Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự việt nam ...

Tài liệu Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự việt nam

.PDF
98
6
91

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VIỆT HÙNG NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN VIỆT HÙNG NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng 1 MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH 9 ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm "bình đẳng" dưới góc độ triết học, các ý nghĩa xã hội và pháp luật của bình đẳng 9 1.1.1. Khái niệm "bình đẳng" dưới góc độ triết học 9 1.1.2. Các ý nghĩa xã hội và pháp luật của bình đẳng 17 1.2. Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật với tư cách là một nguyên tắc hiến định của pháp luật Việt Nam 26 1.2.1. Khái niệm nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật 26 1.2.2. Các đặc điểm cơ bản của nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật 29 1.3. 32 Khái niệm và nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam 1.3.1. Khái niệm nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam 32 1.3.2. Các nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam 33 Chương 2: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VÀ SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN 37 TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8 4 37 năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ 2 (1999) 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi 37 ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 38 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 2.2. Sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 39 2.2.1. Sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong các 39 nguyên tắc xử lý về hình sự 2.2.2. Sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong các 44 quy định khác của Bộ luật hình sự 2.3. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam 62 Chương 3: 71 HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC NÀY 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước luật 71 hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 3.1.1. Về mặt chính trị - xã hội 71 3.1.2. Về mặt lập pháp 72 3.2. 74 Nội dung hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam 3.2.1. Nhận xét chung 74 3.2.2. Nội dung hoàn thiện cụ thể 76 3.3. 77 Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 3.3.1. Áp dụng án lệ 77 5 3.3.2. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật hình sự 80 3.3.3. Tăng cường năng lực pháp luật, ý thức pháp luật và nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật 81 3.3.4. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao đạo đức, ý thức trách nhiệm của mọi cán bộ và quần chúng nhân dân trong bảo vệ pháp chế 82 KẾT LUẬN 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Số liệu thống kê phân tích dưới góc độ nhân thân người 41 bảng 2.1 phạm tội 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài "Bình đẳng" có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội loài người - đây là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, nó được thể hiện dưới đường lối, chính sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước. Bình đẳng có vai trò rất to lớn đối với các hoạt động xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật và toàn bộ đời sống pháp luật của xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng như trong quá trình hội nhập với thế giới thì tính cấp bách của nguyên tắc này lại cần được đặt ra. Đó là sự bình đẳng giữa các chủ thể (cá nhân, tổ chức) trước pháp luật nói chung hay là cá nhân trước pháp luật hình sự nói riêng. Nguyên tắc bình đẳng trong pháp luật nói chung cũng như nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam là có thể được coi là nguyên tắc "Hiến định" nó chính là sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng được quy định trong Hiến pháp. Tại lời nói đầu của Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà nước ta đã khẳng định pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức... Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Bộ luật hình sự đã quy định các nguyên tắc xử lý trong đó có nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy định trực tiếp tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự. Điều đó, phản ánh sự bình đẳng trước pháp 8 luật không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Đây là nội dung mới mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là sự bình đẳng trong việc vận dụng các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với hành vi phạm tội, đối với hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác về người phạm tội, chống những biểu hiện phân biệt đối xử giữa những người phạm tội có địa vị xã hội khác nhau "dân thì xử nặng, quan thì xử nhẹ". Ngoài ra, trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, về cơ bản, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án luôn luôn tuân thủ các nguyên tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng, bảo đảm mọi tội phạm đều được xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Thực tiễn khoa học pháp lý và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong quá trình hình thành và phát triển, các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam nói chung, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng đã từng bước được hoàn thiện, góp phần xử lý kiên quyết mọi hành vi phạm tội, nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Tuy nhiên, cũng trong thực tiễn xây dựng và áp dụng cho thấy, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam khi được áp dụng trong thực tế còn có trường hợp chưa được tuân thủ một cách nghiêm túc, còn để xảy ra nhiều sai sót trong quá trình xây dựng và áp dụng nguyên tắc này, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, gây bức xúc trong nhân dân; đồng thời cũng đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự nước ta phải nghiên cứu giải quyết như: khái niệm bình đẳng dưới góc độ triết học và các ý nghĩa xã hội - pháp lý, khái niệm và nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong thời gian vừa qua. Trong khi đó, xét về mặt lý luận, xung quanh những vấn đề này còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Mặt khác, xét về mặt lập pháp hình sự, việc quy định các nguyên 9 tắc cơ bản nói chung, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng trong luật hình sự cũng chưa thực sự đầy đủ và đồng bộ với các quy phạm pháp luật hình sự khác. Vì những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc bình đẳng trước Luật hình sự Việt Nam" mang tính cấp thiết, không những về mặt lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Đây còn là lý do lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự là một vấn đề quan trọng và nhạy cảm đã được các nhà khoa học pháp lý hình sự ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Trước hết, ở Liên Xô cũ có công trình "Những nguyên tắc của luật hình sự Xô viết" (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1988) của GS. TS. Kêlina X. G. và GS. TS. V. N. Kudriaxev; tác giả A. B Xaratôv có công trình "Về các nguyên tắc của luật hình sự xã hội chủ nghĩa" (Tạp chí Pháp luật, số 4, 1969); tác giả Bôlđưev K., có công trình "Sự hình thành các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự toàn Liên bang Xô Viết" (Tạp chí Tư tưởng Xô viết, số 20, 1972); tác giả Melesko Iu.B, có công trình "Về khái niệm và bản chất của các nguyên tắc của luật hình sự" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 1973); v.v... Các công trình nói trên đã đề cập những nguyên tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng. Đối với nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự xã hội chủ nghĩa, các tác giả đã bước đầu làm rõ khái niệm và một số nội dung của nguyên tắc, nhưng chưa đi sâu phân tích nguyên tắc một cách toàn diện và có hệ thống. Ngoài ra, nguyên tắc bình đẳng trước Luật hình sự cũng được ghi nhận trong một số sách báo pháp lý, chẳng hạn tác giả Ashworth (người Anh) có cuốn sách "Principles of Criminal Law" (Các nguyên tắc của luật hình sự) (Nxb Oxford University Press, Inc., 1995). Công trình đề cập khái quát đến 10 các vấn đề nguyên tắc và chính sách liên quan đến sự hình thành của pháp luật hình sự, của các nguyên tắc và việc áp dụng của các cơ quan lập pháp, Tòa án, cơ quan cải cách pháp luật. Chương "General Principles Of Criminal Law" (Các nguyên tắc chung của luật hình sự), trong sách: Criminal Law (Luật hình sự) (Published in Sydney by the Federation Ress, 1996) của ba tác giả David Brown, David Farrier, Neal. Cuốn sách cũng đề cập đến những nguyên tắc chung của Luật hình sự. Chương 2 "Principles of Criminal Law" (Các nguyên tắc của Luật hình sự) trong sách: Swedish Law in the New Millennium (Luật hình sự Thụy Điển trong giai đoạn mới, do GS. Michael Bogdan chủ biên (Norstedts Juridik, Printed in Sweden by Elanders Gotab, Stockholm, 2000). Chương sách đã đề cập đến lý luận chung về các nguyên tắc của luật hình sự, đồng thời phân tích các nguyên tắc của luật hình sự Thụy Điển (nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc trách nhiệm chứng minh; v.v...). Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự. Xét riêng dưới góc độ khoa học luật hình sự thỡ trong "Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)" của GS. TSKH. Lê Văn Cảm (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005), tác giả đã đề cập nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự ở mức độ khái quát về nội dung, ý nghĩa và sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, đồng thời tác giả đã xây dựng mô hình lý luận của nguyên tắc này trong Bộ luật hình sự (sửa đổi) cùng với các nguyên tắc khác; v.v... Ngoài ra, nó cũng được đề cập với tư cách là một nguyên tắc trong Chương về các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam trong các giáo trình dành cho hệ đào tạo đại học như: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007); 2) GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà 11 Nội, 2003; 3) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập I), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 4) TS. Phạm Văn Beo, Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1 - Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; 5) TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010; v.v... Hay bài viết "Một số vấn đề về nguyên tắc xử lý quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2001, của tác giả Đinh Văn Quế đã đề cập gián tiếp đến nội dung nguyên tắc này, song chỉ phân tích điểm mới về mặt khoa học của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985. Như vậy, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự chỉ được xem xét là một mục nhỏ hoặc một phần nhỏ trong các sách báo, giáo trình giảng dạy đại học, mà chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam một cách có hệ thống, toàn diện, đồng bộ và mang tính chuyên khảo ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học, cũng như đề xuất được các giải pháp bảo đảm thực hiện và thi hành nguyên tắc này trong luật hình sự nước ta. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ vấn đề một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, sự thể hiện những tư tưởng của nguyên tắc này trong Bộ luật hình sự. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong luật hình sự nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm bình đẳng dưới góc độ triết học và phân tích các ý nghĩa pháp lý - xã hội, khái quát lịch sử phát triển của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, cũng như phân tích khái niệm, nội dung và ý 12 nghĩa của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự; sự thể hiện những tư tưởng của nguyên tắc này trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, trên cơ sở đó, làm sáng tỏ bản chất pháp lý đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trong luật hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá sự một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, có sự minh họa thông qua các bản án hình sự. Trên cơ sở này, cần thiết phải hoàn thiện và đưa ra các giải pháp bảo đảm cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm của luật hình sự, cũng như minh họa những lập luận bằng một số vụ án hình sự trong giai đoạn từ mười năm gần đây nhằm giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong xây dựng, tổ chức Nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử Nhà nước và pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà hình sự học ở Việt Nam và nước ngoài. 13 Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội học... Đồng thời, tác giả còn sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo về lĩnh vực pháp luật hình sự do các cơ quan có thẩm quyền ban hành có liên quan đến nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự, các tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như những thông tin trên mạng Internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề được nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Các kết quả nghiên cứu của luận văn có những ý nghĩa lý luận và thực tiễn sau đây: Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo và đồng bộ đầu tiên đề cập một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với một số đóng góp khoa học đã nêu trên. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc đánh giá đúng đắn thực tiễn thi hành nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, cũng như đưa ra các kiến nghị nâng cao hiệu quả nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo về lý luận cũng như thực tiễn cho các hình sự học, cán bộ thực tiễn, các sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như cung cấp các luận cứ khoa học, phục vụ hoạt động lập pháp hình sự và hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta hiện nay. 14 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Khái quát lịch sử và sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự và những giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này. 15 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM "BÌNH ĐẲNG" DƯỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC, CÁC Ý NGHĨA XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT CỦA BÌNH ĐẲNG 1.1.1. Khái niệm "bình đẳng" dưới góc độ triết học Những quan điểm đầu tiên về bình đẳng được hình thành ngay từ trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Ở đó, bình đẳng được quan niệm như là sự cần thiết phải chấp hành các tập quán và nghi lễ đang tồn tại. Cùng với sự phân hóa xã hội, với sự xuất hiện giai cấp, chế độ tư hữu với sự phức tạp các quan hệ xã hội, các quan niệm về bình đẳng trở nên phong phú, đa dạng và luôn phát triển. Phạm trù bình đẳng, về cơ bản, được triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học nghiên cứu. Việc nghiên cứu những sách báo nói về bình đẳng cho thấy có hai phương pháp cơ bản mâu thuẫn nhau trong việc giải thích khái niệm, nội dung bình đẳng: Duy tâm và duy vật. Immanuel Kant (nhà triết học Đức 1724-1804) nhấn mạnh ý tưởng về "bình đẳng tôn trọng", nói rằng tôn trọng đó là nợ cho chúng tôi tất cả như là hợp lý các đại lý đạo đức. Kant khuyên chúng ta để "chữa trị cho mỗi người đàn ông như là một kết thúc trong mình, và không bao giờ như một phương tiện duy nhất'. Ông thấy tôn trọng như là cái gì đó nên được phân phối bằng nhau, trong khi ngưỡng mộ - hoặc thái độ tương tự - nên được phân phối không đồng đều. Những tư tưởng tiến bộ về Luật hình sự cũng được thể trong các tác phẩm của các nhà Triết học duy vật thế kỷ XVIII của nước Pháp như Didro, Russo. Những nhà triết học duy vật đều nhấn mạnh vai trò của các nguyên tắc 16 như nguyên tắc pháp chế, bình đẳng, không tránh khỏi trách nhiệm, cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Nhà triết học Didro cho rằng, "Nhà làm luật thực hiện chức năng của mình khi đảm bảo cho mọi người bình đẳng, tạo cho họ khả năng được sống bình yên và hạnh phúc". Đối với nhà triết học theo chủ nghĩa xã hội không tưởng như Moreli vào năm 1755 đã nêu trong tác phẩm Pháp luật của tự nhiên hoặc tinh thần hợp chân lý tự nhiên của pháp luật, đó là những quan niệm của ông về hoạt động lập pháp tương lai trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Theo Moreli thì có thể hiểu được rằng để có cớ sở đấu tranh với tội phạm thì cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân, mọi người trong xã hội được bình đẳng thì việc phạm tội trở thành điều vô lý. Đến nửa sau thế kỷ XVIII, tại nước Pháp xuất hiện một loạt các tác phẩm được coi như là các Bộ luật hình sự "mẫu" khi so sánh với những Bộ luật hình sự được ban hành sau này. Có thể liệt kê những tác phẩm đó như: Kế hoạch lập pháp hình sự của Zjumon (1784), các nguyên tắc của Luật hình sự của Bernard (1780), lý luận về luật hình sự của Brisso (1782). Trong tác phẩm Kế hoạch lập pháp hình sự của Marat (1782) - đã chỉ ra được bản chất của luật hình sự phong kiến là chống lại nhân dân, chỉ bảo vệ lợi ích một nhóm thiểu số trong xã hội phong kiến đó là giai cấp thống trị trong xã hội. Chính từ việc nêu bật được bản chất đó, tác giả đã đề ra phương pháp và biện pháp cần thiết là phải xóa bỏ, nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa hoạt động lập pháp với trật tự xã hội, xuất phát từ bản chất của pháp luật phong kiến ông đã lớn tiếng bênh vực giai cấp nhân dân bị áp bức bóc lột cấn phải được bảo vệ những lợi ích [Dẫn theo 56, tr. 10-30]. Điểm nổi bật trong tác phẩm của Marat là đã nêu được các nguyên tắc của luật hình sự và đó có thể được coi là những nguyên tắc xuyên suốt cho đến pháp luật hình sự hiện nay vẫn được tôn trọng đó là: Bảo đảm tính chính xác của các qui định của đạo luật hình sự được thể hiện trong tác phẩm ở chỗ "điều quan trọng làm sao để mỗi người hiểu được một cách đấy đủ nội dung của các qui phạm pháp luật và biết rõ được vì sao phải chịu hậu quả pháp lý khi vi phạm pháp luật" trong pháp luật 17 của chúng ta hiện nay nguyên tắc này đã được áp dụng dưới hình thức nguyên tắc phổ biến và tuyên truyền pháp luật trong nhân dân. Sự cần thiết những điều cấm hình sự trong việc áp dụng, công bố bắt buộc các đạo luật, phòng ngừa tội phạm, không được coi là phạm tội và phải chịu hình phạt khi đạo luật hình sự không qui định, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, tùy từng mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà có mức hình phạt tương ứng, cá thể hóa mức hình phạt và tính bình đẳng khi quyết định hình phạt. Trách nhiệm cá nhân. Không tránh khỏi trách nhiệm khi ông đã chỉ ra rằng: "không phải mức độ ít nghiêm khắc của hình phạt mà chính tính không bị trừng phạt của tội phạm đã làm cho các đạo luật mất tác dụng" [Dẫn theo 56]. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra rằng vào thời kỳ đó, đó là những tư tưởng chỉ mang tính ảo vọng, chưa có giá trị để thực hiện chúng vì bản thân ông và những đồng nghiệp của ông đang sống vào thời kỳ đó chưa vượt ra được khỏi bên ngoài cái được gọi là khuôn khổ cuộc sống, của giai cấp. Nhưng chính nhờ những tư tưởng tiến bộ mang tính chất khai sáng đó đã có ý nghĩa vô cùng to lớn là cần một cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến. Từ đó đã có các cuộc cách mạng tư sản dẫn đến sự hình thành nhà nước tư sản, sau khi giành được chính quyền từ giai cấp phong kiến. Giai cấp tư sản đã tiến hành những công cuộc cải cách trong lĩnh vực pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng. Trong đó nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật đã được ghi nhận về mặt hình thức còn về mặt thực tế đó là sự bình đẳng mang tính chất giả tạo và đã được Ph.Ăngghen nhấn mạnh "là sự thâm hiểm, là điều lố bịch trước những lời hứa tuyệt vời của các nhà khai sáng". Để phân tích sâu hơn, mang ý nghĩa rộng lớn hơn thì ông đã có sự nhận xét "Bây giờ chúng ta biết…rằng, nguyên tắc bình đẳng vĩnh hằng không còn tồn tại trong Luật hình sự tư sản, rằng sự bình đẳng của công dân trước pháp luật chỉ còn mang tính hình thức và một trong những quyền thực tế của con người đã được công bố…sở hữu tư nhân đối với tài sản" [77, tr. 40]. Khi so sánh những tư tưởng và nguyên tắc của Luật hình sự mà các nhà khai 18 sáng người Pháp và các nhà dân chủ tư sản đã nêu ra với những nguyên tắc trong luật hình sự ở thời kỳ tư sản thì có thể nhận thấy những nguyên tắc mà được giai cấp tư sản ghi nhận trong luật hình sự chỉ là những nguyên tắc có tính trung lập như nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc trách nhiệm lỗi, trách nhiệm dựa trên cơ sở lỗi. Pháp luật hình sự trong nhà nước tư sản không có các nguyên tắc mang tính chất bình đẳng vì bản chất của nhà nước tư sản là vì lợi ích chính trị và kinh tế của giai cấp tư sản nên họ luôn muốn củng cố quyền lực nhà nước tư sản. Những trào lưu triết học, đạo đức học, xã hội học và luật học trước chủ nghĩa Mác - Lênin và những lý luận không mácxít tiếp theo xem xét bình đẳng trong sự tách rời với cơ cấu kinh tế, xã hội, giai cấp của xã hội. Những trào lưu và lý luận đó coi bình đẳng như một cái gì đó rất trìu tượng, hình dung nó như một cái đã được xác lập bằng sức mạnh có từ trước, là phạm trù trống rỗng mà có thể chất đầy bất cứ nội dung nào tùy theo ý muốn chủ quan có lợi cho những lợi ích giai cấp mà các trào lưu và học thuyết đó bảo vệ. Những trào lưu trên đưa ra những quan điểm và cách lý giả khác nhau về bình đẳng. Tuy khác nhau ở những quan điểm nhỏ nhặt nhưng chúng đều giống nhau ở điểm cơ bản là che đậy nguồn gốc hiện thực của các quan điểm về bình đẳng. Theo một số lý luận, quan niệm thì nguồn gốc của bình đẳng bị đưa ra khỏi phạm vi của xã hội, gắn với các thần linh, thượng đế, với sức mạnh vô hình nào đó, và theo một số khác thì các quan niệm về bình đẳng của một giai cấp được coi như là các quan niệm về bình đẳng của toàn xã hội. Bình đẳng không chỉ là một phạm trù lịch sử cụ thể mà còn là một phạm trù mang tính giai cấp sâu sắc. Quan điểm giai cấp là một đòi hỏi quan trọng có tính nguyên tắc của việc phân tích khoa học khái niệm bình đẳng, vì rằng chỉ có cách tiếp cận khoa học đó mới đáp ứng được những điều kiện lịch sử hiện tại, mới có khả năng tách ra những mặt cơ bản của các khái niệm đó, chỉ rõ sự đối lập rất lớn của các kiểu quan niệm về bình đẳng trên thế giới hiện nay, thấy được sự khác biệt có tính nguyên tắc giữa nhận thức tiến bộ về 19 bình đẳng và bình đẳng giả tạo. Mỗi giai cấp có một kiểu quan niệm của mình về bình đẳng dựa trên các nhu cầu về lợi ích phát triển của giai cấp đó. Nội dung giai cấp của quan niệm bình đẳng xuất phát từ địa vị các giai cấp trong sản xuất xã hội, vai trò của chúng trong phân phối, trong tổ chức lao động cũng như từ địa vị chính trị pháp lý của giai cấp đó [56, tr. 10-30]. Các giai cấp thống trị bao giờ cũng cho là bình đẳng cái có lợi đối với lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của họ và không bình đẳng cái mâu thuẫn với các lợi ích đó. Bởi vậy, một kiểu quan niệm về bình đẳng có liên quan rất chặt chẽ với một kiểu quan niệm về lợi ích. Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ rằng kiểu quan niệm về bình đẳng của những người chiếm hữu nô lệ mang tính giai cấp của giai cấp chiếm hữu nô lệ. Kiểu quan niệm về bình đẳng của giai cấp phong kiến được xây dựng trên quan điểm giai cấp của giai cấp phong kiến. Kiểu quan niệm về bình đẳng của giai cấp tư sản cũng được lấy ra từ quan điểm giai cấp của nó. Những kiểu quan niệm về bình đẳng nói trên được xây dựng trên quan điểm của giai cấp thiểu số thống trị đa số. Trong chủ nghĩa xã hội khái niệm bình đẳng vẫn giữ nguyên tính giai cấp của mình. Ở đó những vấn đề của bình đẳng được giải quyết từ quan điểm của giai cấp tiên tiến nhất trong lịch sử xã hội, từ quan điểm lợi ích của phần lớn nhân dân lao động. Nói một cách cụ thể hơn là trong chủ nghĩa xã hội được coi là bình đẳng tất cả những gì đáp ứng được các lợi ích của nhân dân lao động, lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Trong các xã hội bóc lột ở khá niệm bình đẳng tính nhân loại bị coi thường, bị lu mờ, tính giai cấp được đề cao một cách tối đa nhằm phục vụ cho lợi ích của các giai cấp bóc lột. Còn trong chủ nghĩa xã hội cái chung của nhân loại được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong quan niệm về bình đẳng và có sự tương hợp với cái giai cấp trong quan niệm đó. Nhưng điều đó không có nghĩa là trong khái niệm về bình đẳng ở chủ nghĩa xã hội cái giai cấp và 20 cái chung của nhân loại hài hòa nhập thành một, đồng nhất với nhau. Mà cái giai cấp, cái tự ý thức giai cấp bao giờ cũng là nhân tố chính, quyết định nội dung của bình đẳng. Những nhà nghiên cứu vấn đề bình đẳng dưới góc độ pháp lý, nhấn mạnh khía cạnh pháp lý của khái niệm đó và cho rằng bình đẳng là khái niệm về cái cần thiết phù hợp với sự nhận thức nhất định về bản chất của con người và các quyền thiết thân của họ. Trong lĩnh vực pháp luật, bình đẳng được coi là phạm trù của ý thức nhất định về bản chất của con người. Bình đẳng được coi là phạm trù của ý thức pháp lý, đạo đức, của ý thức chính trị - xã hội, bởi vì nó đặc trưng cho hiện thực xã hội từ quan điểm của việc cần và phải có sự phù hợp giữa các vai trò thực tế của các cá nhân trong đời sống xã hội và địa vị xã hội, quyền và lợi ích của họ, giữa hành vi và sự đáp lại, giữa tội phạm và hình phạt. Từ tất cả những cách tiếp cận về bình đẳng này cho thấy bình đẳng là vấn đề phức tạp, là hiện tượng xã hội, phạm trù khoa học có nhiều mặt, là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có lợi ích riêng của mình dựa vào chúng giai cấp đó hình thành quan niệm về bình đẳng và bất bình đẳng. Các quan niệm về bình đẳng phản ánh các lợi ích của các chủ thể tương ứng. Điều đó được thể hiện ở hai điểm chính sau: Một là, lợi ích là điểm xuất phát, là tiền đề của việc đánh giá sự bình đẳng, ở đâu không có lợi ích thì ở đó không có sự đánh giá xuất phát từ quan điểm bình đẳng. Đến lượt mình, bình đẳng lại phản ánh sự công bằng, công minh về lợi ích. Hai là, để các hành động, hành vi được đánh giá là bình đẳng hoặc bất bình đẳng thì phải xâm phạm vào lợi ích. Lợi ích có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp, quan trọng hoặc ít quan trọng hơn. Sự khác nhau về lợi ích quyết định sự khác nhau trong quan niệm về bình đẳng. 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan