ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ KIM CÚC
NGUY£N T¾C B×NH §¼NG TR¦íC TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ KIM CÚC
NGUY£N T¾C B×NH §¼NG TR¦íC TßA ¸N
TRONG LUËT Tè TôNG H×NH Sù VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Kim Cúc
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN TRONG
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................ 7
1.1.
Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án ............................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ........... 7
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ........... 11
1.2.
Mối quan hệ của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án trong mối quan hệ với các nguyên tắc tố tụng
hình sự khác ...................................................................................... 13
1.3.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
pháp luật một số nước trên thế giới ................................................ 16
1.3.1. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa........................................................... 16
1.3.2. Cộng hòa liên bang Đức ..................................................................... 18
1.3.3. Cộng hòa liên bang Nga ..................................................................... 21
1.4.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi
có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .............................................. 24
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988 ...................................... 24
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ............................................................................................ 25
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN
BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.......... 27
2.1.
Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án .................... 27
2.1.1. Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ...................... 27
2.1.2. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ......... 33
2.1.3. Các hình thức thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án ........................................................................................ 40
2.2.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án ...................................................................................... 43
2.2.1. Những kết quả đạt được khi thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án ............................................................ 43
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân khi thực hiện nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án .................................................... 46
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NGUYÊN
TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN ........... 67
3.1.
Giải pháp hoàn thiện pháp luật....................................................... 67
3.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Tòa án ........................................................ 71
3.2.1. Củng cố, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự ........................................................................... 71
3.2.2. Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức
và kiến thức pháp luật cho những người tiến hành hình sự và
tham gia tố tụng hình sự ..................................................................... 73
3.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến
thức pháp luật cho nhân dân ............................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật Tố tụng hình sự
HĐXX:
Hội đồng xét xử
KSV:
Kiểm sát viên
NTGTT:
Người tham gia tố tụng
TAND:
Tòa án nhân dân
THTT:
Tiến hành tố tụng
TTHS:
Tố tụng hình sự
VKS:
Viện kiểm sát
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án là một trong những nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng
trong việc định hướng cho hoạt động xét xử tại Tòa án, bảo đảm giải quyết vụ
án hình sự khách quan, chính xác, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của những người tham gia tố tụng, nâng cao hiệu quả thực tiễn trong công
cuộc cải cách tư pháp, hướng tới mục tiêu tranh tụng dân chủ trước Tòa án.
Chính vì vậy, ngay từ khi mới thành lập nhà nước, nội dung của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án đã được ghi nhận trong nhiều văn bản
pháp luật, trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự - nguồn chủ yếu, cơ bản và
quan trọng nhất của pháp luật tố tụng hình sự.
Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án trong những năm vừa qua đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận,
tuy nhiên vẫn còn những hạn chế thiếu sót. Nguyên nhân của tình trạng này
là do quy định của pháp luật còn nhiều bất cập chưa hoàn thiện, nhận thức
của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng về tầm quan
trọng của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án chưa cao. Kết
quả là sự vi phạm quyền bình đẳng của các bên vẫn còn tồn tại, làm giảm
chất lượng của hoạt động xét xử, vẫn còn oan sai và bỏ lọt tội phạm. Điều
này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của các cơ quan tư pháp cũng như niềm tin
vào sự công bằng của pháp luật. Thực trạng này chưa phù hợp với mục tiêu
của Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp “Xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa”.
1
Nguyên tắc bình đẳng trước tòa án là một trong những nguyên tắc của
pháp luật quốc tế trong xã hội văn minh và là một tiêu chí để bảo vệ quyền
con người, do đó rất cần được bảo đảm trước tòa án. Tuy nhiên trong thời đại
ngày nay Luật tố tụng lại thừa nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước tòa án, do đó Luận văn này không phân tích về nội dung của nguyên tắc
bình đẳng trước tòa án mà tập trung nghiên cứu phân tích những nội dung để
bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Mặc dù việc nghiên cứu và hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước Tòa án là vấn đề cần được quan tâm nhưng hiện nay có rất ít công
trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài
“Nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”
làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình nhằm góp phần làm sáng tỏ nội
dung và nâng cao hiệu quả của việc áp dụng nguyên tắc này một cách có căn
cứ, có cơ sở, cũng như làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng nguyên tắc trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định
trong Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1988 và được sửa đổi bổ sung năm 2003. Nguyên tắc này là
biểu hiện nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN là mọi công dân bình
đẳng trước pháp luật trong TTHS nhằm nâng cao tính dân chủ trong việc
xét xử của Tòa án, đảm bảo việc xét xử được đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật. Nguyên tắc này được đề cập khái quát, trong một số giáo trình
và sách tham khảo như:
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật- Đại học Quốc
Gia Hà Nội, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp.
Ngoài ra còn nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề tranh tụng trong đó có
2
đề cập đến một số nội dung của quyền bình đẳng trước Tòa án như: cuốn sách
“Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm” của TS. Dương Thanh Biểu, Luận văn
thạc sỹ của tác giả Bùi Thị Giao về “Thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình
sự”, “Những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự Việt Nam” của
Hoàng Thị Sơn và Bùi Kiên Điện, hay các bài viết trên tạp chí khoa học pháp
lý như bài viết “Một số vấn đề cần chú ý đối với thẩm phán – chủ tọa phiên
tòa khi xét xử vụ án hình sự” của Đinh Văn Quế, “Tố tụng tranh tụng và vấn
đề cải cách tư pháp ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền” của PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí, “Hoàn thiện một số quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm” của Nguyễn Đức Mai, “Cần nhận thức đúng đắn về tranh tụng
và tranh luận để nâng cao kỹ năng tranh luận của kiểm sát viên tại các phiên
tòa hình sự” của Nguyễn Hữu Hậu, “Một số giải pháp để đảm bảo quyền và
nghĩa vụ của người bào chữa khi tranh tụng trong phiên tòa xét xử hình sự”
của Nguyễn Tiến Long, “Tranh tụng cần được ghi nhận như là một nguyên
tắc cơ bản trong tố tụng hình sự nước ta” của Nguyễn Văn Hiển, “Hoàn
thiện quy định của luật tố tụng hình sự nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của
công dân trước pháp luật” của Phan Thị Thanh Mai.
Tuy nhiên tất cả những nghiên cứu trên đây chỉ ở dạng những bài
viết trên tạp chí chuyên ngành, một phần, một mục trong sách giáo khoa,
giáo trình. Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu
riêng về vấn đề này một cách tổng quát và có hệ thống. Mặc dù vậy, các
công trình khoa học, các bài viết trên đây cũng là những tài liệu tham khảo
rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. Đặc biệt còn
nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu một
cách toàn diện và sâu sắc hơn, từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc giải quyết các vụ án hình sự dưới góc độ
nghiên cứu là một luận văn thạc sỹ.
3
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật, thực trạng trong việc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (từ năm 2009 đến năm 2014), mục đích
làm sáng tỏ vị trí, vai trò, và nêu ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng
cao hiệu quả của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án trong luật
Tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền
bình đẳng trước Tòa án.
- So sánh mối quan hệ của nguyên tắc này với các nguyên tắc tố tụng
hình sự khác trong Bộ luật tố tụng hình sự.
- Phân tích thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của Tòa án, chỉ ra
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng nguyên tắc này
trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
việc thực hiện nguyên tắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu lịch sử nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án ở
Việt Nam và quy định của pháp luật một số nước trên thế giới về nguyên tắc này.
- Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về nội dung của nguyên tắc và
một số quy định có liên quan.
- Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.
- Nghiên cứu để xây dựng hoàn thiện quy định của pháp luật Tố tụng
hình sự về nguyên tắc bình đẳng trước Tòa án.
* Phạm vi nghiên cứu
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được ghi nhận
trong văn bản pháp luật về tố tụng như BLTT Dân sự, BLTT Hình sự… Luận
4
văn chỉ tập trung làm rõ nguyên tắc này dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản
được ghi nhận trong BLTTHS 2003, nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật
trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2014.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, đường lối của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách tư
pháp trong thời kỳ mới. Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể để làm rõ
những nội dung cần nghiên cứu như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, phương pháp thống kê.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở làm rõ những khía cạnh lý luận, thực tiễn của nguyên tắc
bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, kết quả nghiên cứu của đề tài khẳng
định mối tương quan, bổ trợ trong việc thực hiện và áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án với các nguyên tắc tố tụng hình sự khác.
Qua nghiên cứu cũng chứng minh quyền bình đẳng trước toà án là một yếu tố
quan trọng để bảo vệ quyền con người và là một phương thức thủ tục để bảo
vệ pháp quyền, cũng như ý nghĩa quan trọng trong quá trình xét xử một vụ án
đảm bảo xác định sự thật khách quan của vụ án. Nguyên tắc này đảm bảo cho
hoạt động xét xử và nâng cao được tinh thần trách nhiệm của Tòa án cũng
như các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Luật sư bào chữa…
phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình. Chính vì vậy hoạt động xét xử nếu không được bình đẳng và công khai
thì dễ dẫn đến lạm quyền, quan liêu và tham nhũng lộng hành.
Trên cơ sở nghiên cứu nguyên tắc bình đẳng trước tòa án ở một số
nước trên thế giới và quá trình phát triển của nguyên tắc trong quá trình lập
pháp Việt Nam, phân tích thực trạng áp dụng nguyên tắc để đưa ra các kiến
nghị hoàn thiện nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong
5
thực tiễn. Đặc biệt xuất phát từ những bất cập của nội dung tranh luận tại
phiên tòa hiện nay, đang cần có những thay đổi, bổ sung và căn cứ vào quy
định mới của hiến pháp năm 2013 “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được
đảm bảo” cần thiết phải được cụ thể hóa nguyên tắc này trong luật.
Những quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành đã và đang phát huy
hiệu lực trên thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Công
tác điều tra, truy tố, xét xử ngày càng hiệu quả, việc tranh luận tại phiên tòa bảo
đảm tính dân chủ, khách quan. Tuy nhiên so với tình hình đặt ra thì hoạt động
tranh tụng chưa đáp ứng yêu cầu. Có phiên tòa chưa thực sự bảo đảm quyền
bào chữa của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, số lượng án hủy,
sửa còn nhiều. Về mặt nhận thức vẫn tồn tại quan niệm "án bỏ túi", "án tại hồ
sơ" dẫn đến tâm lý xem nhẹ hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Nguyên nhân
của tình hình trên có nhiều, trong đó có nguyên nhân từ những quy định của
pháp luật về tranh tụng và bảo đảm tranh tụng chưa rõ ràng, cụ thể nên hiệu lực
chưa cao. Luận văn này làm rõ tầm quan trọng của tranh tụng tại phiên tòa và
vai trò chủ động của Kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa và việc Hiến pháp
quy định cụ thể, rõ ràng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là một
bước tiến lớn và rất phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của Nhà nước ta.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án trong luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án và thực
tiễn áp dụng.
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TRƯỚC TÒA ÁN TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
trước Tòa án
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Theo từ điển Tiếng Việt [44], bình đẳng hiểu theo một nghĩa đơn giản
nhất là “sự ngang hàng về địa vị và quyền lợi”. Theo khía cạnh pháp luật,
bình đẳng là một trong những quyền cơ bản nhất của con người, gắn bó mật
thiết với con người trong đời sống xã hội. Nhân loại đã trải qua đấu tranh, hy
sinh để bảo vệ quyền bình đẳng, do đó, bảo đảm quyền bình đẳng là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước văn minh. Bảo đảm quyền bình
đẳng là làm cho có sự ngang nhau về quyền và nghĩa vụ giữa những người
được pháp luật quy định cho họ có những quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
Trong số các quyền bình đẳng thì quyền bình đẳng trước pháp luật,
bình đẳng trước Tòa án là những quyền quan trọng được ghi nhận trong các
công ước quốc tế như một quy phạm phổ cập mang tính khái quát cao.
Tuyên ngôn chung về quyền con người của Liên hợp quốc năm 1948 đã
chính thức ghi nhận:
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ,
không có bất kỳ sự phân biệt nào (Điều 7); Mọi người đều được hưởng quyền
bình đẳng, được xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án không thiên vị
trong quyền quyết định quyền và nghĩa vụ của họ cũng như bất cứ sự buộc tội
nào với họ (Điều 10).
Ở nước ta, ngay từ khi mới ra đời, nhà nước đã luôn tạo mọi điều kiện
7
để thực hiện các quyền bình đẳng của công dân trong đó có quyền bình đẳng
trước tòa án. Lời nói đầu của bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa năm 1945 đã lấy nguyên tắc “Đảm bảo quyền tự do dân chủ” là
cơ sở lý luận, là tư tưởng chỉ đạo trong mọi hoạt động lập pháp của Việt Nam.
Từ năm 1946 đến nay quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
được ghi nhận trong tất cả các Hiến pháp của Việt Nam như một nguyên tắc
định hiến. Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định “Mọi công dân bình đẳng trước
pháp luật” [24]. Điều này có nghĩa là mọi công dân không phân biệt nam
nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa…
trước pháp luật đều bình đẳng trong việc thực hiện các quyền và tuân thủ
nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Đây là nguyên tắc cực kỳ quan trọng,
nguyên tắc này được bảo đảm thì xã hội mới có công bằng, pháp luật mới
được thi hành nghiêm chỉnh.
Dưới góc độ khoa học luật tố tụng hình sự, sự bình đẳng của công dân
trước pháp luật được hiểu là “Bất cứ người nào phạm tội, dù họ là ai cũng
phải bị xử lý theo luật hình sự, pháp luật không có quy định riêng cho từng
công dân cụ thể, tài sản và địa vị xã hội không mang lại đặc quyền trước tòa
án và pháp luật; Mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi tham gia
tố tụng hình sự; Mọi người đều phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của
mình trước tòa án trên cơ sở những điều khoản do BLTTHS quy định”.
Quy định về bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án thực chất là sự cụ
thể hóa nội dung của nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Tòa
án là cơ quan duy nhất trong tổ chức bộ máy nhà nước có chức năng giải
quyết các tranh chấp trong xã hội và xử lý các vi phạm pháp luật thông qua
hoạt động xét xử bằng việc làm ra bản án hoặc quyết định. Bằng hoạt động
xét xử của mình, tòa án góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh, thống nhất và pháp chế xã hội chủ nghĩa được tôn trọng. Muốn
8
được như vậy, hoạt động của tòa án đòi hỏi phải khách quan, toàn diện, công
minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để mục tiêu này trở thành hiện
thực trong thực tế thì tòa án cần phải bảo đảm quyền bình đẳng của những
người tham gia tố tụng trước tòa. Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính
thức về bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án, song có thể hiểu một cách
khái quát nhất, bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là việc tòa án là cơ
quan có trách nhiệm bảo đảm cho viện kiểm sát, bị cáo, người bào chữa,
người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi
của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa.
- Bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án - một nguyên tắc cơ bản trong
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Dưới góc độ cơ sở lý luận của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nói
chung, hệ nguyên tắc của pháp luật XHCN “là những nguyên lý, những tư
tưởng chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện,
linh hoạt và có ý nghĩa bao quát, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp
luật” [37, tr.348].
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, nguyên tắc được hiểu là “những
phương châm, những định hướng chi phối tất cả hoặc một số hoạt động tố
tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận” [39 tr.45]. Những
nguyên tắc của luật tố tụng hình sự không chỉ là là kim chỉ nam định hướng
cho việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong thực tiễn mà còn định hướng
cho hoạt động tố tụng hình sự.
Bình đẳng trước Tòa án được xác định là một nguyên tắc cơ bản, quan
trọng trong tố tụng hình sự vì:
Với nhiệm vụ được đặt ra là nhằm giải quyết các vụ án hình sự một
9
cách nhanh chóng, khách quan, công minh, đúng pháp luật trên cơ sở bảo đảm
quyền và lợi ích chính đáng của những người tham gia tố tụng, BLTTHS đã
xác định cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm không chỉ là nhiệm vụ của cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án mà còn là nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân, cho nên họ có quyền và nghĩa vụ
tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Muốn cho vụ án được giải quyết
một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ thì bên buộc tội, bên gỡ tội và
những người khác có quyền và lợi ích hợp pháp cần được giải quyết trong vụ
án đều phải được bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ và được bình đẳng
trong việc đưa ra những yêu cầu trước tòa án. Mặt khác, họ cũng cần phải
tranh luận khi có ý kiến khác nhau về chứng cứ và các vấn đề cần được giải
quyết trong vụ án. Thực tế khách quan đã chứng minh không thể có được
phán quyết chính xác, khách quan nếu không đảm bảo được quyền bình đẳng
của những người tham gia tố tụng trước tòa án. Nếu bên buộc tội có nhiều
quyền hơn, được thiên vị hơn tất yếu dẫn đến việc oan sai, kết án oan người
vô tội, ngược lại, quá thiên vị bên bị buộc tội sẽ dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm,
hình phạt sẽ không tương xứng với hành vi phạm tội. Cả hai khuynh hướng
trên đều không phù hợp với phương châm giải quyết vụ án hình sự vừa phải
đảm bảo tính chính xác, khách quan, có hiệu quả đồng thời phải tôn trọng và
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
BLTTHS đã ghi nhận nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa
án như sau:
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại
diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền
bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực
hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án [26, Điều 19].
10
Quy định này thể hiện:
+ Chủ thể được bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án gồm: kiểm sát
viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp
của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
+ Nội dung của quyền bình đẳng được thể hiện thông qua các hoạt
động: đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật; đưa ra yêu cầu và quyền tranh luận
tại phiên tòa.
+ Quyền bình đẳng phải được bảo đảm “tại Tòa án”. Tuy nhiên, thuật
ngữ “tại Tòa án” được sử dụng trong nguyên tắc này không có nghĩa là quyền
bình đẳng của các chủ thể chỉ được bảo đảm khi vụ án được đưa ra xét xử tại
một phiên tòa công khai. Quyền bình đẳng còn phải được bảo đảm cả trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử. Điều này được chứng minh qua các quy định của
BLTTHS cho phép bị cáo, người bào chữa có quyền được biết về các nội
dung của bản cáo trạng, các lý lẽ, chứng cứ sẽ được Viện kiểm sát cũng như
các chủ thể buộc tội khác đưa ra để có thể đưa ra các phản bác tại phiên tòa.
Đồng thời, họ cũng được Tòa án tạo điều kiện được biết về các kết luận giám
định khi có yêu cầu, được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ để làm cơ
sở cho các tranh luận tại phiên tòa. Sự chuẩn bị này tất yếu là để bảo đảm
quyền bình đẳng của các chủ thể này trước phiên tòa.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án
Nghị quyết số 49 – NQ/TW, ngày 02/6/2005, của Bộ Chính trị về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định mục tiêu chiến lược
là: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến
hành có hiệu quả và hiệu lực cao”, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện
11
nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án có ý nghĩa rất quan trọng
đối với hoạt động xét xử của Tòa án, góp phần thực hiện mục tiêu của công
cuộc cải cách tư pháp.
Thứ nhất, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án định
hướng cho hoạt động tố tụng hình sự mà cụ thể là hoạt động xét xử của Tòa
án diễn ra thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả cao. Tòa án có được đầy đủ
các chứng cứ trên cơ sở xem xét một cách toàn diện các chứng cứ, tài liệu, đồ
vật, các yêu cầu, lắng nghe lý lẽ của các bên tranh tụng từ đó đảm bảo cho
mọi phán quyết của Tòa án là khách quan, toàn diện và đầy đủ, đúng pháp
luật, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ của luật tố tụng hình sự là “phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”.
Thứ hai, nguyên tắc này góp phần bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa
án của các bên tham gia tố tụng. Phương pháp điều chỉnh đặc trưng của luật tố
tụng hình sự là phương pháp quyền uy, thể hiện ở quan hệ giữa cơ quan tiến
hành tố tụng với những người tham gia tố tụng. Các quyết định của cơ quan
điều tra, viện kiểm sát, tòa án có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ
chức và mọi công dân. Tuy nhiên, quyền uy không có nghĩa là các cơ quan
này có thể hành động tùy ý mà phải thực hiện quyền uy của mình trong khuôn
khổ của pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án đòi hỏi
các cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo đảm các quyền mà pháp
luật trao cho những người tham gia tố tụng khác – bên thường được xem là có
địa vị tố tụng yếu hơn, tạo ra một cơ chế đắc lực để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể này.
Thứ ba, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án góp phần
vào việc động viên và tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình
12
tố tụng. Việc xét xử của tòa án diễn ra công khai, minh bạch, các phán quyết
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để xảy ra tình trạng bị xét xử oan
sai, bỏ lọt tội phạm sẽ đảm bảo được lòng tin của nhân dân đối với pháp luật
và các cơ quan thực thi pháp luật, từ đó, khuyến khích mọi chủ thể tích cực
tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự.
Thứ tư, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án có ý nghĩa
nâng cao ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng, đặc biệt nâng cao tinh
thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng. Đây là một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với hoạt động thực tiễn. Đối với người tham gia tố tụng
khi hiểu rõ về nguyên tắc sẽ có sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ về hoạt động
tố tụng hình sự, về địa vị pháp lý của mình. Đối với người tiến hành tố tụng
phải luôn tự nâng cao ý thức trách nhiệm của mình, không ngừng trau dồi bản
lĩnh nghề nghiệp để đảm bảo hiệu lực của nhà nước, đảm bảo tìm ra sự thật
của vụ án một cách nhanh chóng, hạn chế tối đa việc xét xử oan sai cũng như
để bỏ lọt tội phạm, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, góp phần giữ gìn
trật tự xã hội.
Cuối cùng, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án còn có ý
nghĩa cho việc định hướng xây dựng pháp luật tố tụng hình sự. Các điều khoản
cụ thể của BLTTHS cũng như các văn bản pháp luật hình sự khác phải là sự cụ
thể hóa tư tưởng chỉ đạo của nguyên tắc này chứ không được mâu thuẫn với
nó. Do đó, tất cả các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền và nghĩa
vụ của người tiến hành tố tụng… phải không được vi phạm nguyên tắc bảo
đảm quyền bình đẳng trước Tòa án được quy định tại Điều 19 BLTTHS.
1.2. Mối quan hệ của nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước
tòa án trong mối quan hệ với các nguyên tắc tố tụng hình sự khác
Là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc bảo đảm
13
quyền bình đẳng trước tòa án có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc
khác được ghi nhận trong BLTTHS.
- Trước hết, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước tòa án là sự cụ
thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp
luật. Điều 5 BLTTHS quy định “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa
vị xã hội. Bất kỳ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật” [26]. Thứ
nhất tất cả mọi người đều có vị thế ngang nhau trước pháp luật và có quyền
không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trước pháp luật. Quyền bình đẳng trước
pháp luật được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhất là quyền bình đẳng trong
lĩnh vực pháp lý. Quyền và nghĩa vụ của công dân không bị phân biệt bởi giới
tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giàu nghèo, thành phân xã hội, địa vị xã
hội...trong cùng một điều kiện như nhau, công dân được hưởng quyền và nghĩa
vụ như nhau, có tư cách pháp lý như nhau. Thứ hai pháp luật là thước đo chuẩn
mực của bình đẳng, là công cụ để bảo đảm sự bình đẳng giữa con người với
con người. Bất kỳ công dân nào vi phạm pháp luật đều bị xử lý bằng các chế tài
theo quy định của pháp luật. Theo đó quyền bình đẳng trước pháp luật được cụ
thể hóa trong các lĩnh vực cụ thể của quan hệ pháp luật
Quá trình tố tụng áp dụng là thống nhất cho mọi vụ án hình sự. Nguyên
tắc này chi phối toàn bộ mọi hoạt động tố tụng và như vậy nó cũng là nguyên
tắc chi phối hoạt động xét xử tại tòa án. Tại Tòa án, để giải quyết một cách
chính xác, toàn diện thì ngoài việc xác định những người tham gia tố tụng có
quyền và nghĩa vụ như nhau thì cần phải xác định được cả sự bình đẳng giữa
bên buộc tội và gỡ tội. Ở Việt Nam, bình đẳng trước pháp luật bao gồm cả bình
đẳng trước Tòa án bởi quyền đó được ghi nhận trong hiến pháp – nguồn của
các ngành luật và “trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân” [25, Điều 1].
14
- Xem thêm -