Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu sử dụng một số cây che phủ trong canh tác ngô đất dốc ở huyện văn chấ...

Tài liệu Nghiên cứu sử dụng một số cây che phủ trong canh tác ngô đất dốc ở huyện văn chấn tỉnh yên bái

.PDF
62
300
134

Mô tả:

1 Phần I MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Cây ngô (Zea mays L.) là một trong ba cây ngũ cốc chính (lúa mì, lúa nước và ngô) được trồng phổ biến rộng, có năng suất cao, có giá trị kinh tế lớn và chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Ngô là nguồn giải quyết lương thực cho nhiều dân tộc trên thế giới, với 21% tổng sản lượng ngô được sử dụng làm lương thực đã nuôi sống 1/3 dân số toàn cầu. Ở một số nước như Mexico, Ấn Độ và một số nước châu Phi khác (đặc biệt là ở các nước kém phát triển) ngô là nguồn dinh dưỡng chính, giúp giải quyết nạn đói thường xuyên đe dọa, nên ngô là cây “báo hiệu của sự ấm no”. Bên cạnh giá trị làm lương thực, ngô còn là nguồn thức ăn gia súc vô cùng quan trọng, 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp cho gia súc, gia cầm là từ ngô. Ở các nước phát triển có nền chăn nuôi công nghiệp đã sử dụng 70 - 90% sản lượng ngô cho chăn nuôi như Hungari 97%, Pháp 90%, Mỹ 89%… Cây ngô là thức ăn xanh và ủ chua rất tốt cho chăn nuôi gia súc lớn, đặc biệt là bò sữa. Những năm gần đây ngô còn là cây thực phẩm được ưa chuộng. Ngô rau (ngô bao tử - baby corn) có giá trị kinh tế hàng hoá và giá trị dinh dưỡng rất cao so với các loại rau cao cấp khác. Ngoài ra, ngô còn là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các nhà máy sản xuất rượu cồn, tinh bột, dầu, glucoza, chất dẻo… Giá trị sử dụng rộng rãi của ngô được chứng minh bằng 670 mặt hàng khác nhau của các ngành công nghiệp lương thực - thực phẩm, công nghiệp dược và công nghiệp nhẹ. Hiện nay hoạt động sản xuất Ethanol từ nguyên liệu ngô đang phát triển mạnh và Mỹ là nước đứng đầu trong ngành này. Đất đồi núi (đất dốc) chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên của Việt Nam. Nhìn chung, đây là những loại đất khó khai thác sử dụng và kém hiệu quả, đặc biệt khi đất bị bóc trần khỏi thảm thực vật che phủ. Năm 2003, theo số liệu của Tổng cục thống kê thì đại đa số đất có độ dốc < 150 (chiếm 21,9%) đang được 2 sử dụng cho sản xuất nông nghiệp hoặc nông lâm nghiệp. Diện tích đất có độ dốc từ 15 - 250 chiếm khoảng 16,4%, còn lại là đất có độ dốc > 250 và diện tích đất có rừng đã đạt 12,0 triệu ha (khoảng 36,5%). Tuy nhiên, ở nhiều nơi, do không có đất bằng nên nông dân vẫn phải dựa vào canh tác đất có độ dốc > 150 để kiếm kế sinh nhai. Với độ dốc như vậy cộng với thói quen canh tác lạc hậu lên xói mòn và rửa trôi đất rất mạnh trong quá trình canh tác là điều khó tránh khỏi. Về sản xuất ngô ở miền núi, hiện nay cũng đã có nhiều vấn đề nẩy sinh cần phải nghiên cứu các biện pháp khắc phục kịp thời vì đó là nguồn sống rất quan trọng, đặc biệt là của đồng bào H’mông và các dân tộc sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Theo TS. Lê Quốc Doanh (2004)[1]thì ở miền núi phía Bắc Việt nam có tới 62% hộ nông dân có thu nhập từ sản xuất ngô và bình quân cây ngô chiếm tới 15% thu nhập của họ. Trong những năm gần đây, do những thành tựu trong sản xuất ngô lai mà năng suất ngô tăng vọt (từ 2,1 tấn/ha năm 1995 lên 4,0 tấn/ha năm 2008). Cộng với sự ổn định về thị trường, vai trò kinh tế của cây ngô ngày càng trở nên quan trọng hơn. Diện tích trồng ngô của miền núi phía bắc tăng lên đáng kể. Đây là một điều đáng mừng vì thực sự cây ngô đã đóng góp nhiều trong việc cải thiện đời sống nông dân miền núi. Tuy nhiên, một khi tiềm năng năng suất ngô đã đạt đến mức trần thì năng suất thực sẽ giảm. Nguyên nhân là do nông dân chỉ quan tâm sử dụng giống mới và tăng hàm lượng phân hoá học mà không sử dụng phân xanh, phân hữu cơ hoặc tàn dư cây trồng để bảo vệ và nâng cao độ mùn cho đất. ở nhiều nơi do đất trồng ngô bị xói mòn và thoái hoá đến mức giống và phân hoá học không còn phát huy tác dụng. Do hiệu quả kinh tế thấp dẫn đến thua lỗ nên nông dân trồng ngô sẽ chuyển sang trồng sắn và sau đó đất sẽ bị bỏ hoá. Huyện Văn Chấn - Yên Bái là một điển hình của canh tác trên đất dốc ở miền núi phía Bắc. Phần lớn diện tích đất ở đây là đất dốc với tầng đất canh tác dày do cộng đồng người H'mông, người Mường, người Thái sử dụng. Cây trồng trong hệ thống trồng trọt chủ yếu là ngô và lúa nương. Kiểu canh tác ở đây là dọn sạch và đốt trước khi gieo trồng, mặt đất không được 3 che phủ. Vì thế lượng chất hữu cơ bề mặt bị xói mòn và rửa trôi sau những trận mưa là rất lớn. Xuất phát từ yêu cầu sản xuất nông nghiệp bền vững, hiểu được vai trò của việc bảo vệ đất, chống xói mòn giúp cho đất màu mỡ hơn, kiểm soát cỏ dại, giữ nước, tăng năng suất cây trồng, tăng thu nhập cho người dân, chúng tôi đã thực hiện thí nghiệm: "Nghiên cứu sử dụng một số cây che phủ trong canh tác ngô đất dốc ở huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái" nhằm góp phần xây dựng hệ thống canh tác ngô hiệu quả, ổn định và lâu bền hơn. 1.2. Mục tiêu của đề tài - Xác định được cây che phủ có tác dụng tới sinh trưởng phát triển cây ngô đồng thời hạn chế được xói mòn đất. 1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 1.3.1. Ý nghĩa khoa học - Kết quả nghiên cứu góp phần xác định cơ sở lý luận và thực tiễn để phát triển hệ thống canh tác trồng Ngô đất dốc bền vững và hiệu quả thông qua sử dụng một số cây che phủ đất. - Là cơ sở cho việc định hướng bảo vệ và khai thác tốt hơn tiềm năng đất dốc vùng miền núi phía Bắc. 1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ hướng nông dân vùng núi tới kiểu canh tác đất dốc hiệu quả, bền vững hơn; đồng thời bảo tồn được nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, rừng) và bảo vệ môi trường sinh thái. - Tăng thu nhập, giảm đầu tư cho Ngô đạt năng suất cao, hiệu quả kinh tế lớn đồng thời, cải thiện đời sống nông dân vùng cao. 4 Phần II TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 2.1. Cơ sở khoa học của đề tài Ngô là loại cây trồng có năng suất cao lại chứa một hàm lượng các chất dinh dưỡng quan trọng đáng kể, cho nên ngô được sử dụng làm lương thực (một số nước Châu Phi đã sử dụng 50-60% tổng sản lượng ngô làm lương thực), làm thức ăn trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, để cung cấp thịt, trứng, sữa cho con người (một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ đã dùng 80-90% sản lượng ngô làm thức ăn chính trong chăn nuôi). Đồng thời, ngô cũng là nguồn nguyên liệu quan trọng cho ngành công nghiệp chế biến rượu, bia, cồn, đường và thực phẩm… Tình trạng đất bị suy thoái đang là vấn đề nghiêm trọng đối với xã hội, hiện tượng này không những làm cho diện tích đất nông nghiệp bị giảm đi mà còn ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống như ô nhiễm đất, nạn đói, tình trạng lũ lụt gia tăng, mất diện tích rừng… và những người chịu tác động trực tiếp từ những hiện tượng trên là dân nghèo sống ở các khu vực núi cao. Ngày nay, trong sản xuất suất nông nghiệp ở khu vực miền núi chúng ta đang tập trung vào nghiên cứu phương thức sử dụng đất bền vững, trong đó việc sử dụng cây che phủ cải tạo đất đang là vấn đề được nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân quan tâm. Vì cây che phủ ngoài việc chống xói mòn, cải thiện được điều kiện tiểu khí hậu đồng ruộng (độ ẩm, nhiệt độ…), nó còn trả lại cho đất một lượng chất dinh dưỡng rất lớn và nâng cao hiệu quả kinh tế cho người sản xuất. Do đó chúng tôi thấy việc tiến hành nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết, vì đề tài đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của người sản xuất. 2.2. Tình hình sản xuất Ngô trên thế giới và Việt Nam 2.2.1. Tình hình sản xuất Ngô trên thế giới Ngành sản xuất ngô thế giới tăng liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay, nhất là trong hơn 40 năm gần đây, ngô là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu. Vào năm 1961, năng suất ngô trung bình của thế giới chỉ chưa đến 20 tạ/ha, năm 2004 đã đạt 49,9 tạ/ha. Năm 2007, theo USDA, diện tích ngô đã vượt qua lúa nước, với 157 5 triệu ha, năng suất 4,9 tấn/ha và sản lượng đạt kỷ lục với 766,2 triệu tấn. (FAOSTAT,USDA 2008)[4] Kết quả trên có được, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi thuyết ưu thế lai trong chọn tạo giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác. Đặc biệt, từ 10 năm nay, cùng với những thành tựu mới trong chọn tạo giống lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với cộng nghệ sinh học thì việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô cũng như áp dụng kỹ thuật trồng xen cho cây che phủ cho Ngô đã góp phần đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước. Bảng 2.1: Diện tích, năng suất và sản lượng ngô thế giới và một số khu vực Diện tích (1000 ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (nghìn tấn) Thế giới 157,0 49,0 766.200 Các nước phát triển 49,441 78,80 389.593 Các nước đang phát triển 98,136 31,80 312.073 Mỹ 30,395 92,86 282.260 Trung Quốc 26,222 51,54 135.145 Thái Lan 1,150 36,35 4.180 Khu vực Nguồn: FAOSTAT, 2006 [5] Hiện nay, Mỹ là nước có diện tích trồng ngô lớn nhất thế giới và hầu hết diện tích này được trồng bằng giống lai. Năm 2005, năng suất ngô trung bình của Mỹ đạt gần 9,27 tấn/ha trên diện tích 29,8 triệu ha (Faostat Database, 2006), đứng vào hàng các nước có năng suất ngô cao nhất thế giới. Việc nghiên cứu và sử dụng ngô lai ở châu Âu bắt đầu muộn hơn Mỹ khoảng 20 năm nhưng cũng đạt được những thành tựu quan trọng. Một số nước có năng suất ngô bình quân cao là Israel (16 tấn/ha), Bỉ (12,2 tấn/ha), Tây Ban Nha (9,9 tấn/ha) (Faostat Database, 2006). Năng suất ngô bình quân của Trung Quốc đã tăng từ 1,5 tấn/ha năm 1950 lên 5,15 tấn/ha năm 2006 (Faostat Database, 2006). Thái Lan là nước dẫn đầu trong việc đưa giống ngô 6 lai vào sản xuất. Năm 1981, diện tích trồng giống ngô lai của Thái Lan là 0,1% đến năm 1996 là 77,5%. Thái Lan hiện có 90% diện tích ngô được trồng bằng giống lai (Pichet Gludoyma, 2005) Từ những năm cuối thế kỷ 20, nghề trồng ngô trên thế giới đã có những bước phát triển kỳ diệu nhờ ứng dụng rộng rãi ưu thế lai, kỹ thuật nông học tiên tiến và những thành tựu của công nghệ sinh học, công nghệ chế biến và bảo quản... đã đưa sản lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mỳ và lúa nước. Sự kết hợp cây trồng xen vào sản xuất ngô đã tăng sản lượng ngô trên thế giới. Bảng 2.2: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô, lúa mỳ và lúa nước của thế giới năm 2009 Loại cây trồng Diện tích Năng suất Sản lượng (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) Ngô 156,4 50,3 787,3 Lúa mỳ 224,9 30,3 682,2 Lúa nước 155,7 42,5 661,8 (Nguồn: UDSA, 2009)[6] Trong ba cây lương thực chủ yếu trên thế giới, cây ngô tuy chỉ đứng thứ hai về diện tích nhưng lại dẫn đầu về năng suất và sản lượng. Năm 2008, diện tích ngô của thế giới đã vượt lúa nước với 156,4 triệu ha sau lúa mỳ (224,9 triệu ha), nhưng năng suất ngô đã đạt 50,3 tạ/ha, gấp 1,66 lần so với lúa mỳ và 1,18 lần so với năng suất lúa nước. 7 Bảng 2.3: Tình hình sản xuất ngô của thế giới trong giai đoạn 2000 - 2009 Chỉ tiêu Năm Diện tích (triệu ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (triệu tấn) 2000 137 43,25 592,5 2001 137,5 44,77 615,5 2002 137,3 44,06 604,9 2003 144,7 44,6 645,2 2004 147,5 49,45 729,2 2005 147,4 48,42 713,9 2006 148,6 47,53 706,3 2007 158,6 49,69 788,1 2008 161 51.09 822,7 2009 156 51,9 809,02 (Nguồn: FAOSTAT, 2010 và UDSA, 2010)[9] Trong vòng 40 năm trở lại đây, ngành sản xuất ngô đã có những tiến bộ vượt bậc: năm 1961 diện tích ngô thế giới chỉ là 104,8 triệu ha với năng suất 20 tạ/ha, đến năm 2000 năng suất ngô trung bình của thế giới đã tăng gấp đôi lên 43,25 tạ/ha và diện tích cũng được mở rộng thêm 32,1 triệu ha so với năm 1961. Đó là một tốc độ phát triển đáng kể, tốc độ tăng về diện tích đạt 0,82 triệu ha/năm, năng suất là 0,59 tạ/năm, sản lượng tăng 9,96 triệu tấn/năm. Đặc biệt năm 2007 năng suất ngô đã tăng lên 50,1 tạ/ha và sản lượng đạt kỷ lục với 791,8 triệu tấn (FAOSTAT, 2008).[7] Tình hình sản xuất ngô của thế giới trong những năm gần đây tăng cả về 3 chỉ tiêu là: diện tích, năng suất và sản lượng. Diện tích trồng ngô tăng liên tục từ năm 2000 đến năm 2007, từ 136,9 triệu ha (2000) tăng lên 158,0 triệu ha (2007). Năm 2008 diện tích ngô có giảm đi một chút nhưng năng suất lại đạt cao nhất từ trước đến nay với 50,30 tạ/ha. Trong vòng 8 năm (từ 2000 - 2008) tốc độ tăng trưởng diện tích là 3,01 triệu ha, năng suất là 0,88 tạ/ha/năm và sản lượng là 8 24,35 triệu tấn/năm. Theo dự đoán xu thế phát triển ngô trong thời gian tới là diện tích trồng ngô đi vào ổn định và có thể giảm dần do diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp bởi nhiều nguyên nhân (dân số tăng, công nghiệp hóa mạnh, hiện tượng sa mạc hóa…). Nhưng một mặt nhu cầu của thị trường ngày càng lớn, do vậy phải tăng năng suất và sản lượng bằng cách tạo ra nhiều giống ngô có khả năng chịu thâm canh, cho năng suất cao, chống chịu tốt. Tuy nhiên tình hình sản xuất ngô có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, các nước trên thế giới: Bảng 2.4: Sản xuất ngô ở một số châu lục trên thế giới năm 2008 Diện tích Năng suất Sản lượng (triệu ha) (tạ/ha) (triệu tấn) Châu Á 52,17 45,53 237,56 Châu Mỹ 64,12 68,33 438,2 Châu Âu 15,47 60,18 93,14 Châu Phi 29,15 18,25 53,2 Khu vực (Nguồn: FAOSTAT, 2010)[8] Châu Mỹ có diện tích trồng ngô lớn nhất so với các châu lục khác với 64,12 triệu ha, chiếm 39,8% diện tích ngô toàn thế giới. Đồng thời đây cũng là châu lục có năng suất, sản lượng ngô cao nhất, năm 2008 đạt 68,34 tạ/ha, cao hơn 33,8% so với năng suất trung bình của thế giới; sản lượng đạt 438,21 triệu tấn - chiếm hơn 53,3% sản lượng ngô toàn thế giới. Châu Á là khu vực có diện tích ngô lớn thứ 2 sau Châu Mỹ với 52,17 triệu ha, nhưng năng suất ngô ở khu vực này chỉ đạt 45,53 tạ/ha, bằng 89% năng suất trung bình của thế giới. Châu Âu đứng thứ hai trên thế giới về năng suất với 60,18 tạ/ha. Châu Phi có diện tích đứng thứ ba trên thế giới nhưng có năng suất ngô rất thấp, chỉ đạt 18,25 tạ/ha, chỉ bằng 36,1% năng suất bình quân của thế giới. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trình độ khoa học kỹ thuật ở các nước đang phát triển còn hạn chế, chưa tạo ra được những giống ngô phù hợp cho sản xuất; điều kiện khí hậu, đất đai không thuận lợi; kinh tế còn kém phát triển nên thiếu vốn đầu tư vào thâm canh. 9 Các nước phát triển có năng suất ngô cao hơn năng suất trung bình của thế giới và ngược lại các nước đang phát triển năng suất ngô thấp hơn rất nhiều. Một số nước có năng suất cao như: Tây Ban Nha 99,01 tạ/ha, Mỹ 96,58 tạ/ha, Pháp 92,94 tạ/ha,... và những nước có diện tích trồng ngô lớn là: Mỹ 31,83 triệu ha, Trung Quốc 29,88 triệu ha, Brazil 14,45 triệu ha … Các nước này đã đóng góp rất lớn đối với sản lượng ngô của thế giới, trong đó Mỹ là nước có đóng góp lớn nhất và luôn là nước dẫn đầu về sản xuất ngô. Sản lượng ngô của Mỹ năm 2009 là 307,38 triệu tấn, chiếm 38,7% tổng sản lượng ngô của thế giới. Lý do năng suất ngô ở Mỹ tăng lên trong 50 năm qua là 50% do cải tạo nền di truyền của các giống lai, 50% do cải thiện chế độ canh tác. Ngoài ra một trong những lý do năng suất ngô ở Mỹ vẫn tăng cao là nhờ việc áp dụng ngô chuyển gen. Trên thị trường quốc tế ngô đứng đầu trong danh sách những mặt hàng có giá trị khối lượng hàng hóa giao dịch ngày càng tăng, tỷ trọng lưu thông lớn, thị trường tiêu thụ rộng và nhu cầu ngày càng cao. Hiện nay nhu cầu tiêu thụ ngô trên thế giới trung bình hàng năm từ 702,5 đến 768,8 triệu tấn. Trong đó, nước Mỹ tiêu thụ 33,52% tổng sản lượng ngô tiêu thụ và các nước khác chiếm 66,48%. Sở dĩ nhu cầu ngô tăng mạnh là do dân số thế giới tăng nên nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa tăng mạnh dẫn đến đòi hỏi lượng ngô dùng trong chăn nuôi tăng. Hơn nữa trong những năm gần đây khi nguồn dầu mỏ đang cạn kiệt thì ngô được coi là nguồn nguyên liệu chính để chế biến ethanol, một loại nhiên liệu sạch dùng để thay thế một phần nguyên liệu xăng dầu. Trong bối cảnh giá dầu đang liên tiếp lập những kỷ lục mới, nhiên liệu sinh học đang trở nên hấp dẫn hơn bao giờ hết. Tại nước sản xuất ethanol lớn nhất là Mỹ, ¼ sản lượng ngô là dùng để sản xuất ethanol, như vậy chỉ riêng lượng ngô cho chương trình ethanol của Mỹ đã tương đương hơn một nửa nhu cầu ngũ cốc của thế giới. Hiện nay thị trường ngô thế giới được đánh giá là thị trường tương đối khả quan. Với tình hình sản xuất và tiêu thụ hiện nay thì cây ngô sẽ càng khẳng định được vị trí quan trọng trong nền nông nghiệp thế giới. 2.2.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu ngô ở Việt Nam Năng suất ngô Việt Nam những năm 1960 chỉ đạt trên 1 tấn/ha, với diện tích hơn 200 nghìn hecta; đến đầu những năm 1980, năng suất cũng chỉ đạt 1,1 10 tấn/ha và sản lượng hơn 400.000 tấn do vẫn trồng các giống ngô địa phương với kỹ thuật canh tác lạc hậu. Từ giữa những năm 1980, nhờ hợp tác với Trung tâm Cải tạo Ngô và Lúa mỳ Quốc tế (CIMMYT (2001), World maize Fact and Trends, CIMMYT- International Maize and Wheat Impruvement Center, el Batan, Mexico, 1997/2000)[10]. Nhiều giống ngô cải tiến đã được đưa vào trồng ở nước ta, góp phần nâng năng suất lên gần 1,5 tấn/ha vào đầu những năm 1990. Tuy nhiên, ngành sản xuất ngô nước ta thực sự có những bước tiến nhảy vọt là từ đầu những năm 1990 đến nay, gắn liền với việc không ngừng mở rộng giống ngô lai ra sản xuất, đồng thời cải thiện các biện pháp kỹ thuật canh tác theo đòi hỏi của giống mới. Năm 1991 diện tích trồng giống lai chưa đến 1% trên hơn 400 nghìn hecta trồng ngô, năm 2007 giống lai đã chiếm khoảng 95% trong số hơn 1 triệu hecta. Năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với tốc độ cao hơn trung bình thế giới trong suốt hơn 20 năm qua. Năm 1980 năng suất ngô nước ta chỉ bằng 34% so với trung bình thế giới (11/32 tạ/ha); năm 1990 bằng 42% (15,5/37 tạ/ha); năm 2000 bằng 60% (25/42 tạ/ha); năm 2005 bằng 73% (36/49 tạ/ha) và năm 2007 đã đạt 81,0% (39,6/49 tạ/ha). Năm 1994, sản lượng ngô Việt Nam vượt ngưỡng 1 triệu tấn, năm 2000 vượt ngưỡng 2 triệu tấn, và năm 2007 chúng ta đạt diện tích, năng suất và sản lượng cao nhất từ trước đến nay: diện tích là 1.072.800 ha, năng suất 39,6 tạ/ha, sản lượng vượt ngưỡng 4 triệu tấn - 4.250.900 tấn. Ngô Việt Nam bắt đầu phát triển từ năm 1995 trở lại đây và hình thành mạng lưới tiêu thụ rộng khắp gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và chăn nuôi. Nhu cầu của người chăn nuôi và thị trường ngô phát triển mạnh mẽ từ đồng bằng sông Hồng đã tạo động lực cho sản xuất ngô tại các vùng trung du miền núi phía Bắc, cùng với nó là sự phát triển của các giống ngô lai và áp dụng khoa học kỹ thuật của người dân vào sản xuất. 11 Bảng 2.5: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô của Việt Nam giai đoạn 1961- 2009 Năm 1961 1975 1990 1994 2000 2005 2009 Diện tích (1000ha) 229,20 267,0 432,0 534,6 730,2 1052,6 1.086.800 Sản lượng (1000 tấn) 260,10 280,60 671,0 1143,9 2005,9 3787,1 4.431.800 Năng suất (tạ/ha) 11,4 10,5 15,5 21,4 25,1 36,0 40,8 (Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2010)[11] Theo dự báo của Cục Chăn nuôi - Bộ Nông nghiệp & PTN, năm 2008 các doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu thêm 672.000 tấn ngô để làm nguyên liệu cho chế biến. Dự kiến tới năm 2010, Việt Nam sẽ phải nhập 741.000 tấn ngô và năm 2015 xấp xỉ 1 triệu tấn. Giá ngô trên thị trường khu vực miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng hiện nay thường không ổn định, phụ thuộc vào mùa vụ trồng ngô ở Sơn La và Hoà Bình. Vào những thời điểm thu hoạch ngô Sơn La, giá ngô thường thấp hơn những thời điểm khác trong năm và biến động theo giá thu mua của các nhà máy chế biến thức ăn gia súc. Khu vực Đông Bắc cũng chịu ảnh hưởng của biến động giá ngô thị trường trong nước song ít hơn do tỷ lệ ngô lai (ngô hàng hóa) tại khu vực này còn thấp. Thị trường ngô của các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc được phân chia thành 2 khu vực rõ rệt: khu vực Tây Bắc phát triển ngô theo hướng hàng hóa và khu vực Đông Bắc vẫn sản xuất ngô mang nặng tính tự cung tự cấp, có một số ít tỉnh đang hướng sản xuất ngô theo thị trường bằng cách tăng diện tích trồng ngô lai (như Cao Bằng, Yên Bái). Theo những nghiên cứu mới đây của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ thống nông nghiệp, mới chỉ có gần 20% lượng ngô của Cao Bằng được tiêu thụ ra ngoại tỉnh (tại thị trường Hà Nội, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Dương), lượng ngô còn lại phục vụ cho tiêu dùng trong tỉnh. Trên địa bàn tỉnh Cao Bằng hiện có 1 nhà máy chế biến thức ăn gia súc nhưng lượng ngô 12 tiêu thụ hàng năm của công ty này chỉ khoảng trên 300 tấn ngô hạt, nhu cầu còn quá nhỏ so với trên 90.000 tấn ngô mà tỉnh này sản xuất ra. Do lượng cầu ngô hạt tại thị trường nội tỉnh còn quá nhỏ nên vào thời điểm thu hoạch giá ngô thường thấp hơn nhiều so với thị trường ngoại tỉnh. Một số giải pháp phát triển cây ngô theo hướng bền vững, Ngô đất dốc: Những thách thức đối với sản xuất ngô ở miền núi phía bắc Việt Nam Mặc dầu đã đạt được những kết quả khả quan, nhưng sản xuất ngô ở MNPB (Miền núi phía Bắc) vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra: - Năng suất vẫn thấp so với trung bình cả nước và thế giới (khoảng 82%), và rất thấp so với năng suất thí nghiệm; - Hiệu quả sản xuất thấp nên giá thành sản xuất còn cao; - Sản lượng chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong nước đang tăng lên rất nhanh, những năm gần đây phải nhập từ 500-600 nghìn tấn ngô hạt/năm để làm thức ăn chăn nuôi. Theo số liệu của Cục Chăn nuôi, năm 2006 theo con đường chính thức nhập 564.488 tấn ngô, năm 2007 là 585.221 tấn - Sản phẩm từ ngô còn đơn điệu. Công nghệ sau thu hoạch chưa được chú ý đúng mức, mất mát sau thu hoạch còn khá cao (10 - 12%). Một số vấn đề trong canh tác đáng chú ý như khoảng cách, mật độ, phân bón, thời vụ, phòng trừ sâu bệnh và cỏ dại, bảo quản sau thu hoạch chưa được quan tâm đúng mức. Nhu cầu về Ngô đang tăng nhanh ở qui mô toàn cầu, do ngô không chỉ được dùng làm thức ăn chăn nuôi và lương thực cho người mà hiện nay lượng ngô để chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol) đang ngày một tăng nhanh. Do đó mậu dịch ngô thế giới tăng liên tục những năm gần đây. Nếu vào năm 1990, lượng ngô xuất nhập khẩu trên thế giới là trên 66 triệu tấn, đến năm 2000 đã tăng lên 90 triệu tấn và đạt trên 100 triệu tấn vào 2005 (Faostat, 2005). Giá ngô thế giới cũng tăng vọt so với mấy năm trước, nếu như giai đoạn 2002 2003, giá ngô vàng số 2 của Mỹ là 88 USD/tấn, thì hiện nay đã tăng gần gấp đôi - với 150,6 USD/tấn, giá ngô ở ta đã xấp xỉ 300 USD/tấn. Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngô trên đất dốc Yên Bái: - Tổng diện tích gieo trồng đạt 10.151 ha, trong đó cây ngô vẫn là chủ lực, với diện tích 6.279 ha trên đất 2 vụ lúa, tăng 1.333 ha so cùng kỳ, năng 13 suất đạt bình quân 28,7 tạ/ha, sản lượng đạt trên 18 ngàn tấn, giá trị thu nhập đạt 15 triệu đồng/ha. Thành công đối với Yên Bái nhưng sẽ là thất bại nếu đem so với các tỉnh thành khác, bởi năng suất ngô ở Phú Thọ, Tuyên Quang, Lào Cai đều đạt gần 40tạ/ha. Vẫn biết sản xuất cây vụ đông ở một tỉnh miền núi là gặp rất nhiều bất lợi, nhưng không phải là không hiệu quả, mà có nhiều địa phương trồng ngô, đậu tương, rau màu mang lại hiệu quả rất cao như vùng Mường Lò, Văn Chấn, hay vùng Đại Phú An - huyện Văn Yên. Thế nhưng nhìn tổng thể thì năng suất, sản lượng và giá trị kinh tế rất thấp, mới đạt 15 triệu đồng/ha, trừ chi phí người nông dân được không đáng là bao. Phải chăng nông dân Yên Bái không biết làm cây vụ đông? Có một thực tế là bà con nông dân rất tâm huyết với cây vụ đông, điều đó được minh chứng bằng diện tích tăng lên mỗi năm, nếu như năm 1996 diện tích mới đạt hơn 1 nghìn ha, thì nay đã lên trên 10 nghìn ha. Chỉ có điều là trong sản xuất chúng ta chưa thật chú ý đến thời vụ, cơ cấu giống và mức đầu tư thâm canh dẫn tới năng suất, sản lượng thấp, thậm chí có nhiều diện tích còn mất trắng. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay yếu tố thời vụ đóng phần quan trọng quyết định tới năng suất, chất lượng cây trồng. Hẳn mỗi chúng ta vẫn chưa quên trong vụ đông năm 2008 hàng ngàn ha lúa bị chết, hàng chục ha ngô ở Yên Bình, Lục Yên, Văn Yên không ra bắp và phải chặt bỏ làm thức ăn cho gia súc. Đành rằng đợt rét năm 2008 có cường độ mạnh, thời gian kéo dài đã lập nên một kỷ lục trong vòng 60 năm qua. Nhưng đó không phải là tất cả mà cái chính là do bà con nông dân không tuân thủ nghiêm ngặt lịch gieo cấy theo đúng thời vụ, hàng ngàn ha lúa bị chết là do gieo cấy quá sớm, diện tích ngô đông gieo trồng muộn hơn thời vụ hàng chục ngày, dẫn đến khi ngô trổ bắp phơi màu gặp thời tiết giá lạnh và sương muối, bắp su lại không phát triển được. Tập tính canh tác của các đồng bào dan tộc còn thấp, họ chưa áp dụng được phương thức trồng cây che phủ cho cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng. - Thách thức đối với sản xuất ngô ở Việt Nam. Mạc đù đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng sản xuất ngô ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề đạt ra: + Năng suất thấp so với chung bình thế giới (khoảng 82%) 14 + Rất thấp so với năng suất thí nghiệm + Giá thành sản xuất còn cao + Sản lượng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước + Sản phẩm ngô còn đơn điệu + Công nghệ sau thu hoạch chưa được chú ý đúng mức Nhiều vấn đề đạt ra cho ngành sản xuất ngô thế giới nói chung và nước ta nói riêng: Khí hậu toàn cầu đang diễn ra phức tạp nhất là hiện tương đang nóng lên toàn cầu, đạc biệt là hạn hán lũ lụt đang diễn ra phức tạp, tình hình sản xuất ngô ở nhiều nơi đang gây lên hiện tượng xói mòn rửa trôi, giá nhân công ngày càng cao cạnh tranh gay gắt giữa ngô và cây trồng khác 2.3. Tình hình nghiên cứu cây che phủ trong sản xuất ngô trên thế giới và Việt Nam 2.3.1. Tình hình nghiên cứu cây che phủ trong sản xuất ngô trên thế giới Những nghiên cứu trên thế giới gần đây đã khẳng định vai trò to lớn của biện pháp sinh học trong canh tác đất dốc bền vững là cắt dòng chảy, giảm xói mòn và rửa trôi. Nguyên nhân gây ra hiện tượng xói mòn rửa trôi trên đất dốc đối với cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng chính là động năng của các hạt mưa rơi đã phá vỡ cấu trúc đất và dòng chảy bề mặt cuốn đất đi. Nước ta nằm trên một đại địa hình mở với khoảng 4/5 diện tích lãnh thổ bị bóc mòn do mưa, dòng chảy bề mặt và lũ bão. Sản phẩm của, xói mòn và rửa trôi phần lớn bị cuốn đi một chiều, ít được lắng đọng do các thung lũng bồi tụ hẹp. Hàng năm, hàng tỷ mét khối phù sa bị cuốn trôi ra sông biển. 15 Bảng 2.6: Tác động của các biện pháp khác nhau đến dòng chảy bề mặt Nước Malaysia Thái Lan Việt Nam Lượng mưa (mm) Dòng chảy bề mặt (mm) Biện pháp canh tác 1989 1990 1991 1399 Cao su không trồng xen 122 205 83 1490 Cao su xen dứa 633 318 56 1054 Cao su xen ngô/lạc+dứa 295 122 69 1648 Không băng phân xanh 150 73 194 1733 Cây ngắn ngày có băng phân xanh 81 36 129 1906 Cây ngắn ngày có băng cỏ 77 46 111 999 Sắn không băng phân xanh 157 227 1143 Sắn có băng cốt khí 285 305 (Nguồn: www.http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/xoi-mon-dat-hau-qua-va-giaiphap.161062.html) [13] Thảm cây phủ đã giữ lại nước mưa, tích tụ lại thành nguồn và nhả dần ra cung cấp cho đất quanh năm. Dưới tác dụng của tầng lá, sức công phá của các hạt mưa rơi đã bị giảm đi rõ rệt. Dòng nước lọc qua tán cây, chạy theo cành, thân, rễ khi tiếp xúc với mặt đất lại bị cản bởi lớp cành lá rụng làm chậm tốc độ, tạo nên nguồn nước mặt và nước ngầm rất phong phú và hữu hiệu. Để tăng năng suất ngô thì trên thế giới người ta đã có nhiều nghiên cứu. Việc nghiên cứu và sử dụng cây trồng xen, che phủ ngô ở một số nước đang phát triển bắt đầu từ những năm 1960 như: Braxin, Mehico, Ấn Độ… (Studies on the combining ability of CIMMYT maize germplasm, CIMMYT research highlingts, CIMMYT, Elbatan Mexico) [11]. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến Ngô phát triển chậm ở các nước đang phát triển là do điều kiện kinh tế - xã hội và yếu tố môi trường. Ở các nước đang phát triển, một mặt là do đầu tư thấp, mặt khác do phần lớn diện tích ngô trồng nhờ vào nước trời, đất nghèo dinh dưỡng, hiện tượng xói mòn, rửa trôi xảy ra thường xuyên, sâu bệnh phá hoại 16 mạnh, sự kết hợp cây che phủ trông canh tác ngô còn thấp. Do vậy, ở các nước này mặc dù diện tích chiếm 68% diện tích ngô toàn cầu nhưng chỉ đạt 46% tổng sản lượng ngô thế giới. Việc kết hợp cây trồng xen trên thế giới vào canh tác ngô ở một số nước trên thế giới đã đưa vào sản xuất từ lâu. Sự kết hợp trồng xen một số loại cây họ đậu, cốt khí, lạc, dứa được đưa trồng xen với ngô đã thu được nhiều kết quả tốt. Ở Mỹ mặc dù ngô không trồng ở những vùng đất quá dốc như Việt Nam. Nhưng họ đã thử nghiệm cách làm gieo ngô thành hai hàng gần nhau như một khối và nới rộng khoảng cách giữa các khối lên 1m. Làm như vậy, mỗi cây ngô đều được hưởng lợi thế hàng biên thêm nữa lại gieo 2 - 3 hàng đậu tương hoặc lạc ở giữa các khối để tăng thu nhập, đồng thời bảo vệ và cải tạo đất, đã đạt được thành tựu to lớn trong canh tác ngô. Việc đưa cây trồng che phủ vào canh tác ngô ở trên thế giới, đã có từ rất sớm, trồng kết hợp trồng xen cây che phủ như: Cây họ đậu dã được các nước phát triển đưa vào để trồng xen với ngô từ rất sớm, cây đậu triều Ấn độ (cajanus cajan) phù hợp với các vùng đất dưới 1200m, là cây họ đậu ngắn ngày, hạt tròn giống đậu tương. Có nguồn gốc xa xưa từ Châu Phi, hiện nay được trồng với hàng triệu ha hàng năm ở nước này, do mọc nhanh lên cây đậu triều có tác dụng cải tạo đất được đưa vào vào trồng xen với các loại cây lương thực như, ngô, sắn..., Các mô hình trông xen ngô với các loại cây họ đậu trên thế giới đã được đưa vào sản xuất từ lâu. Các nước phát triển như Mỹ, Trung Quốc đã đưa cây ngô trồng xen với các loại cây khác để mang lại hiệu quả kinh tế. Ngô ở Mỹ được trồng và sử dụng chủ yếu để sản xuất ethanol lên việc tăng năng suất ở nước này được đưa lên hàng đầu. Với sự kết hợp trông xen các loại cây họ đậu, để tăng năng suất, lại thu được hiệu quả kinh tế từ cây trồng phụ. 2.3.2. Tình hình nghiên cứu cây che phủ trong sản xuất ngô ở Việt Nam Đất đồi núi (chiếm ¾ diện tích đất tự nhiên của Việt Nam) đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và giữ gìn an ninh quốc gia. Tuy nhiên miền núi đang gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển sản xuất, ổn định 17 cuộc sống nông dân và bảo vệ môi trường. Ở nhiều nơi nông dân miền núi vẫn phải canh tác trên đất dốc lớn (trên 25 độ) làm cho đất bị xói mòn mạnh và năng suất cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng giảm nhanh. Đất bị thái hóa sẽ không còn khả năng thu nhập. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, phương thức du canh này không còn phù hợp và đã gây lên nhiều chở ngại cho phát triển. Mặc dù còn nhiều nhiều chở ngại, vùng đất quá dốc có rất nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Vai trò của đất dốc ngày càng quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại của loài người. Tuy nhiên đất dốc là hệ sinh thái đa dạng, nhạy cảm. Mọi sai làm trong quản lý đất dốc đều tiềm ẩn những hiệu quả khôn lương, mọi thiệt hại sẽ năng nề trên phạm vi lớn. Vì vậy đất dốc cần được quan tam chăm sóc nhiều hơn, nhằm sử dụng hiệu quả những tiềm năng của vùng miền núi để tăng và ổn định năng suất cây trồng mà vẫn bảo tồn được tài nguyên đất và nước canh tác lâu dài. Các kỹ thuật nâng cao độ che phủ đất và canh tác theo kiểu làm đất tối thiểu trên đất dốc có thể giúp ta đáp ứng được nhu cầu này. Qua nghiên cứu lâu dài ở Việt Nam ta giúp ta hiểu được vai trò to lớn của cây che phủ: - Tác dụng của che phủ đất đến việc tăng năng suất cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng, là chỉ tiêu quan trọng nhất của mọi tiến bộ về giống và kỹ thuật canh tác. Thông thường việc bón phân sẽ làm tăng năng suất cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng. Tuy nhiên, đối với đất quá dốc, điều này không hoàn toàn đúng khi phần lớn lượng phân bón cho cây trồng bị rửa trôi theo dòng chảy bề mặt của với sự xói mòn của đất. Che phủ đất dốc là một biện pháp rất quan trọng trong việc tăng năng suất cây trồng mà không cần sử dụng nhiều phân bón, nhất là phân bón hóa học. -Tác dụng của che phủ đất trong việc bảo vệ đất khỏi bị xói mòn. Xói mòn đất là một trong nhưng nguyên nhân gây thái hóa đất. Muốn canh tác bền vững, nhiệm vụ quan trọng nhất là chống xói mòn. Kết quả nghiên cứu của Hà Đình Tuấn và cộng sự (2008)[3], đã cho thấy che phủ đất có tác dụng ngăn chặn xói mòn rửa trôi và lượng đất bị mất đi do xói mòn sẽ giảm nhiều khi vật liệu che phủ tăng. 18 - Tác dụng cua che phủ đất trong việc khống chế cỏ dại. Như chúng ta đã biết, kiểm soát cỏ dại đóng vai trò quan trọng trong việc tăng năng suất cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng. Tuy nhiên, việc canh tác trên đất dốc không dễ thực hiện, một phần do địa hình phức tạp, việc làm cỏ chủ yếu dựa trên phương pháp thủ công lên rất tốn công lao động. - Tăng hiệu quả kinh tế cho năng suất cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng. Nhìn chung ở đầu vụ thì chi phí cho việc thu gom vật liệu che phủ sẽ cao hơn. Tuy nhiên không phải cày bừa đất cho cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng lên chi phí cho một đơn vị diện tích thấp hơn khi áp dụng che phủ đất, đặc biệt từ vụ hai trở đi người dân đã có ý thức sử dụng tàn dư thực vật của cây trồng nói chung và cây ngô nói riêng trong việc che phủ đất. Gần đây, như đã biết, vấn đề suy thoái đất, môi trường, sa mạc hóa nổi lên, khắp vùng nhiệt đới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Các chính phủ và tổ chức quốc tế đã ý thức được và đang nỗ lực tìm giải pháp cho một nền nông nghiệp sinh thái bền vững, nhấn mạnh đến biện pháp sinh học và lớp phủ thảm xanh an toàn, mặc dù ngày nay nền nông nghiệp có yểm trợ mạnh hơn yếu. Việt Nam đã có những nghiên cứu vai trò của cây che phủ trên đất dốc khắc phục một phần do hiện tượng xói mòn, độc canh cây ngô trên đất dốc gây ra ở các tỉnh miền núi phía bắc, Đối với vùng núi, trình độ sản xuất của đồng bào còn hạn chế nên sản xuất ngô nói riêng và các loại cây trồng khác nói chung đầu tư chăm bón thấp, chủ yếu dựa vào độ phì nhiêu của đất đai, canh tác lâu ngày dẫn tới đất đai bị thoái hoá, nhất là khu vực có độ dốc lớn. Do vậy biện pháp canh tác ngô nương có che phủ bằng xác hữu cơ sẽ hạn chế được tình trạng xói mòn đất. Vật liệu để che phủ bề mặt nương sản xuất ngô là các loại tàn dư cây trồng của vụ trước hoặc thân lá thực vật hoang dại, các loại cỏ sinh khối lớn như thân ngô, thân lạc, rơm... Đối với những nương rẫy mà đất còn tơi xốp, không cần cày bừa, chỉ nhổ sạch cỏ dại nhưng không đốt cỏ dại mà cùng với cây trồng vụ trước và các loại vật liệu thực vật mang đến để che phủ bổ sung cho kín mặt đất. Bề dày che phủ khoảng 10 - 15cm. Chờ khoảng nửa tháng để lớp phủ xẹp xuống, định vị tốt hơn, ẩm độ đất cao hơn sẽ tạo điều tốt hơn cho hạt nảy mầm và thoát ra khỏi lớp che phủ. Sau đó, tiến hành gieo thẳng hạt ngô 19 qua lớp phủ. Nếu đất bị nén chặt thì tiến hành cày bừa đất ở vụ đầu, sau đó che phủ đất và gieo hạt. Khi bón phân, vun gốc thì vun luôn vật liệu che phủ vào gốc ngô. Qua vài vụ canh tác có phủ thảm che bằng thực vật, đất trở nên tơi xốp, không cần cày bừa làm đất nữa. Trên các vùng đất có độ dốc tương đối lớn thì vật liệu che phủ dễ bị nước mưa cuốn trôi, vì vậy, nên trồng các hàng cây bụi lớn theo các đường đồng mức cách nhau 6 - 7 mét để giảm dòng chảy và giữ không để vật liệu che phủ bị trôi xuống dốc. Đất giữa các đường đồng mức cũng được che phủ bằng thảm thực vật. Nếu vật liệu che phủ là thân ngô vụ trước thì không nên chặt mà chỉ cần đạp đổ thân ngô rồi tiến hành gieo hạt. Có thể gieo ngay sau khi thu hoạch, không phải chờ đất khô và không cần cày bừa. Trong trường hợp cần gieo cho kịp thời vụ, nhất là ngô vụ đông thì có thể trồng gối vụ. Khi ngô đã đen râu, cần cắt lá và phần thân cây phía trên bắp để che phủ đất, sau đó gieo hạt vào giữa các hàng ngô cũ. Tiến hành thu hoạch ngô cũ vào thời điểm thích hợp và chăm sóc ngô mới như đã nêu trên. Mỗi hécta cần che phủ khoảng lượng xác thực vật trên dưới 6 tấn. Nên tận dụng tàn dư cây trồng của vụ trước, các loài cây họ đậu và các loài cây dại sẵn có tại địa phương. Biện pháp canh tác ngô nương có che phủ bằng xác hữu cơ không chỉ hạn chế được trôi rửa, thoái hóa đất mà còn cho năng suất cây trồng tương đối cao nhờ được tăng độ mùn và các chất dinh dưỡng cho đất từ thảm thực vật che phủ, đất được giữ độ ẩm tốt. Năng suất ngô có thể đạt từ 70 -75 tạ/ha, cao hơn không che phủ. Biện pháp canh tác này cũng phù hợp với trình độ sản xuất của đồng bào bởi ít đầu tư thâm canh mà nhờ vào sự phân hủy tự nhiên của thảm thực vật che phủ để tạo độ mùn và độ tơi xốp cho đất. Đây là một trong những phương pháp canh tác bền vững không chỉ áp dụng cho cây ngô mà còn cho nhiều loại cây trồng khác ở các vùng miền núi lẫn đồng bằng. Vai trò của cây phân xanh phủ đất (đối với nền nông nghiệp sinh thái bền vững trên đất dốc cây lương thực nói chung và cây ngô nói riêng thể hiện ở chỗ: tạo một lớp phủ nhanh chóng bảo vệ đất chống xói mòn và dòng chảy trên mặt, giữ dinh dưỡng khỏi trôi theo chiều sâu và kéo dinh dưỡng dưới sâu lên tầng canh tác, bổ sung vào chất lượng dinh dưỡng cây trồng đáng kể, đặc biệt là đạm (từ 200 - 300kgN/ha) và kali (300 - 500kg/ha), chống giữ chặt lân 20 và giải phóng lân dễ tiêu, nâng cao dung tích hấp thu và thành phần kim loại kiềm trong dung tích hấp thu và thành phần kim loại kiềm trong dung tích hấp thu, tạo cấu trúc đất, làm cho đất tơi xốp, tăng độ thấm, giữ nước, điều hòa tiểu khí hậu và môi trường đất xung quanh hệ rễ, cải thiện căn bản thành phần nông phẩm lương thực thực phẩm vùng đồi núi, tăng hợp thành protein trong bữa ăn con người và thức ăn gia súc, tăng thêm nguồn gỗ, củi đun và góp phần cải thiện môi trường. Về mặt này có thể nói nông nghiệp Việt Nam là một trong những nền nông nghiệp có truyền thống sử dụng và kiên trì theo hướng tận dụng nguồn đạm sinh học từ cây phân xanh, nhất là cây bộ đậu. Trong cơ cấu cây trồng trên đất dốc, đó là việc trồng cây họ đậu xen canh gối vụ với cây lương thực rất phổ biến ở nhiều vùng, như trồng ngô, sắn, lúa nương xen các loại đậu đỗ, vừa thu hạt vừa dùng tàn dư thân lá làm vật liệu phủ đất giữ ẩm và bón phân Cây cốt khí (Tephrosia Candida): Sinh trưởng khỏe trên mọi loại đất xấu nhờ bộ rễ khỏe, chịu hạn rất tốt, có thể sống nhiều năm, lượng lá rụng nhiều. Có nhược điểm là năm đầu mọc yếu, tỷ lệ hóa gỗ cao nếu không cắt chất xanh kịp thời, sâu hại quả nhiều nhưng cốt khí vẫn là cây có năng suất hạt cao. Với mục tiêu tìm kiếm một loại cây trồng có nhiều đặc tính tốt, trong nhiều năm qua Viện KHKT Nông Lâm nghiệp các tỉnh miền núi phía Bắc đã nhập nội, tuyển chọn, xây dựng thành các mô hình thâm canh ở nhiều vùng sinh thái khác nhau giống lạc dại LD99, một loại cây che phủ đất đa tác dụng. Theo Viện trưởng Lê Quốc Doanh[2] thì lạc dại (Arachis pintoi) là cây họ đậu thuộc loại thân bò, sinh trưởng vô hạn, hoa có màu vàng tươi, hạt nhỏ (8-12mm x 4-6mm), màu nâu nhạt, rễ có nhiều nốt sần có khả năng cố định đạm từ nitơ khí trời rất tốt. Lạc dại dễ trồng, sinh trưởng, phát triển nhanh, có thể thích ứng với nhiều loại đất từ đất xấu bạc màu, nghèo dinh dưỡng, đất đồi núi dốc đến đất cát, đất chua mặn ven biển. Lạc dại có khả năng chịu hạn tốt, chịu úng cao, có thể trồng được quanh năm, nhưng tốt nhất là mùa xuân và mùa thu với các tỉnh miền Bắc, mùa mưa với các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam. Lạc dại là cây đa tác dụng: có thể
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng