A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Truyền thống đạo lý của dân tộc luôn lấy chữ “Nhân” làm gốc. Tư tưởng
nhân ái “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” là truyền
thống tốt đẹp, phẩm chất ngời sáng của con người Việt Nam. Chia sẻ những bất
hạnh của cuộc sống với NKT là một trong những chính sách thể hiện rõ tính
nhân đạo và vai trò quan trọng của Nhà nước thông qua chế độ bảo trợ xã hội
cho NKT. Trong quá trình thực thi, nguyên tắc tham vấn NKT, đối tác xã hội, tổ
chức xã hội cũng dựa trên những quy tắc nhất định được cụ thể hóa trong các
văn bản pháp luật, là công cụ pháp lý hữu hiệu để đẩy nhanh quá trình đưa NKT
hòa nhập cộng đồng.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội, tổ chức xã hội
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Tham vấn là quá trình tăng cường khả năng,
trong đó nhà tham vấn hợp tác với đối tượng để giúp họ xác định và làm sáng tỏ
vấn đề, xác định những nguyên nhân gốc rễ và các cách để cải thiện vấn đề của
họ. Nhà tư vấn khai thác những suy nghĩ và cảm xúc của đối tượng với mục đích
khuyến khích sự phát triển và sự lành mạnh về tâm lí”. Do đó có thể hiểu tham
vấn NKT, đối tác xã hội, tổ chức xã hội là việc tham khảo ý kiến của NKT, đối
tác xã hội, tổ chức xã hội về những vấn đề liên quan đến NKT, trong đó có pháp
luật về NKT, việc làm đối với NKT, chính sách bảo trợ xã hội…
2. Người khuyết tật
Khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định: “1. Người
khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy
giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt,
học tập gặp nhiều khó khăn”.
3. Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội, tổ chức xã hội
Là những tư tưởng, định hướng mang tính chủ đạo trong quá trình đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NKT. Đây không chỉ là tinh thần chung của
1
pháp luật quốc tế mà còn là quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước ta trong quá trình đảm bảo công bằng đối với NKT
II. Nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội, tổ chức xã hội
theo quy định của pháp luật người khuyết tật
1. Cơ sở của nguyên tắc
Cơ sở của nguyên tắc này là cam kết của cộng đồng quốc tế trong Công
ước về quyền của NKT: “Trong việc xây dựng và thực thi pháp luật và chính
sách để thực hiện Công ước này và trong quá trình ra quyết định về những vấn
đề có liên quan tới người khuyết tật, các quốc gia thành viên cần có sự tham
vấn chặt chẽ và tham gia tích cực của người khuyết tật, bao gồm cả trẻ em
khuyết tật thông qua các tổ chức đại diện của họ” (khoản 3 Điều 4 Các nghĩa vụ
chung).
Điều 9 Luật NKT Việt Nam năm 2010 quy định như sau: “1. Tổ chức của
người khuyết tật là tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định
của pháp luật để đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên là người
khuyết tật, tham gia xây dựng, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật đối với
người khuyết tật. 2. Tổ chức vì người khuyết tật là tổ chức xã họi được thành
lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động trợ
giúp người khuyết tật”.
2. Nội dung của nguyên tắc
Nội dung của nguyên tắc này được hiểu là khi ban hành hoặc phê chuẩn
văn bản pháp luật, chính sách về NKT, các nhà lập pháp, xây dựng chính sách
cần tham vấn rộng rãi mọi cá nhân hoặc tổ chức, đặc biệt là NKT và các tổ chức
đại diện của họ, các tổ chức xã hội liên quan (Ví dụ công đoàn và tổ chức đại
diện của người sử dụng lao động), các tổ chức cung cấp dịch vụ cho NKT, các
chuyên gia tư vấn độc lập…Mỗi tổ chức, cá nhân này dưới góc nhìn và kinh
nghiệm của họ đưa ra những cách tiếp cận khác nhau về vấn đề cần giải quyết.
Tổng hợp những ý kiến này lại sẽ cho người làm luật, hoạch định chính sách có
cái nhìn tổng quát để giải quyết vấn đề trên cơ sở hài hòa giữa quyền của NKT
với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế,
2
xã hội cụ thể. Tuy nhiên phương pháp, cách thức tổ chức tham vấn, vị trí cũng
như giá trị tham vấn của tổ chức, cá nhân là khác nhau tùy thuộc vào mô hình tổ
chức của mỗi quốc gia. Ở Viêt Nam, việc ban hành văn bản pháp luật được áp
dụng trên cơ sở của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008.
3. Ý nghĩa của nguyên tắc
Tham vấn NKT, đối tác xã hội, tổ chức xã hội là cách thức dân chủ, tạo
điều kiện để người dân thể hiện quan điểm, chính kiến về những quy định về
người khuyết tật nói chung cũng như đối với từng điều khoản cụ thể của pháp
luật về NKT. Thế mạnh của hình thức này thậm chí so với trưng cầu ý dân, khi
mà mỗi người chỉ có thể nói “đồng ý” hoặc “không đồng ý” là ở chỗ có thể tạo
điều kiện để NKT cũng như đối tác xã hội, tổ chức xã hội thảo luận, tạo diễn đàn
tranh luận; qua đó về tâm lý NKT thấy được vai trò của mình, sự gắn bó của
mình đối với các vấn đề liên quan đến chính bản thân mình.
Tham vấn NKT, tổ chức xã hội, đối tác xã hội cũng góp phần nâng cao
năng lực và kiến thức của NKT cũng như toàn xã hội về pháp luật về NKT,
chuẩn bị cho họ (đặc biệt là NKT) tham gia vào các sự kiện chung, thực hiện và
bảo vệ các quyền của mình, tôn trọng các quy định của pháp luật về NKT, tăng
cường tính hợp pháp của pháp luật NKT bằng cách đảm bảo rõ nó đã phản ánh
sự quan tâm thích đáng của nhân dân.
Tham vấn NKT, đối tác xã hội, tổ chức xã hội một cách thực chất đã góp
phần đảm bảo tính đại diện rộng rãi, thu hút tất cả các bên liên quan vào quá
trình thảo luận, góp ý kiến với các quy định của pháp luật về NKT, tạo điều kiện
cho các ý kiến của họ được lắng nghe. Bởi vậy việc thực hiện tham vấn góp
phần hướng đến sự đồng thuận trong xã hội, vừa ưu tiên bảo đảm quyền và lợi
ích cho NKT, vừa đảm bảo được lợi ích chung của toàn xã hội, dung hòa được
giữa cái chung và cái riêng.
3
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc tham vấn người khuyết tật, đối tác xã
hội, tổ chức xã hội
1. Ưu điểm
1.1. Tham vấn xây dựng dự án Luật Người khuyết tật năm 2010
Trong hai ngày từ ngày 28 – 29/08/2009 tại TP. Hồ Chí Minh, Ủy ban các
ván đề xã hội của Quốc hội đã tổ chức hội thảo khu vực phía Nam với chủ đề:
“Tham vấn về dự án Luật Người khuyết tật và việc thực hiện pháp luật về lao
động đối với lao động nữ”.
Tham dự Hội thảo có bà Trương Thị Mai – Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề
xã hội của Quốc hội, ông Trương Ngọc Tùng – Chủ tịch Tổng liên đoàn lao
động Việt Nam, ông Nguyễn Trọng Đàm – Thứ trưởng Bộ Lao động thương
binh và xã hội, đại diện các Sở Lao động – Thương binh và xã hội, Liên đoàn
lao động, Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố cùng với các tổ chức, doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh của NKT, doanh nghiệp thu hút nhiều lao động là
NKT và lao động nữ khu vực phía Nam.
Phát biểu tại Hội thảo, bà Trương Thị Mai nhấn mạnh: Chính sách đối với
NKT là một hợp phần quan trọng trong tổng thể các chính sách xã hội nhằm
giúp đỡ và tạo cơ hội để họ vượt qua những rào cản và hòa nhập với cuộc sống.
Tại Việt Nam chính sách này đã được triển khai rộng rãi từ năm 1998 với sự ra
đời của Pháp lệnh về người tàn tật. Pháp lệnh đã đem lại những thay đổi tích
cực, cải thiện một phần đời sống của người tàn tật. Tuy nhiên cơ hội hòa nhập
cho NKT với cộng đồng vẫn đang là một thách thức lớn, nhiều vấn đề chưa
được giải quyết có hiệu quả như công tác hướng nghiệp, đào tạo nghề, việc làm
cho NKT, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Tại Hội thảo Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội Nguyễn
Trọng Đàm đã trình bày báo cáo tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người
tàn tật cùng các văn bản pháp luật liên quan và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về
NKT, thực trạng và giải pháp thực hiện chính sách, pháp luật lao động đối với
lao động nữ nhìn từ góc độ bình đẳng giới. Theo Thứ trưởng Nguyễn Trọng
Đàm, sau hơn 10 năm kể từ khi Pháp lệnh về người tàn tật được thông qua, đến
4
nay Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 02 Nghị quyết và 19
luật chuyên ngành có chương, điều quy định về những vấn đề liên quan đến
quyền lợi của NKT, trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã hội đối với NKT
1
. Qua đánh giá, hệ thống văn bản pháp luật về trợ giúp NKT do cơ quan từ
trung ương đến địa phương ban hành tương đối nhiều. Hệ thống văn bản đã thể
chế hóa và điều chỉnh tương đối toàn diện các quan hệ chính trị, tư pháp, kinh tế,
văn hóa xã hội có liên quan đến NKT và quy định chi tiết về pháp lý để NKT
hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên do ban hành nhiều văn bản nên việc tổ chức
thực hiện đã gặp khó khăn ở trung ương và địa phương. Đồng thời do Pháp lệnh
về người tàn tật chưa quy định đầy đủ khung, nguyên tắc và chế độ chính sách,
giải pháp trợ giúp nên dẫn đến các văn bản ban hành sau chưa bảo đảm được
tính thống nhất. Các luật chuyên ngành cũng mới chỉ quy định lại về nguyên tắc,
chưa có quy định chi tiết về các chế độ, nguồn lực, tổ chức thực hiện đã dẫn đến
sự không đồng bộ giữa các quy định sau nhiều năm chưa được thực hiện đầy đủ.
So sánh hệ thống văn bản quy định trong nước với Công ước quốc tế về
quyền của NKT và kinh nghiệm của một số nước cho thấy, hệ thống pháp luật
hiện hành của Việt Nam tương đối tương đồng. Tuy nhiên có sự khác nhau là ở
chỗ các nước đều được đưa vào Luật nhưng Việt Nam thì chủ yếu quy định bằng
các văn bản dưới luật hoặc đang triển khai ở dạng chính sách, chương trình, dự
án, đề án mặc dù các chế độ chính sách đó đã được thực hiện tương đối ổn định
và lâu dài. Để phù hợp với các quy định theo Công ước quốc tế, cần thiết nghiên
cứu những quy định dưới luật đã thực hiện ổn định và phù hợp để xây dựng và
hệ thống hóa lên thành Luật NKT.
Hội thảo đã được nghe 07 bài tham luận và đóng góp ý kiến của các địa
phương như: Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Cần Thơ, Đồng Nai, Bình
Dương, TP. Hồ Chí Minh, Liên đoàn lao động các tỉnh thành nói trên cùng với
các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là NKT nêu lên nhiều vấn đề bức xúc
và kiến nghị với các Bộ, ngành và Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội về các
vấn đề liên quan đến NKT tại các địa phương như: TP. Hồ Chí Minh kiến nghị
1
http://www.aepd-vn.org/modules.php?name=News&op=viewst&sid=118
5
chính sách cho NKT gồm: trợ cấp xã hội, chỉnh hình phục hồi chức năng, chăm
sóc sức khỏe, học văn hóa, học nghề và tạo công ăn việc làm, các dịch vụ tiếp
cận các công trình công cộng (xây dựng, giao thông), lĩnh vực văn hóa, thể thao
và các hoạt động trợ giúp khác cho NKT. Bình Dương, Đồng Nai và Cần Thơ
cũng có chung kiến nghị về quy định rõ các nguồn lực để thể hiện các chính
sách, giải pháp trợ giúp đối với NKT, mở rộng chính sách hỗ trợ của Nhà nước
đối với các đối tượng để họ dễ dàng được nhận sự hỗ trợ để hòa nhập cộng
đồng, làm giảm những khó khăn cho bản thân và gia đình họ. Đồng thời cần có
chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tạo việc làm cho NKT đã được đào
tạo nghề, khuyến khích các tổ chức xã hội tham gia xã hội hóa những hoạt động
hỗ trợ NKT. Mặt khác cần có những quy định bắt buộc đối với việc xây dựng
các công trình công cộng, cơ sở vật chất của cơ quan Nhà nước, phải có thiết kế
tạo điều kiện cho NKT tiếp cận được. Ngoài ra cần có sự thống nhất giữa các tổ
chức xã hội có liên quan đến NKT như: Hội Người mù, Hội Bảo trợ người tàn
tật và trẻ em mồ côi và ở một số địa phương đã thành lập Hội NKT.
Sau khi nghe báo cáo và đóng góp ý kiến cũng như giải đáp của các cơ
quan, ban, ngành về dự án Luật NKT và các chính sách liên quan đến lao động
nữ, các đại biểu đã thảo luận và nhất trí cao về Dự thảo Luật NKT. Hội thảo
cũng đã nghe nhiều ý kiến đóng góp và các kiến nghị về việc thực hiện pháp luật
lao động nữ tại các doanh nghiệp, cụ thể như: Sửa đổi một số chính sách, chế độ
áp dụng đối với lao động nữ, thực hiện ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nữ.
Sau khi nghe các ý kiến, kiến nghị và đề xuất của các địa phương, Chủ
nhiệm Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội đã ghi nhận những ý kiến tham
vấn và cho rằng đây chính là cơ sở để Ủy ban trình Quốc hội lưu ý khi sửa đổi
Bộ luật Lao động về những quy định đối với lao động nữ phù hợp trên cơ sở hài
hòa giữa lợi ích của các bên, đảm bảo sự bình đẳng về mọi mặt của lao động nữ,
đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp và các bên liên quan.
1.2. Tham vấn đồng cảnh
Tham vấn đồng cảnh là một hoạt động rất cần thiết đối với NKT khi
muốn sống độc lập. Tham vấn đồng cảnh giúp NKT có quyền tự do chọn lựa, tự
6
do quyết định và tự do chịu trách nhiệm về cuộc sống của mình từ việc chăm sóc
bản thân đến việc hòa nhập cộng đồng thông qua sự trợ giúp của những người
xung quanh, bao gồm sự chia sẻ các trải nghiệm của những người cùng cảnh…
Đó là một trong những phần nội dung của chương trình tập huấn “Kỹ năng tham
vấn đồng cảnh lần thứ IV” được tổ chức vào 2 ngày 24 – 25/09/2011 vừa qua
nằm trong khuôn khổ các hoạt động của Dự án Sống độc lập thuộc Trung tâm
Khuyết tật và phát triển – DRD đặt dưới sự tài trợ của Nippon Founndatinon và
Hiệp hội chăm sóc con người Nhật Bản (Human Care Associatinon).
Bằng chuyên môn sẵn có những thành viên của Dự án Sống độc lập tiếp
tục chia sẻ kiến thức và kỹ năng tham vấn đồng cảnh cho 13 tham dự viên là
sinh viên và anh chị khuyết tật đang sinh sống trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh với
mong muốn cùng nhau trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm của chính người
tham dự về học tập, cách sử dụng nguồn lực xã hội, cách nhìn ra điểm mạnh,
điểm hạn chế của mình…tất cả đúc kết thành các chủ đề phong phú và thiết thực
cho những phiên tham vấn được tiến hành trong phần thực tập. Bên cạnh đó
buổi tập huấn trở nên kịch tính và sinh động trong phần “Đóng kịch bằng tham
vấn đồng cảnh” nhằm tái hiện lại tình huống đã gặp trong thực tế. Qua việc nhìn
nhận những câu chuyện rất đời thường của chính những NKT người tham dự
cũng xuất hiện cảm giác liên đới như một người cùng hoàn cảnh, có cơ hội để
trải nghiệm, suy nghĩ từ nhiều góc nhìn khác nhau cho một vấn đề để tìm ra giải
pháp tốt nhất. NTL – Sinh viên năm 2 trường Đại học Văn hóa xúc động phát
biểu: “Từ đây em biết mình có thêm sự tự tin và biết dung hòa cảm xúc của bản
thân. Quả đúng sự khuyết tật trên cơ thể là điều không thể thay đổi nhưng sức
mạnh của tham vấn đồng cảnh sẽ làm thay đổi từ trong tư tưởng cho đến hành
động, giúp em láy lại cân bằng tâm lý và suy nghĩ thấu đáo hơn, tự tin xây dựng
lại những mối quan hệ mà do mặc cảm em đã chối bỏ”. Chị D.T – một nghệ
nhân đến từ Nghệ An chia sẻ: “Lần đầu tiên tôi được trang bị kỹ năng tham vấn
và tôi rất thích mô hình này vì qua đó tôi có thể nhận ra giá trị của bản thân
bằng sự chia sẻ, lắng nghe và từ trải nghiệm thực tế tôi sẽ thổi bùng lên ngọn
lửa niềm tin cho nhiều bạn khuyết tật khác. Điều đó hết sức qua trọng khi tôi
7
biết mình đang muốn gì” 2. Qua 2 ngày các tham dự viên đều nắm rõ những mục
tiêu và quy tắc cũng như khi ở vị trí của tham vấn viên và khách hàng giữ vai trò
nào trong tham vân đồng cảnh. Điều đó thể hiện đạm nét trên những gương mặt
rạng rỡ và nụ cười tươi tắn của họ so với ngày đầu nói chuyện còn run và ngại
ngùng trước đám đông. Điều đó đã một lần nữa tái khẳng định tham vấn đồng
cảnh thực sự là một hoạt động hữu ích cho NKT vì suy cho rằng cốt lõi vẫn là
sức mạnh từ nội lực, từ bản thân người khuyết tật có muốn hòa nhập với xã hội
hay không!
Nằm trong chương trình phát triển của Liên Hợp quốc tại Việt Nam, tháng
01/2013 tại TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức Hội thảo tham vấn đồng cảnh cho NKT
nhằm giúp họ chia sẻ quan điểm và lấy ý kiến về thế giới mà họ mong muốn sau
năm 2015.
Trường hợp thứ nhất là của Nguyễn Thị Thanh Vinh. Chị sinh ra trong
một ngôi làng nhỏ ở ngoại ô TP. Hồ Chí Minh. Không giống như những đứa trẻ
khác khi lên 6 tuổi, Vinh không được đi học vì không có trường nào nơi em ở
nhận học sinh mù. 05 năm sau, em rời nhà vào TP. Hồ Chí Minh để tham gia
vào Trung tâm Thiện An – ngôi nhà dành cho trẻ em khiếm thị. Ở đó em bắt đầu
học đọc và viết bằng chữ nổi ở tuổi 11. Giờ đây Vinh đã là học sinh lớp 07 của
Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Tân Phú. Ở đó em theo chương trình
họ của các bạn không bị khuyết tật. Vinh chia sẻ: “Em rất tự hào được đi học.
Em thực sự rất thích học. Bây giờ em biết em không còn đơn độc trên thế giới
này. Em đã học được nhiều điều hữu ích để sống độc lập. Em cũng đã kết bạn
với nhiều bạn tốt và ở trường chúng em rất vui. Em ước gì mọi trẻ khuyết tật
đều được đi học” – cô bé 15 tuổi tâm sự. “Chúng em muốn được học lên cao
hơn. Cho đến nay người khiếm thính không được học trung học hoặc các bậc
học cao hơn vì ở trường không có ai giúp về ngôn ngữ ra dấu”. Đây là tâm sự
của Tâm và các bạn đến từ trường Hy Vọng dành cho người khiếm thính với
mong muốn được học nhiều nghề hơn để tìm được việc làm tốt.
2
http://www.baomoi.com/Nguoi-khuyet-tat-lam-quen-voi-tham-van-dong-canh/76/4750994.epi
8
Vinh và Tâm là hai trong số 90 NKT đến từ 15 tỉnh thành trên toàn quốc
tham gia vào Hội thảo. Trần Văn Trung, một người đàn ông 51 tuổi đi xe lăn
chia sẻ ông gặp khó khăn khi đi lại vì NKT không sử dụng được đường xá và
phương tiện công cộng: “Đi lại bằng phương tiện công cộng rất quan trọng đối
với chúng tôi. Nếu chúng tôi không ra khỏi nhà thì chúng tôi không có nhiều cơ
hội học hỏi giao tiếp với người khác, tham gia vào các hoạt động xã hội và do
đó sẽ không thể làm việc để kiếm sống”. Còn đối với một phụ nữ khiếm thính
như Đinh Phương Hạnh, khả năng tiếp cận không chỉ đơn thuần là tiếp cận với
giao thông. Chị cũng thiếu thông tin và cơ hội được tham gia. Chị muốn tất cả
các tòa nhà cũng như phương tiện công cộng có thông tin bằng kí hiệu hoặc chữ
để những người không nghe được hiểu điều gì đang diễn ra. Chị còn muốn
người khuyết tật có thể tham gia vào các vấn đề và chính sách liên quan đến họ:
“Chúng tôi muốn tham gia từ giai đoạn tham vấn tới giai đoạn thực hiện các
chính sách liên quan đến chúng tôi”. Chị Mai Thanh Nhan – một nữ doanh
nghiệp đến từ tỉnh Tiền Giang ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng có quan điểm
giống chị Hạnh là các cơ quan hữu quan cần hiểu biết rõ hơn về Luật dành cho
NKT và cần tăng cường thực hiện luật một cách nhất quán hơn. Khi giải quyết
các vấn đề hành chính, chị Nhàn đặc biệt muốn các thủ tục giản đơn hơn: “Khi
tôi thành lập doanh nghiệp, tôi mong muốn các thủ tục đơn giản hơn để tôi
không phải đi nhiều nơi nộp nhiều loại giấy tờ. Đi lại đối với tôi không phải là
điều đơn giản”.
Tại Hội thảo đã có rất nhiều NKT, các tổ chức xã hội, đối tác xã hội cùng
tham gia. Nhiều phương pháp truyền thông được sử dụng bao gồm ngôn ngữ kí
hiệu và chữ nổi đảm bảo cho NKT có thể tham gia đầy đủ vào quá trình tham
vấn. Các đại biểu tham dự hội thảo đã thảo luận nhiều vấn đề bao gồm sự hỗ trợ
của xã hội, y tế, giáo dục, dạy nghề, việc làm, sự tham gia, nâng cao vị thế cho
phụ nữ và tiếp cận với giao thông, thông tin và tuyền thông.
Có thể nhận thấy mong muốn chung của tất cả các đại biểu tham dự hội
thảo là có một môi trường thân thiện và thuận tiện cho NKTđể họ có thể hội
nhập, tham gia và đóng góp tích cực cho xã hội như bất kỳ ai khác: “Chúng tôi
9
muốn có cơ hội bình đẳng học tập và làm việc để có thể sống bình đẳng như
những người khác” – Vũ Xuân Trường, một người khiếm thịnh đến từ tỉnh Lâm
Đồng chia sẻ.
Hội thảo tham vấn này là một trong rất nhiều các cuộc tham vấn mà Liên
Hợp quốc tại Viện Nam hỏi người dân về thế giới mà họ mong muốn và quan
điểm của họ về khung phát triển mới cho năm 2015 cũng như các năm tiếp theo
khi đến thời hạn hoàn thành các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đang thực
hiện. “Hội thảo tham vấn này là dịp quan trọng để người khuyết tật – một trong
những nhóm dễ bị tổn thương nhất ở Việt Nam chia sẻ quan điểm và nhu cầu về
tương lai mà họ mong muốn” – Bà Lê Hồng Lan, Trưởng phòng bảo vệ trẻ em
thuộc Tổ chức UNICEF Việt Nam, một trong các tổ chức của Liên Hợp quốc
tham gia tổ chức này nhận xét.
1.3. Tham vấn người khuyết tật, đối tác xã hội, tổ chức xã hội với
dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật
Ngày 13/07/2012 tại Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội (285 phố
Trung Kính, Yên Hòa, Hà Nội) đã diễn ra buổi tọa đàm về vấn đề hội nhập việc
làm cho NKT. Đến tham dự buổi tọa đàm này có bà Phạm Thị Cẩm Lý – Đại
diện của Tổ chức Lao động quốc tế ILO tại Hà Nội, bà Dương Thị Vân – Phó
Chủ tịch Văn phòng Hòa nhập – Hội người khuyết tật thành phố Hà Nội; ông
Vũ Trung Chính – Giám đốc Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội và sự có mặt
của 20 doanh nghiệp, trường đào tạo nghề hoạt động trong nhiều lĩnh vực. Tại
buổi tọa đàm nhiều doanh nghiệp đã bày tỏ nhu cầu tiếp nhận lao động là NKT.
Với nội dung chủ đạo là vấn đề hội nhập việc làm cho NKT, các doanh
nghiệp tham gia buổi tọa đàm đã đóng góp rất nhiều ý kiến về vấn đề này. Theo
ý kiến chia sẻ của các đại biểu, hiện nay có rất nhiều các đơn vị có nhu cầu sử
dụng và sẵn sàng tiếp nhận lao động là NKT như Công ty Heartlink, Công ty cổ
phần đào tạo thương mại D&D Việt Nam, Công ty BigC…Đồng thời các doanh
nghiệp chia sẻ: không còn quan điểm cho rằng nhận lao động là NKT vào làm
việc là mang tính nhân đạo, đã có sự đánh giá ngang bằng và tạo cơ hội cho
NKT phát huy khả năng tại các vị trí làm việc. Ngoài ra tại Trung tâm giới thiệu
10
việc làm Hà Nội vào các ngày 10, 20, 28 hàng tháng có các phiên giới thiệu việc
làm. Đây là một cơ hội rất tốt cho người lao động đi tìm việc.
NKT cũng đã thảo luận đưa ra ý kiến, nguyện vọng của mình là tập trung
vào các nhu cầu ưu tiên là việc làm và tiếp cận giao thông, thông tin và các dịch
vụ y tế; đồng thời bày tỏ sự mong muốn các cấp, ngành và toàn xã hội quan tâm
hơn nữa đến NKT nhằm nâng cao chất lượng đời sống kinh tế xã hội của người
khuyết tật. Tuy nhiên nhu cầu lớn nhất của NKT vẫn là việc làm và đào tạo nghề
tại địa phương giúp NKT dễ dàng tiếp cận các chương trình học nghề tạo việc
làm, 100% NKT có thẻ bảo hiểm y tế và được khám chữa bệnh miễn phí, đẩy
mạnh hơn nữa chương trình giáo dục cho trẻ em khuyết tật.
2. Hạn chế
- Thứ nhất: Đời sống vật chất, tinh thần của NKT còn nhiều khó khăn. Theo
kết quả khảo sát người khuyết tật do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội tiến
hành năm 2005 thì phần lớn các hộ có NKT đều có mức sống thấp. Theo đánh
giá của các hộ gia đình thì có 32,5% số hộ thuộc loại nghèo (chung của cả nước
là 22%), 58% số hộ có mức sống trung bình, chỉ có 9% số hộ thuộc loại khá và
0,5% số hộ thuộc loại giàu; 34,4% từ 6 tuổi chưa biết chữ và 21,24% chưa tốt
nghiệp tiểu học; 79,13% trong độ tuổi lao động không có khả năng tham gia lao
động 3. Những khó khăn này cản trở NKT tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, học
nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống
và hòa nhập với cộng đồng. Mặt khác trình độ học thức và nghề nghiệp vẫn ở
mức độ thấp khiến NKT cũng gặp phải những khó khăn nhất định trong quá
trình tham vấn xây dựng pháp luật về NKT. Theo thống kê của Bộ Lao động
-Thương binh và Xã hội, tỷ lệ NKT được đi học chiếm rất thấp, khoảng 35,83%
NKT biết chữ, và chỉ có khoảng 12,58% NKT biết đọc, biết viết. Bởi vậy, NKT
gặp nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu và tham gia đóng góp ý kiến về pháp
luật về NKT
- Thứ hai: Mặc dù đã có khá nhiều doanh nghiệp bày tỏ nhu cầu tuyển dụng
NKT vào làm việc nhưng số lượng tuyển dụng còn quá ít, NKT lại chưa được
3
Theo kết quả khảo sát người khuyết tật năm 2008 của Bộ LĐTBXH
11
hướng nghiệp và đào tạo các nghề phù hợp dẫn tới việc kết nối cung cầu chưa
thực sự hiệu quả. Để có thể hòa nhập lao động NKT rất cần thiết có sự hòa nhập
của các đơn vị, tổ chức xã hội trong việc hướng nghiệp, đào tạo nghề, trang bị kĩ
năng sống và kĩ năng làm việc cho NKT.
- Thứ ba: NKT không tiếp cận hay được cung cấp đầy đủ với các dịch vụ chăm
sóc sức khoẻ tốt. Các trung tâm y tế không cung cấp dịch vụ phục hồi chức
năng, và không có khả năng đáp ứng nhu cầu của NKT. Cuối cùng, NKT không
có tiền để điều trị bệnh tật, trong khi đó, phúc lợi xã hội về chăm sóc y tế không
đủ chi trả cho tất cả các chi phí điều trị. Điều này dẫn tới các cuộc tham vấn
đồng cảnh suy cho cùng vẫn là những lo lắng và mong chờ của NKT về một vấn
đề không phải mới nhưng vẫn chưa được giải quyết một cách thấu đáo.
IV. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt nguyên tắc tham vấn người khuyết
tật, đối tác xã hội và tổ chức xã hội
1. Hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật quy định về chế độ bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật.
Để Luật NKT thực sự đi vào thực tiễn và phát huy được thế mạnh của nó
khi là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khuyết tật,
pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong quá trình
thực hiện và đảm bảo quyền cho NKT. Chỉ khi nhận thức được tầm quan trọng
của việc bảo trợ xã hội đối với NKT bằng những chế tài mang tính răn đe thì
công tác bảo trợ xã hội cho đối tượng này mới thực sự được thực thi có hiệu quả
chứ không chỉ dừng lại ở tính hình thức.
2. Phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an sinh xã hội
Kinh tế là động lực của sự phát triển. Phát triển kinh tế sẽ kéo theo sự
phát triển của những lĩnh vực khác, tất yếu an sinh xã hội được đảm bảo và đời
sống của người dân trong đó có NKT được nâng cao. Việt Nam đang trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước thay đổi và phát triển trên mọi
lĩnh vực. Để NKT được hưởng một chế độ bảo trợ xã hội xứng đáng, bên cạnh
chú trọng phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước cần đặc biệt chú trọng tới công
tác nâng cao chất lượng cuộc sống, luôn quan tâm và chăm lo tới cuộc sống của
12
NKT, không ngừng cố gắng và nỗ lực để nâng mức trợ cấp xã hội cho đối tượng
này. Không chỉ dừng lại ở mục đích quan tâm tới những nhu cầu sinh sống thiết
yếu mà các nội dung bảo trợ xã hội còn phải thích ứng với hoàn cảnh sống, phát
huy được giá trị và khả năng của NKT
3. Nâng cao cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình
tham vấn với người khuyết tật, tổ chức xã hội, đối tác xã hội
Tham vấn đối với NKT, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội là một trong những
nội dung của pháp luật về NKT, được thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền con
người. Cần phải nhận thức được rằng tham vấn đối với NKT, đối tác xã hội, tổ
chức xã hội không phải là sự ban ơn, chiếu cố đối với những thân phận thấp hèn,
cùng cực vì những hạn chế, rủi ro về sức khỏe mà là quyền của mỗi thành viên
xã hội và là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả cộng đồng. Do đó không thể và không
được lợi dụng hoạt động này để trục lợi, xâm phạm lợi ích hợp pháp của NKT.
Để thực hiện được tinh thần này cần phải có sự tham gia tích cực của các
cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội trong quá trình phát hiện và xử lý nghiêm
minh những hành vi cố tình làm sai lệch các khoản trợ cấp xã hội cho NKT,
nâng cao cơ chế phối hợp đồng bộ và thống nhất giữa cơ quan nhà nước trung
ương và cơ quan địa phương để họ thực sự có chất lượng sống ổn định, có cơ sở
để tham gia vào quá trình tham vấn một cách tích cực và chủ động hơn.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam đang hướng tới đảm bảo công bằng
trong các chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo cho NKT được bảo vệ về cuộc sống.
Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của NKT trên cơ sở
mở rộng sự tham gia của các họ vào các hoạt động trợ giúp. Các hoạt động tham
vấn ngày càng bảo đảm đến đúng đối tượng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của NKT.
Cả cộng đồng đang cùng chung tay vì một ngày mai tốt đẹp và hạnh phúc hơn
cho NKT. Dù vẫn biết con đường đến với hạnh phúc còn dài và lắm chông gai
nhưng 5,3 triệu người vẫn tin rằng phía cuối con đường ấy là cả một tương lai
tươi sáng!
13
- Xem thêm -