BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
NGUYỄN NGỌC QUANG
NGHIÊN CỨU ĐỘT BIẾN, MỨC ĐỘ BIỂU HIỆN GEN EGFR
VÀ TÌNH TRẠNG METHYL HÓA MỘT SỐ GEN LIÊN QUAN
TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƢ BIỂU MÔ TUYẾN Ở PHỔI
Chuyên ngành: Công nghệ Sinh học
Mã số: 942 02 01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC
Hà Nội – 2020
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học và Công nghệ,
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học 1:
PGS.TS. Chu Hoàng Hà, Viện Công nghệ sinh học
Người hướng dẫn khoa học 2:
TS. BS. Nguyễn Phi Hùng, Bệnh viện K
Phản biện 1: …
Phản biện 2: …
Phản biện 3: ….
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án tiến sĩ cấp
Học viện, họp tại Học viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam vào hồi … giờ ..’, ngày … tháng …
năm 201….
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học và Công nghệ
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính cấp thiết của luận án
Ung thư phổi là loại ung thư có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất trên
thế giới. Điều trị nhắm đích TKIs dựa trên đột biến EGFR được sử
dụng rộng rãi và mang lại hiệu quả rõ rệt. Xác định mức độ biểu hiện
protein EGFR góp phần quan trọng đưa ra tiên lượng, tiến triển bệnh
cho bệnh nhân. Mặt khác, biểu hiện của gen EGFR được điều khiển
bởi tình trạng methyl hóa vùng promoter. Cùng với EGFR, sự methyl
hóa các gen ức chế khối u như: BRCA1, MGMT, MLH1, RASSF1A
cũng được xem là nguyên nhân dẫn đến hình thành và phát triển của
ung thư phổi không tế bào nhỏ. Trên thế giới đã nhiều nghiên cứu về
đột biến EGFR trên bệnh nhân ung thư phổi. Tuy nhiên, không có
nhiều nghiên cứu tổng thể về những biến đổi phân tử của gen EGFR và
ảnh hưởng của hiện tượng methyl hóa các gen ức chế khối u lên những
biến đổi này. Với những lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên
cứu đột biến, mức độ biểu hiện gen EGFR và tình trạng methyl hóa
một số gen liên quan trên bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến ở phổi”.
Mục tiêu của luận án
1. Phân tích tỷ lệ đột biến và mức độ biểu hiện của gen EGFR ở
bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến của phổi.
2. Đánh giá được tình trạng methyl một số gen bao gồm: EGFR,
BRCA1, MGMT, MLH1, RASSF1A và sự tương quan về methyl hóa
giữa các gen này với đột biến và biểu hiện protein EGFR.
Nội dung nghiên cứu chính của luận án
1. Sàng lọc bệnh nhân, thiết lập hồ sơ bệnh án hoàn chỉnh. Thu
thập mẫu bệnh phẩm ung thư phổi và mẫu phổi lành tính.
1
2. Xác định tỷ lệ đột biến và biểu hiện gen EGFR. Đánh giá sự
ảnh hưởng của các đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu đến đột biến và
biểu hiện protein EGFR.
3. Xác định tình trạng methyl hóa vùng promoter các gen EGFR,
BRCA1, MGMT, MLH1 và RASSF1A và sự tương quan của hiện tượng
này với các đặc điểm bệnh nhân trong nghiên cứu.
4. Phân tích sự tương quan giữa đột biến gen, methyl hóa vùng
promoter và biểu hiện protein EGFR với sự methyl hóa các gen ức chế
khối u BRCA1, MGMT, MLH1 và RASSF1A.
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Ung thƣ phổi
1.1.1. Thực trạng ung thư phổi
Ung thư phổi (UTP) là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới. Việt
Nam nằm ở nhóm nước có tần suất mắc ung thư phổi cao thuộc hàng
thứ hai trên thế giới, với tỉ lệ mắc ở nam giới là 25,5 – 41,5/100 000
dân và ở nữ giới là 7,3 – 13,6/100 000 dân.
1.1.2. Phân loại ung thư phổi
Ung thư phổi được phân loại dựa trên kết quả xét nghiệm mô bệnh
học gồm: Ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) và ung thư phổi
tế bào nhỏ (UTPTBN). Trong đó ung thư biểu mô tuyến (UTBMT) là
dạng UTPKTBN phổ biến nhất.
1.1.3. Các giai đoạn ung thư phổi
Hiện nay, hệ thống phân loại giai đoạn ung thư phổi đang được sử
dụng phổ biến nhất là hệ thống TNM (Tumor – Node – Metastasis),
dựa trên kích thước khối u, số hạch lympho phát sinh và mức độ di
căn. Theo hệ thống phân loại này, tiến triển của UTP có thể chia thành
các giai đoạn từ 0 (STAGE 0) đến IV (STAGE IV).
2
1.2. Ung thƣ biểu mô tuyến của phổi
1.2.1. Đặc điểm ung thư biểu mô tuyến
Ung thư biểu mô tuyến chiếm khoảng 40% UTP, thường bắt đầu ở
tế bào tiết thông thường như tế bào tiết chất nhầy, phổ biến ở người
không hút thuốc, nữ giới và người trẻ tuổi.
1.2.2. Các phân típ mô bệnh học trong UTBMT
Khối u trong ung thư biểu mô tuyến thể hiện sự biệt hóa tuyến với
một hay nhiều dạng phát triển gồm một số dạng chính: Tổn thương
lepidic, chùm nang, nhú, vi nhú hoặc dạng đặc...
1.3. Biến đổi gen EGFR trong UTP
1.3.1. Cấu trúc và chức năng gen EGFR
EGFR nằm trong họ thụ thể yếu tố phát triển biểu bì (Epidermal
Growth Factor Receptor) với cấu trúc gồm 3 phần: Phần gắn phối tử
ngoài màng, phần protein xuyên màng và vùng hoạt hóa Tyrosine
Kinase. EGFR có vai trò quan trọng trong quá trình nhân lên,
apoptosis, di động, xâm nhập, sửa chữa và tương tác giữa các tế bào.
1.3.2. Đột biến gen EGFR trong UTP
Đến nay đã phát hiện được khoảng 40 đột biến của gen EGFR nằm
rải rác trên 4 exon từ 18 – 21 thuộc vùng kinase domain, có ý nghĩa
quan trọng trong đánh giá khả năng đáp ứng điều trị TKIs trong ung
thư biểu mô tuyến ở phổi.
1.3.3. Biểu hiện protein EGFR trong UTP
Methyl hóa có liên quan mật thiết đến sự biểu hiện của gen EGFR.
Nghiên cứu đặc điểm phân tử này tạo điều kiện cho sự phát triển các
dấu ấn sinh học hữu ích trong thử nghiệm lâm sàng.
3
1.4. Methyl hóa DNA trong UTP
1.4.1. Methyl hóa DNA
Methyl hóa DNA là hiện tượng gắn thêm gốc methyl (CH3) vào vị
trí 5’ C của nucleotide. Methyl hóa DNA có vai trò nhất định đối với
các tế bào ở trạng thái bình thường như in dấu gen, duy trì trạng thái dị
nhiễm sắc, duy trì trạng thái bất hoạt của 1 nhiễm sắc thể X ở con cái
động vật có vú và được chia thành 2 loại: Methyl hóa dưới mức và
methyl hóa quá mức.
1.4.2. Methyl hóa DNA trong UTP
Methyl hóa DNA được xem như một dấu ấn phân tử trong giai đoạn
sớm hình thành ung thư, hỗ trợ chẩn đoán, tiên lượng và định hướng
điều trị ung thư phổi. Trong đó, methyl hóa EGFR có liên quan trực
tiếp đến hiệu quả điều trị bằng các thuốc điều trị đích. Ngoài ra sự
methyl hóa các gen ức chế khối như: BRCA1, MGMG, MLH1,
RASSF1A… đã được chứng minh vai trò trong việc tiên lượng sự tiến
triển của bệnh nhân ung thư phổi.
1.5. Điều trị đích trong ung thƣ và UTP
1.5.1. Điều trị đích trong ung thư
Điều trị đích trong ung thư được chia thành 3 loại chính: 1) Kháng
thể đơn dòng, 2) Chất ức chế phân tử nhỏ và 3) Độc tố miễn dịch.
1.5.2. Điều trị đích trong UTP
Hiện nay, FDA đã chấp thuận các kháng thể đơn dòng EGFR bao
gồm Cetuximab và Panitumumab; các chất ức chế TKIs như Erlotinib,
Gefitinib, Osimertinib; các chất ức chế TKIs của ALK như Crizotinib,
Ceritinib trong điều trị UTP.
4
1.6. Phƣơng pháp phân tích biến đổi phân tử trong UTP
1.6.1. Phương pháp phân tích đột biến gen trong UTP
Đột biến gen trong UTP được phát hiện thông qua nhiều phương
pháp như: Giải trình tự gen, Realtime PCR, lai DNA tại chỗ, ….
1.6.2. Phương pháp phân tích methyl hóa DNA trong UTP
Hiện nay, ba phương pháp được sử dụng để phân tích methyl hóa
DNA: Kết tủa miễn dịch; sử dụng enzyme nhạy cảm methyl và dựa
trên DNA đã xử lý bisulfite.
1.7. Nghiên cứu các dấu ấn phân tử trong UTP ở Việt Nam
Nhằm định hướng điều trị đích bằng đã có một số nghiên cứu xác
định tỷ lệ đột biến gen EGFR trong UTPKTBN tại Việt Nam, Vu A.H.
và cs., Nguyễn Minh Hà và cs., Mai Trọng Khoa và cs. trên 332, 120
và 511 mẫu UTPKTBN nhận thấy tỷ lệ đột biến EGFR lần lượt là 40,7;
35,7 và 40,1%. Cũng như một số luận án tiến về đột biến gen EGFR
trong UTP. Tuy nhiên, chưa có công bố đánh giá đồng thời tương quan
các biến đổi phân tử EGFR bao gồm đột biến gen, methyl hóa DNA và
biểu hiện quá mức protein tương ứng cùng với thay đổi methyl hóa
trên các gen ức chế khối u phổ biến như MGMT, MLH1, BRCA1,
RASSF1A…trong UTP. Đây được xem là lĩnh vực nghiên cứu mới đối
với ung thư.
Chƣơng 2. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
2.1. Vật liệu
139 mẫu UTBMT của phổi, 5 mẫu phổi liền kề, mẫu máu người
khỏe mạnh được cung cấp bởi Bệnh viện K. Việc sử dụng các mẫu
bệnh phẩm được sự cho phép của Bệnh viện K.
Các hóa chất và bộ kit dùng trong nghiên cứu đều đạt tiêu chuẩn
dùng cho phân tích sinh hoc phân tử.
5
2.2. Thiết bị chính
Các thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu sinh học phân tử.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện tại PTN trọng điểm công nghệ gen, Viện
CHSH và Phòng Sinh học phân tử, Trung tâm GPB&SHPT, BV K. Đề
tài được thực hiện theo phương pháp mô tả cắt ngang, sử dụng những
kỹ thuật bao gồm: Tách chiết DNA tổng số, xác định nồng độ DNA;
xử lý bisulfite DNA tổng số; PCR; MS-PCR; điện di; xác định đột biến
EGFR; nhuộm hóa mô miễn dịch; xử lý kết quả bằng thống kê sinh
học.
Chƣơng 3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu.
Trong 139 bệnh nhân nghiên cứu, độ tuổi trung bình của nhóm
bệnh nhân là 57,4. Trong đó 94 là nam, 45 trường hợp là nữ giới. 79
bệnh nhân hút thuốc trong đó 76/79 trường hợp là nam. Bệnh nhân
trong nghiên cứu thuộc 3 phân típ mô bệnh học chủ yếu: Tuyến chùm
nang (56,8%), tuyến nhú (15,8%) và tuyến đặc (24,5%). 104 mẫu từ
khối u nguyên phát và 35 mẫu di căn. Hầu hết bệnh nhân ở giai đoạn
II&IV (127/139) và chỉ có 12 trường hợp ở giai đoạn I&II .
3.2. Đặc điểm phân tử EGFR ở bệnh nhân UTBMT ở phổi
3.2.1. Đột biến EGFR và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Đột biến EGFR phát hiện ở 35,3% (49/139) bệnh nhân, với 12 dạng
đột biến khác nhau. Đột biến mất đoạn ở exon 19 và đột biến L858R
(exon 21) chiếm 85,5%. Bên cạnh đó, 6 trường hợp phát hiện 2 đột
biến xảy ra đồng thời. Đột biến thay thế G719X thường xảy ra đồng
thời với những đột biến khác (4/5 trường hợp) như S768I, L861Q,
L858R và mất đoạn ở exon 19 Đột biến EGFR xảy ra với tần suất cao
hơn ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi, nữ giới và không hút thuốc lá. Đồng
6
thời, bệnh nhân thuộc phân típ đặc có tỷ lệ đột biến thấp hơn so với
những phân típ còn lại (Bảng 3.3).
3.2.3. Biểu hiện EGFR và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Biểu hiện protetin EGFR được đánh giá bằng phương pháp hóa mô
miễn dịch. Kết quả cho thấy 57 (41,0%) mẫu âm tính (IHC: 0, 1+) và
82 (59,0%) mẫu dương tính (IHC: 2+, 3+) với sự biểu hiện EGFR.
Không có sự tương quan giữa biểu hiện EGFR với đặc điểm bệnh nhân
bao gồm: Tuổi, giới tính, tình trạng hút thuốc, phân típ mô bệnh học,
tình trạng u và giai đoạn bệnh (p>0,05) (Bảng 3.6).
Bảng 3.3: Tương quan giữa đột biến EGFR với đặc điểm bệnh nhân
Đột biến EGFR
Số lƣợng
Tuổi (57,4 ±10,8)
≤57,4
˃ 57,4
Giới tính
Nam
Nữ
Hút thuốc
Có
Không
Phân típ mô học
Chùm nang
Nhú
Vi nhú
Đặc
Hỗn hợp
Khối u
Nguyên phát
Di căn
Giai đoạn
I & II
III & IV
Có
Không
139
49
90
67
72
30
19
37
53
94
45
23
26
71
19
79
60
20
29
59
31
79
22
3
34
1
32
7
2
7
1
47
15
1
27
0
104
35
36
13
68
22
12
127
6
43
6
84
p
0,023
<0,001
0,005
0,155
0,811
0,284
0,042
0,353
0,787
0,263
7
3.3. Tình trạng methyl hóa một số gen liên quan đến UTBMT của
phổi
3.3.1. Methyl hóa EGFR và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Phân tích 139 mẫu, kết quả cho thấy 23,7% (33/139) trường hợp có
EGFR methyl. Methyl hóa EGFR không có sự khác biệt có ý nghĩa với
các yếu tố: Tuổi, giới tính, tình trạng hút thuốc, phân típ mô bệnh học,
tình trạng u và giai đoạn bệnh (p>0,05) ở những bệnh nhân trong
nghiên cứu.
Bảng 3.6: Tương quan giữa biểu hiện EGFR với đặc điểm bệnh nhân
Biểu hiện EGFR
p
Số lƣợng
Tuổi (57,4 ±10,8)
≤57,4
>57,4
Giới tính
Nam
Nữ
Hút thuốc
Có
Không
Phân típ mô học
Chùm nang
Nhú
Vi nhú
Đặc
Hỗn hợp
Khối u
Nguyên phát
Di căn
Giai đoạn
I & II
III & IV
Âm
Dƣơng
139
57
82
67
72
29
28
38
44
94
45
35
22
59
23
79
60
31
26
48
34
79
22
3
34
1
27
9
2
18
1
52
13
1
16
0
104
35
39
18
64
18
12
127
4
32
8
95
0,599
0,191
0,627
0,060
0,992
0,361
0,104
0,229
0,203
0,572
8
3.3.2. Methyl hóa BRCA1 và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Phân tích trên 139 bệnh nhân, kết quả cho thấy 41 (29,5%) trường
hợp có methyl hóa BRCA1. Methyl BRCA1 xảy ra hoàn toàn ngẫu
nhiên với các đặc điểm: Tuổi, giới tính, tình trạng hút thuốc, phân típ
mô bệnh học, tình trạng u và giai đoạn bệnh (p>0,05).
Bảng 3.11: Tương quan giữa methyl RASSF1A với đặc điểm bệnh nhân
Số lƣợng
Tuổi (57,4 ±10,8)
≤57,4
>57,4
Giới tính
Nam
Nữ
Hút thuốc
Có
Không
Phân típ mô học
Chùm nang
Nhú
Vi nhú
Đặc
Hỗn hợp
Khối u
Nguyên phát
Di căn
Giai đoạn
I & II
III & IV
Methyl RASSF1A
M
U
41
139
p
98
67
72
20
21
47
51
0,93
94
45
29
12
65
33
0,613
79
60
29
12
50
48
0,032
79
22
3
34
1
22
7
1
11
0
57
15
2
23
1
0,625
0,795
0,883
0,674
0,521
104
35
26
15
78
20
0,045
12
127
4
37
8
90
0,760
3.3.3. Methyl hóa MGMT và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Tần suất methyl hóa MGMT trên 139 mẫu bệnh phẩm trong nghiên
cứu là 33,1%. Methyl MGMT có khác biệt có ý nghĩa với tình trạng
khối u, trong khi đó không có tương quan với các đặc điểm: Tuổi, giới
tính, hút thuốc, mô bệnh học và giai đoạn bệnh.
9
3.3.4. Methyl hóa MLH1 và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Kết quả cho thấy 28/139 (20,1%) bệnh phẩm có methyl hóa MLH1.
Methyl hóa MLH1 hoàn toàn ngẫu nhiên với các đặc điểm của bệnh
nhân (p>0,05).
3.3.5. Methyl RASSF1A và sự tương quan với đặc điểm bệnh nhân
Tỷ lệ bệnh nhân methyl RASSF1A trong nghiên cứu là 29,5%
(41/139). Methyl hóa RASSF1A có tương quan thuận với tình trạng
khối u và tiến sử hút thuốc của bệnh nhân; nhưng không có sự khác
biệt có ý nghĩa với độ tuổi, giới tính, phân típ mô bệnh học và giai
đoạn bệnh.
3.4. Tƣơng quan giữa đột biến và biểu hiện gen EGFR với methyl
hóa một số gen liên quan đến UTBMT của phổi
3.4.1. Tương quan giữa đột biến, biểu hiện và methyl hóa EGFR
Kết quả chỉ ra không có tương quan giữa đột biến với methyl hóa
và biểu hiện protein EGFR. Tuy nhiên, có mối liên hệ chặt chẽ giữa
methyl hóa và biểu hiện protein EGFR.
Bảng 3.12: Tương quan giữa đột biến gen, methyl hóa và biểu hiện
protein EGFR
Đột biến EGFR
Methyl EGFR
M
33
U
106
p
+
49
90
p
20
29
37
53
0,973
Biểu hiện EGFR
+
21
12
36
70
0,002
Đột biến EGFR
+
-
15
18
34
72
0,160
10
3.4.2. Tương quan giữa đột biến và biểu hiện gen EGFR với methyl
hóa các gen BRCA1, MGMT, MLH1 và RASSF1A
Kết quả cho thấy mối tương quan ngược giữa đột biến EGFR và
methyl hóa BRCA1, MGMT và RASSF1A; và giữa đột biến EGFR với
methyl hóa đồng thời của các gen ức chế khối u (Bảng .15).
Tương quan giữa biểu hiện EGFR và methyl hóa các gen MGMT,
MLH1 và RASSF1A là ngẫu nhiên, không có sự sai khác. Tuy nhiên, có
sự tương quan giữa mức độ biểu hiện protein EGFR và methyl BRCA1;
cụ thể methyl hóa BRCA1 có xu hướng ức chế biểu hiện EGFR.
Bảng 3.15: Tương quan giữa đột biến EGFR với methyl hóa các
gen BRCA1, MGMT, MLH1 và RASSF1A
ĐỘT BIẾN EGFR
METHYL
BRCA1
MGMT
MLH1
RASSF1A
1 trong 4
2 trong 4
3 trong 4
4 trong 4
Số lƣợng
Đột biến
Kiểu dại
139
49
90
M
41
9
32
U
98
40
58
M
46
11
35
U
93
38
55
M
28
8
20
U
111
41
70
M
41
7
34
U
98
42
56
M
90
26
64
U
49
23
26
M
41
6
35
U
98
43
55
M
17
1
16
U
122
48
74
M
5
0
5
U
134
49
85
11
Giá trị p
0,034
0,049
0,408
0,004
0,041
0,001
0,004
0,106
3.4.3. Tương quan về tình trạng methyl các gen liên quan đến UTP
Hiện tượng methyl hóa EGFR và các gen BRCA1, MGMT, MLH1
và RASSF1A ở những mẫu UTBMT của phổi trong nghiên cứu xảy ra
ngẫu nhiên, không có sự khác biệt.
Có tương quan thuận giữa methyl RASSF1A với methyl MLH1 và
BRCA1 (p<0,05). Methyl RASSF1A có xu hướng xảy ra đồng thời với
methyl hóa MLH1 và BRCA1. Tuy cùng có sự liên quan đối với methyl
RASSF1A, nhưng methyl MLH1 và BRCA1 lại xảy ra độc lập.
Bảng 3.17. Tương quan về tình trạng methyl các gen liên quan đến
ung thư biểu mô tuyển ở phổi
EGFR
BRCA1
MGMT
RASSF1
MLH1
MLH1
RASSF1A
MGMT
M
U
p
M
U
p
M
U
p
M
U
p
M
11
30
0,580
10
31
0,419
21
20
0,001
15
26
0,571
U
22
76
18
80
20
78
31
67
M
13
33
13
33
17
29
U
20
73
15
78
24
69
M
10
31
17
24
U
23
75
11
87
M
10
18
U
23
88
0,378
0,907
0,093
0,175
0,001
0,096
Chƣơng 4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm phân tử gen EGFR ở bệnh nhân UTBMT của phổi
4.1.1. Đột biến vùng hoạt hoá Tyrosine Kinase gen EGFR
Phân tích 139 bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy 35,3% trường hợp
đột biến EGFR, tương tự với công bố trước đây tại một số nước Châu
Á như Nhật Bản 32%, Hàn Quốc 36,4%; thấp hơn so với một số quốc
gia khác trong khu vực như Thái Lan 57,4%, Đài Loan 55% và cao
hơn các nước Châu Mỹ và Châu Âu (10 - 15%). Như vậy, đột biến
12
EGFR xảy ra với tần suất khá cao ở bệnh nhân ung thư phổi dạng
tuyến tại Bệnh viện K, thường gặp ở người trẻ tuổi, là phụ nữ và không
hút thuốc. Phân típ biểu mô tuyến đặc có tỷ lệ đột biến thấp hơn những
nhân típ khác (Bảng 3.3). Midha A. và cs. (2015) tổng hợp và phân tích
139 nghiên cứu về đột biến EGFR trên khắp thế giới cho thấy tuy có
khác nhau về tỷ lệ đột biến giữa các nhóm người, các vùng địa lý
nhưng tỷ lệ đột biến EGFR luôn cao hơn ở phụ nữ và những người
không hút thuốc lá.
4.1.2. Biểu hiện quá mức của protein EGFR
Đánh giá biểu hiện EGFR thu được 59,0% (82/139) mẫu dương
tính. Mức độ biểu hiện EGFR trong các nghiên cứu có độ tương đồng
khá lớn, như báo cáo của Cappuzzo F. và cs. (2005), Hirsch F.R. và cs.
(2008). Nghiên cứu 139 bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy biểu hiện
EGFR không thể hiện mối tương quan với một số đặc điểm của bệnh
nhân (Bảng 3.6); tương đồng với nghiên cứu của Cappuzzo F. và cs.
(2005) và Liang Z. (2010). Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chúng tôi
nhận thấy mức độ biểu hiện quá mức của EGFR (3+) ở bệnh nhân nam
giới cao hơn ở nữ giới. Mặc dù vậy, cơ chế của hiện tượng này vẫn
chưa được làm sáng tỏ. Thêm vào đó, ở những khối u di căn, mức độ
biểu hiện EGFR có xu hướng tăng mạnh so với tại những khối u
nguyên phát. Như vậy có thể giả thuyết mức độ ác tính cao hơn ở
những khối u di căn là kết quả của biểu hiện quá mức protein EGFR.
4.1.3. Methyl hóa vùng promoter gen EGFR
Tần suất methyl EGFR trong nghiên cứu là 23,7%, thấp hơn so với
nghiên cứu của Li J. và cs. (2015) (36,8%) và Pan Z.Y. và cs. (2015)
(35,7%). Chúng tôi không nhận thấy có sự tương quan giữa methyl
EGFR với các đặc điểm như: Tuổi, giới tính, trình trạng hút thuốc, các
phân típ mô bệnh học, giai đoạn bệnh và tình trạng khối u; hoàn toàn
13
tương đồng với các công bố trước đó. Tuy nhiên, Li J. và cs. (2015)
nhận thấy bệnh nhân ở giai đoạn III có tỷ lệ methyl EGFR thấp hơn so
với giai đoạn I và II.
4.1.4. Tương quan giữa các đặc điểm phân tử gen EGFR
Đột biến EGFR dẫn đến những biến đổi về trình tự axit amin cũng
như hoạt tính của protein qua đó ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng
và phát triển của tế bào. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện protein được
điều khiển bởi nhiều con đường trong tế bào trong đó có hiện tượng
methyl hóa vùng promoter của gen. Vì vậy, nghiên cứu mối tương
quan của ba hiện tượng đột biến, methyl hóa và biểu hiện protein sẽ
góp phần làm sáng tỏ cơ chế hình thành và phát triển của ung thư.
Những nghiên cứu về sự tương quan giữa đột biến gen và sự methyl
hóa cũng như biểu hiện EGFR cho những kết quả rất khác nhau. Phân
tích 139 bệnh nhân, chúng tôi nhận thấy không có tương quan giữa đột
biến với methyl hóa và biểu hiện protein EGFR. Tuy nhiên, có mối liên
hệ chặt chẽ giữa methyl EGFR và biểu hiện protein EGFR (Bảng
3.12). Cappuzzo F. và cs. (2005) không nhận thấy có mối tương quan
giữa sự biểu hiện EGFR với đột biến EGFR; ngược lại, Liang Z.
(2010) lại chỉ ra mức độ biểu hiện cao của EGFR ở những bệnh nhân
đột biến EGFR. Như vậy, tương quan giữa đột biến với methyl hóa và
biểu hiện của EGFR có thể không đồng nhất giữa những nhóm nghiên
cứu do sai khác về chủng tộc, lứa tuổi, giới tính và giai đoạn bệnh.
Mức độ biểu hiện protein có thể được sử dụng trong đánh giá đáp ứng
cũng như tiên tượng trong điều trị ung thư. Li và cs. (2013) chỉ ra sự
tăng mức độ biểu hiện của EGFR cũng như chết theo chương trình ở
những dòng tế bào có EGFR methyl hóa được nuôi cấy trong môi
trường có sử dụng chất loại bỏ nhóm methyl 5-aza-CdR và bổ sung
TKIs. Do đó, kiểm soát mức độ biểu hiện EGFR thông qua sự methyl
14
hóa kết hợp với các thuốc điều trị đích TKIs có thể là một hướng mới
trong nghiên cứu cũng như trong điều trị ung thư phổi.
4.2. Methyl hóa gen ức chế khối u BRCA1, MGMT, MLH1 và
RASSF1A ở bệnh nhân UTBMT của phổi
4.2.1. Methyl hóa quá mức vùng promoter gen BRCA1
Methyl BRCA1 được nghiên cứu chủ yếu trong ung thư vú và ít
được chú ý trong ung thư phổi. Methyl BRCA1 cao bất thường có thể
được xem là một con đường hình thành khối u bên cạnh đột biến
EGFR hoặc KRAS. Tỷ lệ methyl BRCA1 ở các nghiên cứu khác nhau
nằm trong khoảng 4 - 54%. Tần suất methyl BRCA1 trên 139 bệnh
nhân nghiên cứu là 29,5%; cao hơn bệnh nhân Hoa kỳ (4%) và thấp
hơn người Trung Quốc (30 - 54%). Điều này được lý giải do sự khác
biệt về chủng tộc và vùng địa lý. Ở những bệnh nhân Châu Á, sự
methyl hóa BRCA1 có xu hướng xảy ra phổ biến hơn so với những
bệnh nhân người phương tây.
Trong nghiên cứu này, không có sự tương quan giữa methyl BRCA1
với các đặc điểm của bệnh nhân. Các nghiên cứu trước đây, tuy không
nghiên cứu đầy đủ các đặc điểm nhưng phần lớn đều chỉ ra không có
sự liên hệ giữa các đặc điểm này với methyl hóa BRCA1. Gao W. và
cs. (2016) chỉ ra methyl BRCA1 có xu thế tăng cao hơn ở giai đoạn II
và III so với giai đoạn I; ở những bệnh nhân di căn hạch lympho so với
bệnh nhân không di căn hạch. Từ đó có thể giả thuyết methyl BRCA1
xảy ra song song với quá trình tiến triển của bệnh, bệnh càng tiến triển
mức độ methyl hóa càng cao. Trong nghiên cứu này, chúng tôi cũng
nhận thấy có tự tăng lên về tình trạng methyl hóa BRCA1 với giai đoạn
bệnh tuy nhiên sự sai khác mang tính ngẫu nhiên. Như vậy, methyl
BRCA1 có thể được xem là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự
15
hình thành, phát triển của ung thư biểu mô tuyến ở phổi và cần được
nghiên cứu một cách chi tiết.
4.2.2. Methyl hóa vùng promoter gen MGMT
Methyl hóa MGMT được tiến hành nghiên cứu trong nhiều ung thư
trong đó có ung thư phổi. Tỷ lệ methyl MGMT trong các nghiên cứu
khác nhau thay đổi từ 8 - 50%. Tần suất methyl hóa MGMT trên 139
bệnh nhân nghiên cứu là 33,1%; cao hơn báo cáo của Feng Q. và cs.
(2008) (8%) và Kim và cs. (2005) (17%); tương đồng với các công bố
ở bệnh nhân Trung Quốc (30 - 50%). Methyl hóa MGMT dẫn đễn ức
chế biểu hiện và mất chức năng sửa chữa DNA trong tế bào, tăng nguy
cơ hình thành đột biến. Kết quả phân tích mối tương quan cho thấy
methyl hóa MGMT không bị chi phối bởi các đặc điểm trong nhiên
cứu ngoại trừ đặc điểm khối u. Các báo cáo trên bệnh nhân Hàn Quốc
và Trung Quốc cũng cho kết quả tương tự. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi nhận thấy methyl hóa MGMT tăng lên ở những khối u di căn.
Tuy cơ chế thúc đẩy sự methyl hóa MGMT ở những tế bào di căn trong
ung thư phổi chưa được làm sáng tỏ nhưng có thể thấy methyl MGMT
có thể góp phần đẩy nhanh quá trình di căn của khối u, quá trình tiến
triển của bệnh, đồng thời sự methyl MGMT cũng có thể được xem là
một trong những dấu chuẩn hỗ trợ trong quá trình tiên lượng và điều trị
ung thư phổi.
4.2.3. Methyl hóa vùng promoter gen MLH1
Methyl hóa MLH1 trong ung thư phổi được nghiên cứu khá phổ
biến, tuy nhiên tỷ lệ methyl hóa rất khác nhau ở các nghiên cứu.Tỷ lệ
methyl MLH1 đã được công bố trước đây khoảng từ 0 - 58%. Tần suất
methyl MLH1 trên 139 bệnh nhân nghiên cứu là 20,1%; cao hơn báo
cáo của Tang M. và cs. (2006) trên người Tây Ban Nha (0%); thấp hơn
các công bố ở Châu Á (30 - 50%). Ngoài ra, Seng T.J. và cs. (2008) so
16
sánh tỷ lệ sống sót của bệnh nhân bị methyl hóa và không methyl
MLH1, cho thấy những bệnh nhân mang gen MLH1 methyl có tiên
lượng xấu và có thời gian sống sót thấp hơn nhóm không methyl. Như
vậy, methyl MLH1 là một trong những dấu chuẩn trong đánh giá tiên
tượng cho bệnh nhân ung thư phổi cùng với những dấu chuẩn khác.
Nhiều nghiên cứu methyl hóa MLH1 trên các nhóm bệnh nhân khác
nhau đã được thực hiện và cho thấy không có mối tương quan giữa
methyl MLH1 với các đặc điểm như: Tuổi, giới tính, tình trạng hút
thuốc lá. Các báo cáo thường không đi sâu vào các phân típ khác nhau
trong ung thư biểu mô tuyến mà chỉ tập trung phân tích trên bệnh nhân
ung thư biểu mô tuyến nói chung. Tuy nhiên, tình trạng methyl MLH1
ở các giai đoạn bệnh khác nhau lại cho thấy sự không tương đồng giữa
các nghiên cứu. Trong công bố của Seng T.J. và cs. (2008), tác giả
nhận thấy tỷ lệ methyl MLH1 ở bệnh nhân giai đoạn II cao hơn rất
nhiều so với ở giai đoạn I (40/86 so với 46/153). Ngược lại, Wang
Y.C. và cs. (2003) chỉ ra sự khác biệt về tình trạng methyl MLH1 ở
nhóm bệnh nhân giai đoạn muộn so với bệnh nhân giai đoạn sớm (giai
đoạn III và IV so với giai đoạn I và II) là hoàn toàn ngẫu nhiên. Nghiên
cứu này, chúng tôi cũng không nhận thấy sự khác nhau về tình trạng
methyl MLH1 ở các giai đoạn bệnh khác nhau (bệnh nhân trong nghiên
cứu chủ yếu ở giai đoạn muộn) cũng như ở vị trí khối u (nguyên phát
hay thứ phát).Với chức năng sửa chữa bắt cặp sai trong quá trình sao
chép DNA của MLH1, có thể đưa ra giả thuyết quá trình methyl MLH1
xảy ra chủ yếu trong giai đoạn xâm lấn của khối u khi chuyển từ giai
đoạn I sang giai đoạn II. Đây cũng là giai đoạn chức năng sửa chữa bắt
cặp sai của DNA của tế bào bị suy giảm và phát sinh thêm những đột
biến thứ phát trước khi bước vào giai đoạn di căn.
17
4.2.4. Methyl hóa vùng promoter gen RASSF1A
RASSF1A tham gia vào điều khiển nhiều quá trình quan trọng
trong tế bào trong đó có chu kỳ tế bào cũng như quá trình chết theo
chương trình. Methyl hóa RASSF1A có vai trò quyết định dẫn đến ức
chế biểu hiện protein này. Vì vậy, methyl RASSF1A đã được nghiên
cứu khá rộng rãi và trở thành dấu chuẩn trong chẩn đoán và điều trị
ung thư phổi. Tỷ lệ methyl RASSF1A trong các nghiên cứu khác nhau
từ 20 - 80%. Tần suất methyl RASSF1A trên 139 bệnh nhân nghiên cứu
là 29,5% (Bảng 2.17); cao hơn nghiên cứu của de Fraipont F. và cs.
(2012) (21,5%). Theo báo cáo của de Fraipont F. và cs. (2012) về thời
gian sống thêm và thời gian sống thêm không bệnh của hai nhóm bệnh
nhân sau khi điều trị bằng hóa chất. Kết quả chỉ ra thời gian sống thêm
không có bệnh cũng cũng như thời gian sống thêm toàn bộ của nhóm
mehthyl RASSF1A thấp hơn so với nhóm không methyl hóa (16,7 so
với 61,2 tháng và 32,9 so với 84 tháng). Như vậy có thể thấy việc xác
định tình trạng methyl RASSF1A được xem như một trong những yếu
tố tiên lượng cho bệnh nhân ung thư phổi.
Methyl RASSF1A có liên quan đến tiền sử hút thuốc của bệnh nhân,
mối tương quan giữa methyl RASSF1A và tiền sử hút thuốc cũng đã
được công bố trong một số nghiên cứu, chẳng hạn Yanagawa N. và cs.
(2011) hay Lee S.M. và cs. (2011). Vì vậy, hút thuốc lá có thể là
nguyên nhân gây nên sự methyl RASSF1A ở những bệnh nhân ung thư
phổi. Bên cạnh sự phát sinh đột biến EGFR, methyl RASSF1A có thể là
một cơ chế quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của ung
thư phổi. Trước đó, RASSF1A còn được chứng minh có khả năng ức
chế sự xâm lấn và di căn của những dòng tế bào ung thư phổi thông
qua ức chế protein YAP (Yes-associated protein). Trong nghiên cứu
của chúng tôi, tình trạng methyl hóa RASSF1A tại những khối u di căn
18
- Xem thêm -