Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Người đại diện của đương sự trong ttds (8 điểm)...

Tài liệu Người đại diện của đương sự trong ttds (8 điểm)

.DOC
11
91
144

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Sự tham gia TTDS của người đại diện của đương sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự. Trong những năm qua từ những hoạt động của mình, người đại diện của đương sự trong TTDS đã và đang dần khẳng định được vị thế và vai trò của mình trong tố tụng, ngày càng chứng tỏ là một trong những chủ thể không thể thiếu trong TTDS. Cùng tìm hiểu đề tài “Người đại diện của đương sự trong TTDS” để hiểu thêm phần nào về vị thế và vai trò của người đại diện của đương sự. NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự 1. Khái niệm BLTTDS không đưa ra khái niệm thế nào là người đại diện của đương sự. Tuy nhiên, tại Điều 139 BLDS 2005 đã đưa ra khái niệm đại diện đó là: “ Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”. Như vậy, từ khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm về người đại diện của đương sự trong TTDS: Người đại diện của đương sự là người tham gia tố tụng thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự trước tòa án1. 2. Đặc điểm - Người đại diện của đương sự, họ tham gia vào quá trình tố tụng và họ thay mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự. Như vậy họ có các quyền và nghĩa vụ của đương sự. - Người đại diện của đương sự phải là người có năng lực hành vi TTDS. - Thông thường người đại diện của đương sự phải là các cá nhân. Bởi các cá nhân mới tự mình chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong tố tụng được. Tuy vậy, cũng có trường hợp ngoại lệ như cơ quan, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng là đại diện cho đương sự (Điều 73 BLTTDS). Sự khác nhau giữa người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự Tuy cùng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự nhưng việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự khác với người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cụ thể: 1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb.CAND, Hà Nội, 2011 Thứ nhất: Người đại diện của đương sự là người nhân danh đương sự ở phiên tòa, còn người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, không bị rằng buộc bởi việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Thứ hai: khi tham gia tố tụng chỉ có người đại diện của đương sự, còn người bảo vệ quyền, lợi ích của đương sự khi tham gia tố tụng song song cùng với đương sự Thứ ba: người đại diện chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng, trong khi đó người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì chỉ hỗ trợ, giúp đỡ đương sự về nhận thức pháp luật và bằng việc thực các quyền và nghĩa vụ của mình 3. Phân loại Người đại diện của đương sự bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định và người đại diện theo ủy quyền . Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự theo quy định của pháp luật.( Khoản 2 Điều 73 BLTTDS). Diện những người đại diện theo pháp luật của đương sự bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ; Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; Người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình; Tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác. ( Điều 141 BLDS 2005). Người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự theo sự chỉ định của Tòa án. ( Điều 76 BLTTDS). Trong khi tiến hành tố tụng dân sự, nếu có đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này thì Toà án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Toà án. Người đại diện theo ủy quyền là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự.( Khoản 3 Điều 73 BLTTDS). Đương sự trong được đại diện trong trường hợp này là người có năng lực hành vi dân sự nên người đại diện theo ủy quyền chỉ được tham gia tố tụng khi được đương sự ủy quyền thay mặt họ trong TTDS. II. Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về người đại diện của đương sự trong TTDS 2.1 Căn cứ phát sinh và những trường hợp không được làm đại diện của đương sự trong TTDS a. Căn cứ phát sinh: - Đại diện theo pháp luật: Theo quy định tại khoản 2 Điều 73 BLTTDS thì “Người đại diện theo pháp luật được quy định trong BLDS là người đại diện theo pháp luật trong TTDS, trừ trường hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật”. Như vậy căn cứ phát sinh đại diện theo pháp luật trong TTDS chính là quy định về người đại diện theo pháp luật trong BLDS được quy định tại Điều 141 BLDS 2005 - Đại diện do Tòa án chỉ định: căn cứ phát sinh là sự chỉ định người đại diện cho đương sự của Tòa án trong trường hợp đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp không được làm người đại diện. - Đại diện theo ủy quyền: Theo quy định tại khoản 3 Điều 73 BLTTDS thì “Người đại diện theo ủy quyền được quy định trong BLDS là người đại diện theo ủy quyền trong TTDS”. Khoản 1 Điều 142 BLDS 2005 quy định “Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện”. Như vậy căn cứ phát sinh đại diện theo ủy quyền trong TTDS chính là sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện, được thể hiện dưới hình thức văn bản (hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền). b. Những trường hợp không được làm đại diện cho đương sự trong TTDS - Đại diện theo pháp luật: Trước hết, để một người có thể làm người đại diện thì người đó phải là cá nhân có năng lực hành vi TTDS đầy đủ, nhằm bảo đảm đươc quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà họ đại diện. Như vậy, những người không có năng lực hành vi TTDS thì không thể làm đại diện cho đương sự trong tố tụng được. Ngoài ra, khoản 1 Điều 75 BLTTDS cũng quy định các trường hợp không được làm người đại diện theo pháp luật mặc dù có năng lực hành vi tố tụng. Đó là: người là đương sự trong cùng một vụ án với người được đại diện mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện; người đang là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự cho một đương sự khác mà quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đó đối lập với quyền và lợi ích hợp pháp của người được đại diện trong cùng một vụ án Pháp luật quy định những trường hợp loại trừ nêu trên nhằm mục đích hạn chế việc người đại diện theo pháp luật của đương sự lợi dụng những quyền lợi, nghĩa vụ pháp luật trao cho mình để trục lợi, thực hiện những hành vi có thể đem lại hậu quả bất lợi cho đương sự mà mình đại diện; đồng thời cũng tránh trường hợp một người tham gia tố tụng vừa có quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn vừa có quyền và nghĩa vụ của bị đơn. - Đại diện do Tòa án chỉ định: Để thực hiện được việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, đối với người thuộc diện không được làm người đại diện theo pháp luật của đương sự thì Tòa án không được chỉ định làm người đại diện cho đương sự. - Đại diện theo ủy quyền: Theo quy định tại khoản 2 Điều 75 BLTTDS thì những trường hợp không được làm đại diện theo pháp luật (quy định tại khoản 1 Điều 75) cũng không được làm đại diện theo ủy quyền trong TTDS. Ngoài ra để đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan, tại khoản 3 Điều 75 cũng quy định: Cán bộ, công chức trong các nghành Tòa án, Kiểm sát, Công an không được làm người đại diện trong TTDS, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp luật. 2.2 Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự a. Đại diện theo pháp luật Theo Khoản 1 Điều 74 BLTTDS thì người đại diện theo pháp luật của đương sự được thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự mà họ đại diện. Những quyền cơ bản của đương sự được quy định tại Điều 58 BLTTDS, cụ thể như sau: - Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này; - Quyền cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ: trong đó bao gồm: cung cấp chứng cứ để chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mình; yêu cầu người thứ ba đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ mà tự mình không thể thực hiện được, đề nghị triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá; khiếu nại với VKS về những chứng cứ mà Tòa án đã xác minh, thu thập do đương sự khác yêu cầu. - Quyền được biết, ghi chép và sao chụp các chứng cứ đương sự khác xuất trình hoặc chứng cứ mà Tòa án thu thập. Đây là quyền quan trọng của đương sự, cho phép một bên biết và chuẩn bị chứng cứ, lập luận để tranh cãi về các yêu cầu mà bên kia đưa ra. - Quyền tham gia phiên tòa, bao gồm: tham gia phiên tòa, yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác, được đối chất với các đương sự khác hoặc với nhân chứng... - Một số quyền quan trọng khác như: yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyền tự thỏa thuận với các đương sự khác và tham gia việc hòa giải, tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.... Người đại diện còn có những nghĩa vụ sau: phải có mặt theo giấy triệu tập, chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án, tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa... Ngoài những quyền và nghĩa vụ chung quy định tại Điều 58 BLTTDS thì tùy từng loại đương sự mà người đại diện theo pháp luật sẽ có những quyền và nghĩa vụ khác nhau: - Đối với người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn: theo Điều 161 BLTTDS thì họ có quyền thay mặt cho đương sự khởi kiện vụ việc dân sự, yêu cầu thay đổi nội dung khởi kiện, rút một phần hoặc toàn bộ nội dung khởi kiện, đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng, quyền đề nghị tòa án tạm đình chỉ vụ án nếu có căn cứ thuộc các trướng hợp theo quy định tại Điều 189 BLTTDS - Đối với người đại diện theo pháp luật của bị đơn: người đại diện theo pháp luật của bị đơn có quyền thay mặt bị đơn chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn hoặc chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn hoặc bác bỏ toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, đưa ra yêu cầu phản tố với nguyên đơn nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 172 BLTTDS; và quyền nhận thông báo của Tòa án về việc bị khởi kiện - Đối với người đại diện theo pháp luật của người có quyền và lợi liên quan: họ có thể tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc bên bị đơn. Trong trường hợp tham gia tố tụng độc lập thì người đại diện có quyền yêu cầu độc lập khi thỏa mãn các yêu cầu quy định tại Điều 177 BLTTDS b. Đại diện do Tòa án chỉ định Vì người đại diện do Tòa án chỉ định tham gia tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích cho đương sự là người không có năng lực hành vi TTDS do bản thân đương sự không thể tự thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của mình cho nên người đại diện do Tòa án chỉ định được thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự mà họ đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. c. Đại diện theo ủy quyền Khác với hai loại đại diện trên, người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự là người có năng lực hành vi TTDS. Tức là bản thân đương sự cũng có thể tự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Do đó, người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ được thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền (khoản 2 Điều 74 BLTTDS). Những hành vi của người đại diện vượt quá phạm vi ủy quyền đều không có giá trị pháp lý. 2.3 Chấm dứt và hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện của đương sự trong TTDS Theo quy định tại Điều 77 BLTTDS thì người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền trong TTDS chấm dứt việc đại diện theo quy định của BLDS. Như vậy đối với: a. Đại diện theo pháp luật: - Đại diện theo pháp luật của đương sự là pháp nhân chấm dứt khi pháp nhân chấm dứt. Đó là các trường hợp: pháp nhân bị Tòa án tuyên bố phá sản hay có quyết định giải thể hay bị chia tách, hợp nhất, sáp nhập. - Đại diện theo pháp luật của đương sự là cá nhân chấm dứt khi người được đại diện là cá nhân đã thành niên hoặc đã được khôi phục năng lực hành vi dân sự, người đại diện hoặc người được đại diện chết, người đại diện mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Việc chấm dứt đại diện theo pháp luật sẽ dẫn tới hậu quả pháp lý: trong trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật mà người được đại diện đã thành niên hoặc đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham gia TTDS hoặc ủy quyền cho người khác tham gia TTDS theo thủ tục do BLTTDS quy định. b. Đại diện theo ủy quyền: - Đại diện theo ủy quyền đối với đương sự là cá nhân sẽ chấm dứt khi thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành; người ủy quyền hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền; người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố chết. - Đại diện ủy quyền đối với đương sự là pháp nhân, quan hệ đại diện chấm dứt khi thời hạn ủy quyền hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền; hoặc pháp nhân chấm dứt, người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết Hậu quả của việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền: Trong trường hợp chấm dứt đại diện theo ủy quyền thì đương sự hoặc người thừa kế của đương sự trực tiếp tham gia tố tụng hoặc ủy quyền cho người khác đại diện tham gia tố tụng theo thủ tục do Bộ luật này quy định. c. Đại diện do Tòa án chỉ định: Đại diện do Tòa án chỉ định của đương sự sẽ chấm dứt khi việc tham gia tố tụng hoàn thành, người được đại diện đã khôi phục năng lực hành vi dân sự, có người đại diện theo pháp luật, người đại diện hoặc người được đại diện chết, người đại diện mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện do Tòa án chỉ định : Trong trường hợp chấm dứt đại diện do Tòa án chỉ định mà người được đại diện đã khôi phục năng lực hành vi dân sự thì người đó tự mình tham gia TTDS hoặc ủy quyền cho người khác tham gia TTDS theo thủ tục do BLTTDS quy định. Trong trường hợp đương sự có người đại diện theo pháp luật thì người đó sẽ đại diện cho đương sự bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tham gia tố tụng. III. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về người đại diện của đương sự trong TTDS và một số kiến nghị. 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về người đại diện của đương sự. ưu điểm: BLTTDS đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về người đại diện của đương sự trong TTDS. Trong đó, quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự cũng được đề cao, qua đó giúp cho người đại diện của đương sự chủ động hơn trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Bên cạnh việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật của người dân, Tòa án cũng đã cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho người đại diện của đương sự thực hiện tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong quá trình tố tụng, tiếng nói của người đại diện của đương sự đã được Tòa án lắng nghe và tôn trọng, tạo ra sự phối hợp hiệu quả giữa Tòa án với người đại diện của đương sự trong việc xác định sự thật khách quan. Ngoài ra, bản thân người đại diện của đương sự cũng đã xác định đúng vị trí, vai trò của mình trong TTDS, từ đó họ tự tin hơn, chủ động hơn trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhằm bảo vệ quyền lợi cho đương sự. hạn chế: bên cạnh những ưu điểm trên, trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về người đại diện của đương sự đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định. * Những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng dân sự về người đại diện của đương sự. Thứ nhất: về hình thức, nội dung đơn khởi kiện tại điểm 1 Khoản 2 Điều 164 BLTTDS quy định: “Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu ở phần cuối đơn”. Tuy nhiên, trong trường hợp nguyên đơn do ở xa và vì nhiều lý do khác nhau không thể trực tiếp tham gia vụ kiện vì vậy, người đại diện theo ủy quyền là người làm đơn khởi kiện và ký tên trong đơn khởi kiện. Hay nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức làm hợp đồng ủy quyền cho luật sư thay mặt cơ quan, tổ chức khởi kiện và tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu bắt buộc “đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó ký tên và đóng dấu ở phần cuối đơn” thì không thể thực hiện được Thứ hai, về việc chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự: Điều 76 BLTTDS về chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự lại chỉ quy định khi nhận đơn yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự mà thấy rằng đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 75 của bộ luật này thì Tòa án chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại tòa án. Như vậy, đối với người mất năng lực hành vi dân sự, người vắng mặt không có tin tức mà không có người đại diện hoặc đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 75 BLTTDS thì Tòa án có được chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại tòa án hay không? Đó là một vấn đề mà pháp luật TTDS hiện hành chưa có hướng dẫn cụ thể, dẫn tới nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau. Thứ ba, về việc chấm dứt đại diện của đương sự trong TTDS: Trong thực tế, nhiều vụ việc khi mới đưa ra xét xử, đương sự là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án đã triệu tập cha, mẹ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật của đương sự. Do xét xử kéo dài nên trong một số vụ việc đương sự đã thành niên hoặc năng lực hành vi dân sự đã khôi phục, khi đó tư cách người đại diện theo pháp luật của cha, mẹ đương nhiên chấm dứt. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp trên thực tế Tòa án vẫn tiếp tục triệu tập cha, mẹ của đương sự tham gia tố tụng với tư cách người đại diện theo pháp luật của đương sự. Còn đối với đại diện theo uỷ quyền không ghi rõ ràng thời hạn, điều kiện chấm dứt việc ủy quyền nên đã dẫn đến việc lạm quyền, vượt quá yêu cầu đại diện, gây khó khăn, tranh chấp và gây thiệt hại cho người được đại diện. * Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định về người đại diện của đương sự trong TTDS Thứ nhất, một số bản án xác định sai tư cách tố tụng của người đại diện của đương sự: Đối với người đại diện theo pháp luật của cá nhân: Trong trường hợp quyền và lợi ích hợp pháp của những người không có năng lực hành vi TTDS bị xâm hại thì người đại diện theo pháp luật có toàn quyền khởi kiện để bảo vệ lợi ích cho họ. Trong trường hợp đó, người được đại diện là nguyên đơn chứ không phải là người đại diện là nguyên đơn. Trên thực tế không ít bản án đã xác định người đại diện là nguyên đơn. Đối với người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức: theo quy định tại khoản 7 điều 57 BLTTDS thì đương sự là cơ quan, tổ chức do người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng. Mặc dù cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng thông qua người dại diện theo pháp luật của mình nhưng cơ quan, tổ chức đó vẫn được xác định là nguyên đơn hoặc bị đơn chứ không phải là người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức là nguyên đơn hay bị đơn. Tuy nhiên, do một số lý do nhất định, việc xác định tư cách cách tố tụng của người đại diện theo pháp luật trong trường hợp này chưa chính xác. Trên thực tế không ít Tòa án đã nhầm lẫn khi xác định người đại diện theo ủy quyền là đương sự trong vụ án dân sự. Đối với người đại diện theo ủy quyền: Người đại diện theo ủy quyền cho cá nhân hay cơ quan, tổ chức không bao giờ là nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự. Nếu tranh chấp xảy ra thì văn phòng, chi nhánh của pháp nhân không phải là đương sự, mà pháp nhân mới là đương sự và người đại diện hợp pháp của pháp nhân mới là người đại diện theo pháp luật, còn người đứng đầu văn phòng, chi nhánh của pháp nhân, nếu tham gia tố tụng chỉ là người đại diện theo ủy quyền. Thứ hai, về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự trong TTDS: Trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự ở Tòa án vẫn còn một số trường hợp người đại diện của đương sự không có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự; không nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình nên không tích cực tham gia tố tụng, thực hiện không đúng, không đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình hoặc họ có nhưng hành vi cản trở, trì hoãn hoạt động tố tụng như cố tình không có mặt đầy đủ theo giấy triệu tập của Tòa án, không tuân thủ nội quy phiên tòa…Việc tham gia tố tụng của người đại diện vẫn gặp không ít khó khăn, dù họ có là luật sư bởi vẫn còn xuất hiện một số trường hợp tòa án đã không tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của người đại diện của đương sự. Đặc biệt, trong nhiều vụ án, quyền tranh luận ở phiên tòa chỉ mang tính hình thức, thẩm phán chỉ nghe cho đầy đủ thủ tục chứ phần tranh luận của người đại diện chưa thực sự được tôn trọng. 3.2 Nguyên nhân hạn chế và một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của người đại diện trong TTDS. * Nguyên nhân hạn chế: Có thể thấy, những vướng mắc nêu trên là do: Một là, một số quy định về người đại diện của đương sự trong TTDS chưa được quy định rõ ràng cũng như chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn đầy đủ, kịp thời nên nhận thức và thực hiện pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng còn lúng túng và chưa thống nhất. Hai là, trình độ nhận thức về pháp luật của một bộ phận đương sự, người đại diện của đương sự còn hạn chế nên khi tham gia TTDS đã không thực hiện đầy đủ rnghĩa vụ, quyền hạn của mình. Ba là, hiện nay, trách nhiệm công tác, năng lực quản lý, điều hành của cán bộ, lãnh đạo ở một số Tòa án nhân dân địa phương còn hạn chế đã ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ. Vẫn còn một số Thẩm phán, cán bộ Tòa án hạn chế về năng lực, trình độ hoặc tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, thái độ phục vụ nhân dân chưa tốt nên hiệu quả công tác còn thấp. Bốn là, công tác giáo dục, tuyên truyền phổ biến pháp luật chưa được quan tâm đúng mức cũng là một trong những nguyên nhân gây nên những hạn chế trong quá trình thực hiện pháp luật. Năm là, đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật vừa thiếu lại chưa được đào tạo bài bản dẫn đến hiệu quả công việc còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu đặt ra. * Một số kiến nghị: Để khắc phục một phần hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện trong TTDS, chúng ta cần tiến hành song song hai hoạt động đó là xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và truyền tải các quy định đó để cho người dân hiểu để thực hiện một cách đúng đắn theo tinh thần các quy định đã được đề ra. - Thứ nhất: Để thống nhất trong việc áp dụng luật, Tòa án cần có hướng dẫn cụ thể về điều 164 BLTTDS, trong đó có việc xác định tính hợp pháp về hình thức của đơn kiện trong 2 trường hợp: + Người khởi kiện là cá nhân phải điểm chỉ vào đơn; nếu cơ quan, tổ chức khỏi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn (khoản 3 điều 164 BLTTDS) + Người đại diện theo ủy quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải ký tên vào phần cuối đơn. Kèm theo đơn khởi kiện, người đại diện ủy quyền phải xuất trình được hợp đồng ủy quyền hợp pháp với phạm vi ủy quyền được xác định rõ bao gồm cả ủy quyền đứng đơn khởi kiện. - Thứ hai: Điều 76 BLTTDS cần phải sửa đổi như sau: “Trong khi tiến hành TTDS, nếu có đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lưc hành vi dân sự hoặc là người vắng mặt không có tin tức mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của họ thuộc một trong các trường hơp quy định tại khoản 1 điều 75 BLTTDS thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng tại Tòa án”. Hơn nữa cũng cần quy định cụ thể về thẩm quyền, thủ tục chỉ định người đại diện nhằm tránh sự tùy tiện trong việc chỉ định người đại diện của đương sự. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án: phải đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các cán bộ ngành Tòa án thông qua các chương trình đào tạo ngắn hạn, dài hạn hay thông qua các cuộc tọa đàm, hội thảo bàn về các vấn đề chuyên môn, những vướng mắc, khó khăn trong công tác xét xử. Cuối cùng, để các quy định có thể đi vào đời sống thực tiễn thì cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật: Đảng và nhà nước cần có chính sách phù hợp, tổ chức tuyên truyền pháp luật rộng rãi, đặc biệt với những đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Để góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân, việc thông tin, cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật, tăng cường công tác phổ biến giáo dục pháp luật, mở rộng các hình thức tư vấn pháp lý cho các tầng lớp nhân dân trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết. Trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần đa dạng các hình thức để phù hợp với từng đối tượng ở các khu vực khác nhau như thành thị, nông thôn, vùng dân tộc ít người… Ngoài ra cần tuyên truyền phổ biến về vai trò, ý nghĩa của người đại diện của đương sự cũng như nâng cao ý thức của người đại diện về việc thực hiện các quyền và lợi ích của đương sự trong TTDS. Đồng thời cũng phải nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền về cả số lượng và chất lượng cũng như có chính sách ưu đãi, khuyến khích động viên học thực hiện tốt công việc của mình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan