm quan trọng là: chủ quyền dân tộc (quyền của mỗi dân tộc được thành lập một quốc gia dân tộc độc lập của mình), chủ quyền quốc gia và chủ quyền nhân dân (quyền của nhân dân làm chủ trong việc hoạch định một hệ thống kinh tế - xã hội và hình thái tổ chức nhà nước phù hợp với mình, quyền xác định một quy chế chính trị, kinh tế, xã hội và pháp lý cho mình. Từ những phân tích tổng quan về chủ quyền quốc gia, ta có khái niệm chủ quyền quốc gia như sau: "Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó. Quốc gia thể hiện chủ quyền của mình trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao" [59]. Chủ quyền quốc gia bao gồm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ, mỗi quốc gia có toàn quyền quyết định mọi vấn đề về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của mình. Trong quan hệ quốc tế, mỗi quốc gia đều có quyền quyết định mọi vấn đề về lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, xã hội cũng như chính sách đối ngoại của mình mà các quốc gia khác không có quyền can thiệp. Tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, dù khác nhau về tính chất chính trị, trình độ kinh tế, xã hội đều được bình đẳng về chủ quyền quốc gia, bình đẳng về sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, bình đẳng trong quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, mà không một quốc gia nào được áp đặt hay can thiệp dưới bất kỳ hình thức nào [59]. Đây là quan điểm dung hòa các quan điểm khác phù hợp nhất 15 với bối cảnh hiện nay. Dựa trên cơ sở kế thừa những thành tựu của chính trị học, dân tộc học…có thể khái quát khái niệm chủ quyền quốc gia ở hai nội dung: * Quyền tối cao của quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh thổ thể hiện ở hai phương diện: - Quyền sở hữu của mỗi quốc gia dân tộc bao gồm: đất đai, mặt nước, không gian, rừng, khoáng sản, tài nguyên vùng lòng đất trong phạm vi giới hạn bởi biên giới quốc gia thuộc quyền sở hữu của quốc gia. Quốc gia có quyền sở hữu đầy đủ và trọn vẹn trên cơ sở phù hợp với lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó và phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Mọi sự thay đổi hoặc định đoạt liên quan đến số phận của một vùng nào đó thuộc lãnh thổ quốc gia phải dựa trên cơ sở quyền dân tộc tự quyết. Mặt khác, quốc gia được quyền sở hữu đối với mọi nguồn lợi thu được từ việc cho các quốc gia khác, chủ thể khác sử dụng khai thác lãnh thổ của mình như cho thuê lãnh thổ, cho quá cảnh qua lãnh thổ, cho thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên, thủy lợi, thủy điện. - Quyền lực của quốc gia dân tộc: Là quyền lực hoàn toàn, riêng biệt và không thể chia sẻ của quốc gia dân tộc trong phạm vi lãnh thổ. Mỗi nhà nước là một chủ thể tối cao và tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ của mình, không một quốc gia nào được phép can thiệp vào phạm vi lãnh thổ của quốc gia khác dưới bất kỳ hình thức nào. Điều này có nghĩa là: "mỗi quốc gia có quyền lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội kinh tế, văn hóa riêng của mình" [35]. Đây là quyền tự lựa chọn cho mình một chế độ chính trị, đường lối phát triển đất nước, cách thức tổ chức và thực thi quyền lực của bộ máy nhà nước. Đây là một quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia mà không một quốc gia nào, một chủ thể nào được quyền can thiệp hoặc làm tổn hại đến quyền này của quốc gia. Phương diện quyền lực còn thể hiện ở quyền tài phán của các quốc gia trong phạm vi lãnh thổ một cách không hạn chế. Quyền tài phán ở đây bao 16 gồm: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Quyền lập pháp là quyền ban hành hệ thống pháp luật của quốc gia, quyền hành pháp là quyền triển khai việc thực thi pháp luật thông qua hệ thống các cơ quan nhà nước, quyền tư pháp là quyền phán xử đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Quyền tài phán của quốc gia còn thể hiện với công dân của quốc gia đó. Mọi công dân mang quốc tịch của một quốc gia chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật quốc gia đó bất kể công dân đó đang sinh sống và cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó hay quốc gia khác. Quyền lực tối cao của một quốc gia là căn cứ để quốc gia giải quyết mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh, quốc phòng... trong phạm vi lãnh thổ của mình, không một thế lực nào từ bên ngoài được dùng sức ép về chính trị, quân sự, kinh tế để can thiệp vào công việc nội bộ các quốc gia dưới mọi hình thức. Quốc gia có toàn quyền trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình, chống mọi hành vi xâm phạm chủ quyền quốc gia phù hợp với nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, các quốc gia không được phép sử dụng chủ quyền lãnh thổ của mình gây thiệt hại cho chủ quyền quốc gia khác. Cụ thể: cấm đe dọa hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia khác, cấm xâm phạm tới sự ổn định và bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia, không được phép sử dụng lãnh thổ của quốc gia khác khi chưa được sự đồng ý của quốc gia đó, không cho phép quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại quốc gia thứ ba. Điều này đã được thể hiện tại khoản 4, Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc: "Tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế không được đe dọa dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào hoặc nhằm những mục đích khác không phù hợp với mục đích của Liên hợp quốc" [29]. Như vậy, nhìn từ góc độ chủ quyền theo lãnh thổ của quốc gia, lãnh thổ của quốc gia vừa là đối tượng của quyền tối cao, vừa là phạm vi không gian của quyền tối cao, vì vậy 17 có thể sử dụng khái niệm quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ hay quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ. Hai phương diện quyền lực và quyền sở hữu có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong tổng thể quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ. Đảm bảo và sử dụng có hiệu quả quyền sở hữu quốc gia có được cơ sở vật chất cho sự tồn tại bền vững và thiết lập, củng cố bộ máy quyền lực của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ. * Quyền độc lập của quốc gia dân tộc trong quan hệ quốc tế Một thuộc tính cũng hết sức quan trọng của quốc gia là quyền độc lập của quốc gia trong qua hệ quốc tế. Trong quan hệ quốc tế mọi quốc gia dân tộc đều độc lập và bình đẳng, không một chủ thể nào được đứng trên chủ quyền quốc gia, được đưa ra các mệnh lệnh buộc quốc gia khác phải phục tùng. Việc xây dựng hệ thống các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia với các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế không dựa trên cơ sở áp đặt ý chí mà thông qua con đường duy nhất là thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng. Tuy trong luật quốc tế còn tồn tại nhiều điều khoản mang tính mệnh lệnh bắt buộc trong các quan hệ quốc tế nhưng về bản chất chúng cũng là sự thỏa thuận, chúng được hình thành trên cơ sở sự "thừa nhận rộng rãi" của các chủ thể luật quốc tế - một mức độ triệt để và toàn diện của thỏa thuận. Trong luật quốc tế hiện đại, các quốc gia là thực thể có chủ quyền, bình đẳng với nhau về chủ quyền, hành động với tư cách là chủ thể độc lập, không chịu sự can thiệp của các chủ thể khác. Nhưng xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế là sự hội nhập, sự hợp tác trên cơ sở cùng có lợi lại đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia. Sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế [59]. Tuy nhiên mức độ và hình thức hợp tác tùy thuộc vào chính bảo thân các quốc gia, tùy thuộc vào nhu cầu, điều kiện vật chất và khả năng sẵn sàng 18 thích ứng của hệ thống pháp luật trong nước thực thi mà quốc gia phải gánh vác. Như vậy mỗi quốc gia phụ thuộc vào điều kiện của mình có quyền tham gia hay không tham gia vào các tổ chức quốc tế hoặc tham gia ký kết các điều ước quốc tế song phương và đa phương. Không một chủ thể nào có thể ép buộc một quốc gia có chủ quyền tham gia vào các tổ chức quốc tế hoặc cưỡng chế một quốc gia nào đó ký các điều ước quốc tế song phương và đa phương nếu quốc gia đó không hoàn toàn tự nguyện. 1.1.1.3. Một số đặc tính của chủ quyền quốc gia Thứ nhất, chủ quyền quốc gia là duy nhất và không thể phân chia. Quốc gia là một thực thể bao gồm lãnh thổ, dân cư, nhà nước và quyền năng chủ thể. Các yếu tố này gắn bó chặt chẽ tạo nên một thể thống nhất. Nói đến chủ quyền người ta thường nghĩ tới quyền lực, hai khái niệm này có nhiều điểm tương đồng và có mối quan hệ hữu cơ với nhau nhưng không thể đồng nhất chúng. Chủ quyền và quyền lực đều có điểm chung là được biểu hiện bởi các quyền, chúng đều được xác định là sức mạnh và được nói đến như khả năng buộc các chủ thể khác phải phục tùng sức mạnh của mình. Tuy nhiên điểm khác biệt cơ bản giữa chủ quyền và quyền lực là quyền lực được xác định như một sức mạnh vật chất, có khả năng trực tiếp tác động tới chủ thể còn chủ quyền lại được coi là thuộc tính của một chủ thể nhất định, từ thuộc tính đó có thể lý giải tại sao chủ thể lại có quyền lực. Như vậy, bản chất của chủ quyền quốc gia là quyền lực nhưng nó không phải là bản thân quyền lực mà nó được hiểu là cội nguồn của quyền lực, năng lực nắm giữ và thực thi quyền lực. Quyền lực có thể phân chia nhưng chủ quyền thì luôn luôn là duy nhất và không thể phân chia. Trong quan hệ quốc tế còn tồn tại những hiện tượng như chuyển nhượng lãnh thổ, phân tách, sáp nhập quốc gia là những hiện tượng đặc biệt có liên quan đến chủ quyền quốc gia. Đây không phải là sự chia sẻ chủ quyền mà chỉ là sự biến động của quốc gia về yếu tố lãnh thổ, dân cư, không thể khái quát 19 những hiện tượng đặc biệt này để phủ nhận tính duy nhất và không thể phân chia của chủ quyền quốc gia. Mọi sự biến động đều phải tuân theo thủ tục ràng buộc chặt chẽ, đặc biệt phải đảm bảo quyền dân tộc tự quyết. Thứ hai, chủ quyền quốc gia có tính tối cao. Điều đó có nghĩa là không có quyền lực nào đặt lên trên quyền lực của quốc gia, buộc các quốc gia phải tuân theo. Nội dung pháp lý của chủ quyền quốc gia là quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ và độc lập trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên cần phân biệt "tính tối cao" với "tính tuyệt đối", quan niệm về chủ quyền tuyệt đối sai lầm ở chỗ khẳng định quốc gia được phép nhân danh chủ quyền, sử dụng mọi công cụ, thủ đoạn để bành trướng quyền lực của mình, dẫn tới chỉ một quốc gia có chủ quyền tối cao nhờ vào quyền lực của mình. Còn ở đây khi thừa nhận tính tối cao dành cho mọi quốc gia và không một quốc gia nào được chà đạp lên chủ quyền quốc gia khác. Thứ ba, chủ quyền quốc gia là bình đẳng. Tính bình đẳng của chủ quyền quốc gia được nhìn nhận trong mối quan hệ tương quan giữa chủ quyền của các quốc gia với nhau. Chủ quyền của mọi quốc gia là tối cao, không thể bị xâm phạm. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 tại Điều 2 khẳng định "Liên hợp quốc được tổ chức và hoạt động trên cơ sở bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia thành viên" [29]. Nguyên tắc này một lần nữa được ghi nhận trong Tuyên bố 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về hệ thống các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia. Ngày nay nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia được ghi nhận trong hầu hết các văn kiện pháp lý quốc tế. Bước sang thế kỷ XXI, dù vẫn còn những bất đồng nhưng chưa bao giờ các đường biên giới quốc gia lại được đảm bảo ổn định như hiện nay vì lợi ích chung của các quốc gia. Thông qua các điều ước song phương và đa phương các quốc gia xác lập, tôn trọng lãnh thổ của nhau. Trong bối cảnh như vậy, chủ quyền quốc gia đã có nhiều thay đổi về nội dung và ý nghĩa: Chủ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan