Người bị hại trong tố tụng hình sự
BRANDCO LAWFIRM - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố
tụng nói chung và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong
định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) ở
nước ta hiện nay. Bởi lẽ người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị
xâm hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người tham
gia tố tụng. Vì vậy, người bị hại cần phải được bảo vệ kịp thời, thậm chí ngay khi họ bị
đe dọa gây thiệt hại. Một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị
hại đó là pháp luật TTHS. Thực tế cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị hại chưa được bảo vệ tốt và kịp thời; trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên
của quá trình tố tụng để có sự quan tâm cần thiết. Thực tế trên đây bắt nguồn từ vấn đề
nhận thức thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại, người bị hại xuất hiện từ thời
điểm nào? Họ cần được bảo vệ như thế nào, quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng đối với người bị hại ra sao... vẫn chưa có sự nhận thức và hành động thống nhất,
dẫn đến nhiều quy định pháp luật đặc biệt là pháp luật TTHS đang còn bỏ ngỏ hoặc có
quy định nhưng chưa đủ những phương tiện cần thiết để bảo vệ cho người bị hại.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ đề cập đến các khía cạnh nêu trên của vấn đề
người bị hại.
1. Về khái niệm người bị hại
Pháp luật TTHS của các nước không có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ người bị
hại. Chẳng hạn luật TTHS của Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga hay Việt nam dùng thuật ngữ
“người bị hại”, trong khi đó luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì dùng thuật ngữ
“người tố cáo”. Ngoài ra người bị hại còn được gọi là “người bị thiệt hại”, hay gọi là “nạn
nhân”, hay “dân sự nguyên cáo”. Chúng tôi cho rằng sử dụng thuật ngữ như thế nào phải thể
hiện được bản chất, nội dung, các điều kiện và sự chặt chẽ của thuật ngữ, vì vậy theo chúng
tôi sử dụng thuật ngữ người bị hại là phù hợp hơn cả. Vấn đề đặt ra là thế nào là người bị hại?
Người bị hại là một khái niệm quen thuộc trong khoa học pháp lý về TTHS, dường như không
cần phải luận bàn. Tuy nhiên thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại...thì cho đến nay
vẫn chưa có sự nhận thức thống nhất, các ý kiến còn khác nhau. Để có sự nhận thức đầy đủ
và thống nhất về khái niệm người bị hại theo chúng tôi cần tiếp cận khái niệm này dưới những
góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ ngôn ngữ có thể hiểu người bị hại là con người cụ thể trong xã hội, chịu sự tác
động tiêu cực của sự việc, hành vi hoặc bất kỳ sự tác động nào khác khác dẫn đến những
thiệt thòi, mất mát hay tổn thương cho chính họ. Tất nhiên sự tác động đó là trái với ý muốn
của người bị hại và họ tiếp nhận một cách thụ động. Thiệt hại gây ra cho người bị hại có thể là
thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất và không cần phải giới hạn mức độ thiệt hại.
- Dưới góc độ ngôn ngữ pháp lý thì người bị hại là “người bị thiệt hại về thể chất, về tinh thần
hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể là thể nhân bị người phạm tội làm
thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ không thể là pháp nhân”.[1]
- Dưới góc độ pháp luật thực định: Điều 51 Bộ luật TTHS Việt Nam quy định: “Người bị hại là
người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Pháp luật một số nước
cũng có quy định tương tự. Chẳng hạn, Điều 53 Bộ luật TTHS Liên bang Nga quy định: “Người
bị hại là người bị tội phạm gây thiệt hại về tinh thần, thể chất hoặc tài sản. Người tiến hành
điều tra, dự thẩm viên, thẩm phán, tòa án ra quyết định công nhận là người bị hại”. Còn khoản
1 Điều 43 Bộ luật TTHS của Tiệp khắc trước đây quy định: “Người bị hại là người bị tội phạm
gây thiệt hại về sức khỏe hoặc tài sản, tinh thần hoặc những thiệt hại khác”. Bộ luật TTHS
Rumani cũng có quy định tương tự. Điều đó cho thấy pháp luật các nước có sự thống nhất
trong định nghĩa người bị hại: Người bị hại là con người cụ thể; thiệt hại gây ra đó là tinh thần,
thể chất, tài sản hoặc những thiệt hại khác; những thiệt hại đó do tội phạm gây ra. Tuy nhiên
những quy định trên chưa làm rõ những vấn đề quan trọng như: thiệt hại do tội phạm gây ra có
bao hàm những thiệt hại gián tiếp? Thiệt hại đó có mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội?
Thiệt hại đó có phải do bất kỳ tội phạm nào gây ra? Và có xem là người bị hại không trong
trường hợp hành vi phạm tội chưa gây thiệt hại gì cho người đó? Về vấn đề này có ý kiến cho
rằng: trong trường hợp phạm tội chưa đạt, tức là chưa gây thiệt hại gì thì không thể công nhận
một cá nhân, tổ chức là người bị hại.[2] Trong khi đó ý kiến khác lại cho rằng không chỉ khi tội
phạm đã hoàn thành, mà cả trong trường hợp phạm tội chưa đạt, khi chưa gây ra thiệt hại gì
do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của kẻ phạm tội, người có nguy cơ bị xâm
hại cũng được gọi là người bị hại.[3]
Về vấn đề này chúng tôi cho rằng cần căn cứ vào các loại cấu thành tội phạm cũng như tính
chất của sự thiệt hại để xác định người bị hại. Trong khoa học luật hình sự, tội phạm có hai
loại cấu thành cơ bản, đó là tội phạm có cấu thành vật chất và tội phạm có cấu thành hình
thức.
Đối với các loại tội phạm có cấu thành vật chất bắt buộc phải có hậu quả xảy ra và hậu quả đó
thường là thiệt hại về thể chất và vật chất. Trong trường hợp này sự thiệt hại gây ra cho người
bị hại phải là những thiệt hại cụ thể, thiệt hại đó phải có tính hiện tại và xác định; sự thiệt hại
không thể không cụ thể, chưa xác định, hoặc có tính chất mơ hồ, chưa hoặc sắp xảy ra. Sự
thiệt hại đó phải là thiệt hại trực tiếp do chính tội phạm gây ra, thiệt hại đó phải có mối liên hệ
nhân quả với hành vi phạm tội. Điều cơ bản khi xác định thiệt hại của người bị hại đó là sự
thiệt hại do một tội phạm được Luật hình sự quy định, xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp và
chính đáng của người bị thiệt hại, các quyền đó được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, sự thiệt hại
mà người bị hại phải gánh chịu không phải có nguồn gốc từ hành vi không phù hợp pháp luật
của người bị thiệt hại. Điều này cũng đồng nghĩa với việc không chấp nhận quan điểm cho
rằng thiệt hại do tội phạm gây ra cũng có thể là thiệt hại gián tiếp, thiệt hại đó có thể không có
mối liên hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
Đối với các tội có cấu thành hình thức thì thiệt hại gây ra cho người bị hại thường là thiệt hại
về tinh thần, vì vậy thiệt hại đó có thể không cụ thể, khó có thể định lượng được. Vì vậy chúng
tôi đồng tình với ý kiến cho rằng không chỉ trong trường hợp tội phạm đã hoàn thành, mà cả
trong trường hợp phạm tội chưa đạt, khi chưa gây ra thiệt hại gì do những nguyên nhân khách
quan ngoài ý muốn của kẻ phạm tội, người có nguy cơ bị xâm hại cũng được gọi là người bị
hại, người bị hại phải được coi là bất kỳ người nào khi mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ là
khách thể của tội phạm cho dù tội phạm đó chưa hoàn thành do những nguyên nhân khách
quan, ngoài ý muốn của họ.
Để hiểu rõ hơn khái niệm người bị hại, cần phân biệt với một số khái niệm đồng nghĩa hoặc
giáp ranh như: người bị hại với nạn nhân, người bị hại với đối tượng tác động của tội phạm.
Theo chúng tôi đây là những khái niệm gần nhau nhưng không đồng nhất với nhau.
Thứ nhất: Nạn nhân có phải là người bị hại không? Trả lời câu hỏi này có quan điểm cho rằng
người bị hại chính là nạn nhân của tội phạm. Theo chúng tôi điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nội
dung khái niệm người bị hại có nội hàm hẹp hơn so với khái niệm nạn nhân của tội phạm. Như
đã biết, hành vi phạm tội luôn gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan
hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Để gây ra những thiệt hại cho những quan hệ này, hành
vi phạm tội đã tác động gây thiệt hại cho một số cá nhân, tổ chức. Trong khi đó “Nạn nhân của
tội phạm là những cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây ra những thiệt
hại về thể chất, về tinh thần, tài sản hoặc các quyền, lợi ích hợp pháp khác”.[4] Như vậy, nạn
nhân của tội phạm ngoài cá nhân còn có thể là tổ chức, pháp nhân; thiệt hại của nạn nhân
không chỉ về thể chất, về tinh thần, về tài sản mà còn có thể bao hàm những thiệt hại về các
quyền và các lợi ích hợp pháp khác, thiệt hại đó có thể bao gồm cả những thiệt hại gián tiếp;
hơn nữa nạn nhân chỉ khi tham gia quan hệ pháp luật TTHS mới được xem là người bị hại.
Thứ hai: Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận khách thể của tội phạm bị hành vi
phạm tội tác động đến, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại. Đối tượng tác động của tội
phạm không chỉ là con người mà còn bao gồm các đối tượng vật chất khác và các hoạt động
bình thường của chủ thể. Trong khi đó con người – nạn nhân bị tội phạm xâm phạm về thể
chất, tinh thần và các quyền tự do dân chủ, họ chính là một trong số các đối tượng tác động
của tội phạm. Như vậy có thể khẳng định rằng khái niệm người bị hại, nạn nhân, đối tượng tác
động của tội phạm mặc dù có những điểm tương đồng, chồng lấn... nhưng về bản chất, đặc
trưng của chúng là hoàn toàn khác nhau.
Vấn đề cần được đặt ra để luận bàn đó là: Trong trường hợp tổ chức hoặc pháp nhân bị tội
phạm trực tiếp gây thiệt hại thì họ có phải là người bị hại không? Vấn đề này theo quan sát
của chúng tôi đã được đưa ra tranh luận ở các diễn đàn khác nhau và đã có nhiều ý kiến khác
nhau khi đề cập đến vấn đề này. Khái quát lại có hai loại ý kiến sau đây:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng người bị hại chỉ có thể là thể nhân, một con người cụ thể; tổ
chức hoặc pháp nhân không thể là người bị hại. Bởi lẽ khái niệm “người” ở đây là đề cập đến
con người cụ thể. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần... do hành vi phạm tội
gây ra, mà thể chất và tinh thần thì chỉ có và gắn liền với con người, một thể nhân cụ thể, thiệt
hại này không thể xảy ra đối với pháp nhân hay tổ chức. Đi xa hơn, ý kiến này còn cho rằng
thiệt hại do tội phạm gây ra có thể gây ra những mất mát, đau đớn về tinh thần, thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản cho người thân của người bị hại nhưng cũng không thể xem người
thân đó là người bị hại. Tham khảo quy định trong Bộ luật TTHS của các quốc gia như đã viện
dẫn trên cho thấy các quốc gia này đều quan niệm người bị hại trong vụ án hình sự chỉ có thể
là con người cụ thể chứ không phải một pháp nhân, một cơ quan nhà nước hay một tổ chức
xã hội, cho dù thiệt hại gây ra là thiệt hại trực tiếp, và đây cũng là quan điểm của các nhà làm
luật Việt Nam thể hiện rõ trong Điều 51 Bộ luật TTHS Việt Nam.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng: ngoài cá nhân là người bị hại, trong trường hợp tổ chức, pháp
nhân bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại thì phải xem tổ chức hoặc pháp nhân đó là người bị hại.
Cần phải quan niệm khái niệm người bị hại theo nghĩa rộng của từ này. Lập luận cho luận
điểm của mình, những người theo quan điểm này cho rằng trong thực tế hành vi phạm tội
không chỉ gây ra thiệt hại cho cá nhân, hành vi phạm tội trong thực tế còn nhắm đến để gây
thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức. Thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho pháp nhân, tổ chức
là rất đa dạng, không thuần túy là thiệt hại về tài sản. Trong thực tế, tổ chức, pháp nhân có thể
bị thiệt hại cả về vật chất lẫn thiệt hại về tinh thần, chẳng hạn một doanh nghiệp bị giả mạo về
thương hiệu, bị vu khống làm mất uy tín trong kinh doanh... Về vấn đề này, tại khoản 1 Điều 40
Bộ luật TTHS Ba Lan quy định: người bị hại là người hoặc pháp nhân mà lợi ích hợp pháp của
họ bị hậu quả của tội phạm trực tiếp xâm hại hoặc bị đe dọa. Điều 53 Bộ luật TTHS Hungary
cũng có quan điểm tương tự.
Ý kiến cho rằng người bị hại chỉ có thể là cá nhân, vậy tổ chức, pháp nhân bị tội phạm trực tiếp
xâm hại, pháp nhân, tổ chức đó sẽ tham gia tố tụng với tư cách gì? Theo quy định của Bộ luật
TTHS Việt Nam thì trong trường hợp này pháp nhân, tổ chức sẽ tham gia tố tụng với tư cách
là nguyên đơn dân sự khi có đơn yêu cầu. Chúng tôi cho rằng quy định như vậy là chưa thật
sự hợp lý, bởi lẽ:
- Thứ nhất: Đối với các tổ chức, pháp nhân mà tài sản thuộc sở hữu nhà nước khi bị tội phạm
gây thiệt hại tổ chức, pháp nhân đó không có đơn yêu cầu thì họ sẽ tham gia tố tụng với tư
cách gì? Tài sản của nhà nước liệu có được đảm bảo?
- Thứ hai: Đối với các doanh nghiệp mà tài sản thuộc sở hữu cá nhân, của một nhóm người
cùng góp vốn kinh doanh (công ty TNHH, công ty hợp danh...) trong quá trình hoạt động lại bị
kẻ phạm tội gây thiệt hại, vậy để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chủ sở hữu tài
sản đó chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự, liệu có hợp lý? Liệu có
đảm bảo sự bình đẳng trong khi về thực chất tài sản đó đều là của cá nhân?
- Thứ ba: nếu cho rằng tổ chức, pháp nhân bị kẻ phạm tội trực tiếp xâm hại về tài sản sẽ tham
gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự thì sẽ không có sự phân biệt với thiệt hại về tài
sản do hành vi phạm tội gián tiếp gây ra. Chẳng hạn khi đánh nhau với B, A đã gây ra một số
thiệt hại về tài sản của C.
- Thứ tư: nếu quan niệm rằng hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức là thiệt hại về tài
sản như định nghĩa tại Điều 52 Bộ luật TTHS Việt Nam thì chúng ta phải giải thích như thế nào
khi thiệt hại do tội phạm gây ra cho tổ chức, pháp nhân là thiệt hại về thương hiệu, về uy tín
trong kinh doanh...?
Thực chất vấn đề có nên thừa nhận tổ chức, pháp nhân là người bị hại trong trường hợp họ bị
tội phạm trực tiếp gây thiệt hại đã được đặt ra trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS
năm 1988 vào những năm 2000. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau vấn đề này đã tạm gác
lại. Chúng tôi cho rằng xã hội đã có những thay đổi lớn theo hướng tích cực, xu hướng hội
nhập khu vực và thế giới đã trở thành xu thế tất yếu. Những lý do chưa đồng tình với quan
điểm cho rằng nên xem tổ chức, pháp nhân là người bị hại không còn lý do để tồn tại, đã đến
lúc chúng ta cần xem xét tất cả các lý lẽ để thừa nhận tổ chức và pháp nhân là người bị hại
nhằm góp phần đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Từ những lập luận trên chúng tôi đề xuất khái niệm về người bị hại như sau:
“Người bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do
tội phạm gây ra”.
Khái niệm này bao hàm các đặc điểm của người bị hại như sau:
- Thứ nhất, về chủ thể, người bị hại là cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước hoặc tổ chức
khác;
- Thứ hai, thiệt hại do tội phạm gây ra có thể là thiệt hại về thể chất, thiệt hại về tinh thần, thiệt
hại về vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý là hậu quả của sự thiệt hại không phải là điều kiện bắt
buộc trong tất cả các trường hợp.
- Thứ ba, thiệt hại của người bị hại phải là đối tượng tác động của tội phạm, tức là phải có mối
liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội với hậu quả gây ra cho người bị hại. Đây là điều kiện
quan trọng để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác
trong vụ án hình sự.
- Thứ tư, người bị thiệt hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại khi và chỉ khi
được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận.
2. Thực trạng và một số kiến nghị góp phần đảm bảo quyền của người bị hại
Như đã biết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó xâm hại đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị hại, đó có thể là những thiệt hại vô cùng
lớn mà người bị hại phải gánh chịu, vì vậy Nhà nước cần phải có biện pháp cụ thể để bảo vệ
người bị hại, khôi phục lại trạng thái ban đầu hoặc kịp thời khắc phục thiệt hại do tội phạm gây
ra đối với họ. Bên cạnh đó, người bị hại là người biết được các tình tiết của vụ án nên họ cũng
phải có nghĩa vụ công dân trong việc giúp các cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự thật khách
quan của vụ án. Do vậy, khi tham gia tố tụng, người bị hại có một số quyền và phải thực hiện
một số nghĩa vụ nhất định.
Hiện nay, quyền và nghĩa vụ của người bị hại được quy định tại Điều 51 BLTTHS. Theo quan
sát của chúng tôi, pháp luật TTHS về quyền và lợi ích của người bị hại qua quá trình tồn tại và
phát triển ngày càng được bổ sung, sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện hơn. Chẳng hạn phạm vi
kháng cáo của người bị hại không chỉ giới hạn trong phạm vi tăng nặng hình phạt mà còn cho
phép người bị hại kháng cáo theo hướng giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo; hoặc chế định
khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật TTHS
năm 1988 và chế định này ngày càng được mở rộng... Nội dung các quyền và nghĩa vụ của
người bị hại về cơ bản là phù hợp và được các cơ quan có thẩm quyền nghiêm chỉnh chấp
hành, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Tuy nhiên qua quá trình áp dụng cũng đã bộc lộ một số bất cập trong các quy định pháp luật
cũng như thực tiễn áp dụng. Cụ thể là các vấn đề sau đây:
* Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại:
- Thứ nhất, khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định: “Trong trường hợp người bị hại chết thì
người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại điều này”. Như vậy trường
hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần, thể
chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của họ có được tham gia tố tụng và có được
hưởng các quyền của người bị hại không? Theo tinh thần nội dung Điều 51 Bộ luật TTHS thì
người đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp này được tham gia tố tụng nhưng
không được thực hiện các quyền của người bị hại. Tuy nhiên, theo tinh thần của quy định tại
Điều 59 Bộ luật TTHS thì người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại được tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại. Nội dung các quyền của người này không khác nhiều
so với nội dung các quyền quy định cho người bị hại (Điều 51). Vì vậy, thực tế gặp trường hợp
này cơ quan tiến hành tố tụng thường cho phép đại diện hợp pháp của người bị hại là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất sử dụng các quyền của
người bị hại như tinh thần của khoản 5 Điều 51 Bộ luật TTHS. Để khắc phục bất cập này theo
chúng tôi cần thiết phải bổ sung nội dung này vào Điều 51 Bộ luật TTHS.
- Thứ hai, Bộ luật TTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy định trường
hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác định là mất tích thì vấn đề
người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải quyết như thế nào? Họ có được phép
tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại không? Thực tiễn giải quyết vụ
án cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết không thống nhất với nhau. Vì vậy, theo
chúng tôi Bộ luật TTHS cần bổ sung trường hợp trên theo hướng thừa nhận người đại diện
hợp pháp của người bị hại mất tích được tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của
người bị hại.
- Thứ ba, trong hai trường hợp nêu trên cơ quan tiến hành tố tụng không xác định được ai là
người đại diện hợp pháp, hoặc người bị hại thực tế cũng không còn ai là người đại diện hợp
pháp thì giải quyết như thế nào? Người thân của người bị hại có được tham gia tố tụng không
và với tư cách gì? Về vấn đề này chưa có sự nhận thức và áp dụng thống nhất. Hiện có nhiều
ý kiến khác nhau về vấn đề này: Người thân của người bị hại cũng được xem là người đại
diện hợp pháp[5]; người thân của người bị hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan[6];
người thân của người hại trong các trường hợp trên chính là người bị hại và với tư cách đó họ
cần phải tham gia vào vụ án[7]; người thân của người bị hại là người đại diện của người bị hại
và là người bị hại.[8] Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung vào Bộ
luật để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như đảm bảo các quyền của
người bị hại. Theo chúng tôi người thân của người bị hại chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp,
khi tham gia tố tụng họ có các quyền của người bị hại. Trường hợp người bị hại không còn ai
là người thân thì cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư
cử người bảo vệ quyền lợi cho họ.
- Thứ tư, trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và nghĩa vụ
mâu thuẫn với nhau thì giải quyết như thế nào? Cho đến nay vấn đề này chưa được cơ quan
có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể mà chỉ được thể hiện trong kết luận của Chánh án Tòa án
Nhân dân tối cao tại hội nghị tổng kết ngành năm 1990. Ví dụ: chồng giết vợ mà người vợ còn
có bố, mẹ và các con của người vợ này đã thành niên. Theo quy định pháp luật thì những
người này đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Tuy nhiên bố, mẹ của người vợ
yêu cầu Tòa án phải tuyên mức án nghiêm khắc đối với người con rể đã giết con ruột của
mình, trong khi đó những người con lại yêu cầu Toà án áp dụng hình phạt nhẹ cho bố mình.
Trong trường hợp này mặc dù vẫn có ý kiến khác nhau nhưng theo chúng tôi cần xác định họ
đều là những người đại diện hợp pháp của người bị hại và họ có quyền và nghĩa vụ tham gia
tố tụng như nhau. Tuy nhiên, khi tham tố tụng Tòa án cần yêu cầu những người có cùng
quyền lợi cử một người tham gia, nhưng Tòa án cần quyết định riêng đối với từng người,
những người không tham gia tố tụng phải làm thủ tục ủy quyền cho người tham gia tố tụng.
* Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của người bị hại:
- Thứ nhất, phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại. Tại điểm e khoản 2 Điều 51
Bộ luật TTHS quy định: người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về
phần bồi thường cũng như về phần hình phạt đối với bị cáo. Như vậy, quy định này chỉ cho
phép người bị hại kháng cáo trong phạm vi phần bồi thường và phần hình phạt, những phần
khác trong bản án như: phần dân sự cũng như vấn đề liên quan đến tội danh, đến khung hình
phạt... nếu không đồng tình với bản án và quyết định của Tòa án thì người bị hại không có
quyền kháng cáo. Trong khi đó tại Điều 231 Bộ luật TTHS lại quy định: Người bị hại và người
đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Tòa án. Như vậy theo
quy định này thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Điều luật không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào như tinh thần của Điều 51 Bộ luật TTHS. Như
vậy phải chăng nội dung hai điều luật lại mâu thuẫn với nhau và khi gặp trường hợp trên Tòa
án sẽ giải quyết như thế nào? Cho đến nay chưa có văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền
hướng dẫn áp dụng hai điều luật trên, vì vậy mỗi nơi áp theo cách hiểu riêng của mình. Để
khắc phục sự mâu thuẫn, đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng, cũng như để bảo vệ
tốt hơn quyền và lợi ích của người bị hại theo chúng tôi cần thiết phải sửa lại nội dung Điều 51
Bộ luật TTHS theo hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có
quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định của tòa án cấp sơ thẩm.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành cho thấy pháp luật TTHS
chưa khẳng định người bị hại là một bên trong tranh tụng, thực hiện chức năng buộc tội. Theo
chúng tôi có lẽ đây cũng là một khiếm khuyết của các quy định pháp luật, thực chất cùng với
các chủ thể khác như kiểm sát viên, nguyên đơn dân sự..., người bị hại cũng là một bên trong
tranh tụng, hành vi tố tụng của người bị hại góp phần quan trọng trong tiến trình đi tìm sự thật
của vụ án, công lý và sự công bằng của pháp luật, đặc biệt là trong những vụ án mà việc khởi
tố phải do người bị hại yêu cầu. Do vậy, để khẳng định vị trí, vai trò và đảm bảo có hiệu quả
các quyền của người bị hại chúng tôi đề nghị:
+ Sửa lại Điều 191 Bộ luật TTHS theo hướng khẳng định: trường hợp tại phiên tòa người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp
những người này yêu cầu hoặc đồng ý để Tòa án xét xử vắng mặt họ. Sự tham gia phiên tòa
của người bị hại có mục đích hoàn toàn khác với nguyên đơn và bị đơn dân sự vì vậy không
thể đồng nhất sự tham gia phiên tòa của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự với người bị hại
như tinh thần của Điều luật này.
+ Thực tiễn xử lý vụ án hình sự cho thấy không ít trường hợp người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ bị kẻ phạm tội hoặc những người thân của người này khống chế, đe dọa,
mua chuộc, lừa dối hoặc có những thủ đoạn khác... làm cho người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, không thể
có mặt để thực hiện việc khai báo theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng và vô hình
chung họ lại phạm vào tội từ chối khai báo theo Điều 308 BLHS. Để khắc phục tình trạng trên,
bên cạnh quy định về bảo vệ người làm chứng, cũng cần bổ sung quy định về bảo vệ người bị
hại khi người bị hại yêu cầu và cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng người bị hại bị đe
dọa.
+ Tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định nghĩa vụ khai báo của người bị hại và nếu người
bị hại không khai báo mà không có lý do chính đáng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo
Điều 308 BLHS. Theo quan sát của chúng tôi, cho đến nay chưa có người bị hại nào bị truy
cứu trách nhiệm về tội “từ chối khai báo” theo Điều 308 BLHS; chưa có hướng dẫn của cơ
quan có thẩm quyền về trường hợp từ chối khai báo có lý do chính đáng và cũng chính vì vậy
có nhiều ý kiến cho rằng quy định này là không thực tế. Mặt khác, đã là người bị hại lại còn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ vì họ từ chối khai báo, trong khi đó bị can, bị cáo là người bị
buộc tội từ chối khai báo lại không phải chịu trách nhiệm gì[9] như vậy liệu có công bằng?
Chúng tôi cho rằng quyền công dân bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ công dân, việc khai báo
của người bị hại sẽ góp phần tìm ra sự thật của vụ án vì vậy khó có thể loại bỏ quy định này.
Tuy nhiên, làm thế nào để một tội danh được quy định có phải tính khả thi? Việc không truy
cứu trách nhiệm hình sự người bị hại nào về tội “từ chối khai báo” là do chúng ta chưa có
hướng dẫn cụ thể thế nào là “không có lý do chính đáng” làm căn cứ áp dụng và trong thực tế
gặp trường hợp này cơ quan có thẩm quyền chưa xử lý nghiêm khắc. Vì vậy, cơ quan có thẩm
quyền cần hướng dẫn để khắc phục những bất cập như đã nêu.
- Thứ ba, cơ chế thỏa thuận nhận tội và bồi thường thiệt hại giữa người bị hại và bị can, bị cáo
trong một số trường hợp là vấn đề được áp dụng khá phổ biến ở các nước. Ở đó, nhà nước
cho phép một người phạm tội có thể thỏa thuận nhận tội với cơ quan có thẩm quyền và được
phép thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại với người bị hại. Đây cũng là vấn đề mới ở Việt
Nam, vì vậy trong tiến trình cải cách tư pháp, hoàn thiện các cơ chế bảo vệ quyền của công
dân trong tố tụng hình sự, nên chăng chúng ta triển khai nghiên cứu cơ chế để tìm kiếm khả
năng tiếp thu và vận dụng cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta.
* Vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại (hay còn gọi là tư tố) là một chế định không mới,
được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam chế định này lần đầu tiên
được quy định trong Bộ luậy TTHS năm 1988. Đây là chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn
trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại. Mặc dù nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là hành vi phạm tội phải chịu
trách nhiệm trước Nhà nước, Nhà nước đã cam kết sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của mọi công dân bằng một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, đó là Hiến pháp, bằng cả hệ
thống pháp luật và cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi phạm tội xâm hại đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi xử lý hành vi
phạm tội, Nhà nước còn phải quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị
hại. Thực tế cho thấy mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại
không muốn đưa ra xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ,
cũng có trường hợp giữa người bị hại và người gây thiệt hại có những mối quan hệ đặc biệt.
Điều 51 và Điều 105 Bộ luật TTHS đã ghi nhận yêu cầu của người bị hại. Quá trình áp dụng
cho thấy chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã phát huy hiệu quả, quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt hơn.
Tuy nhiên so với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, chế định này
cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn: Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật TTHS,
trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ
luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên
tòa. Đây là một nội dung đã được quy định từ những năm 1988, qua các lần sửa đổi, bổ sung,
Bộ luật TTHS vẫn giữ nguyên quy định này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hướng dẫn của
cơ quan có thẩm quyền về việc người bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa như thế
nào. Trường hợp nếu người bị hại trình bày lời buộc tội thì kiểm sát viên tham gia phiên tòa có
trình bày lời buộc tội nữa không? Lời buộc tội của người bị hại có giá trị như thế nào? Sự có
mặt của người bị hại trong trường hợp này có bắt buộc như đối với kiểm sát viên không? Thực
tiễn xét xử cho thấy mọi việc đều do kiểm sát viên thực hiện, còn người bị hại trong trường
hợp này cũng không có gì đặc biệt so với người bị hại trong các vụ án khác. Hơn nữa, bản
thân quy định này cũng chưa thật đầy đủ và phù hợp, chẳng hạn trong giai đoạn trước khi mở
phiên tòa thì người bị hại có các quyền hạn cụ thể nào, cách thức thực hiện các quyền đó ra
sao cũng chưa được quy định rõ. Chúng tôi cho rằng đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại phải khác so với vụ án thông thường, quyền của người bị hại được thể hiện
trong suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ đơn thuần là trình bày lời buộc tội tại phiên tòa như
quy định hiện nay. Từ thực trạng nêu trên chúng tôi đề nghị:
Thứ nhất, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có thẩm quyền chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Theo chúng tôi nên mở rộng đối với các tội xâm
phạm sở hữu, các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm và chỉ áp dụng đối với các tội ít nghiêm
trọng.
Thứ hai, nghiên cứu để bổ sung các quyền của người bị hại trong giai đoạn trước xét xử, theo
hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền thu thập tài liệu,
đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà nước để phục vụ cho việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Thứ ba, cần quy định cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho trường hợp khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại. Theo chúng tôi thủ tục này nên quy định theo hướng chỉ có người bị hại mới có
quyền đưa một người ra xét xử tại phiên tòa, và tất nhiên ở đây quyền công tố không còn nữa.
Sự tham gia phiên tòa của viện kiểm sát lúc này chỉ thực hiện chức năng giám sát việc tuân
theo pháp luật chứ không thực hiện chức năng buộc tội. Tòa án đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở
đề nghị của người bị hại. Tại phiên tòa kiểm sát viên không đọc bản cáo trạng mà người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời cáo buộc của mình trước khi tiến hành xét
hỏi. Kiểm sát viên cũng không trình bày lời luận tội mà sẽ do người bị hại hoặc đại diện hợp
pháp của người bị hại trình bày. Trong trường hợp này người bị hại, đại diện hợp pháp của họ
bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, kiểm sát viên không
bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa.
Tất cả những sửa đổi trên đây nếu được chấp nhận sẽ có thể đảm bảo chế định khởi tố vụ án
theo yêu cầu của người bị hại đi vào thực chất, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại
mới được đảm bảo.
- Xem thêm -