Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh dịch tả lợn tại một số huyện ngoại thành hà...

Tài liệu Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh dịch tả lợn tại một số huyện ngoại thành hà nội

.PDF
79
154
141

Mô tả:

MỤC LỤC Lời cam đoan ii Lời cảm ơn iii Mục lục iv Danh mục chữ viết tăt vii Danh mục bảng viii Danh mục hình ix MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1.1 3 Lịch sử hình thành bệnh dịch tả lợn trên thế giới và trong nước 1.1.1 Trên thế giới 3 1.1.2 Ở Việt Nam 4 1.2 Bệnh dịch tả lợn 5 1.2.1 Virus dịch tả lợn 5 1.2.2 Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh DTL 10 1.2.3 Triệu chứng, bệnh tích bệnh DTL 17 1.2.4 Các phương pháp chẩn đoán bệnh DTL 20 1.2.5 Phòng chống bệnh DTL 21 CHƯƠNG 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 24 2.1 Đối tượng nghiên cứu 24 2.2 Nội dung nghiên cứu 24 2.2.1 Điều tra tình hình bệnh dịch tả lợn trên địa bàn các huyện Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ - Thành Phố Hà Nội 24 2.2.2 Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn bằng phản ứng ELISA 24 2.3 Nguyên liệu, địa điểm, thiết bị, máy móc nghiên cứu 25 2.4 Phương pháp nghiên cứu 25 2.4.1 Phương pháp nghiên cứu dịch tễ học 25 2.4.2 Phương pháp tính 25 iv 2.4.3 Mẫu xét nghiệm 27 2.4.4 Phương pháp xét nghiệm 27 CHƯƠNG 3KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 34 Một số đặc điểm tự nhiên, xã hội có liên quan đến bệnh dịch tả lợn tại Thành Phố Hà Nội. 34 3.1.1 Điều kiện tự nhiên 34 3.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội 35 3.2 Công tác tiêm phòng bệnh dịch tả lợn của huyện Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ - Thành Phố Hà Nội năm 2012 - 2014. 3.3 39 Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn tại một số huyện ngoại thành Thành phố Hà Nội 41 3.3.1 Xác định tỷ lệ mắc bệnh : 41 3.3.2 Xác định tỷ lệ chết và tỷ lệ tử vong 43 3.3.3 Xác định tỷ lệ mắc DTL so với các bệnh khác ở đàn lợn tại Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ từ năm 2012 - 2014 46 3.3.4 Tình hình bệnh DTL ở lợn các lứa tuổi năm 2012 - 2014 47 3.3.5 Tình hình bệnh DTL xảy ra ở các tháng trong năm từ 2012 -2014 49 3.3.6 Tình hình bệnh DTL ở các hình thức chăn nuôi khác nhau 51 3.3.7 Tình hình bệnh DTL ở các giống lợn nuôi tại Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ - Hà Nội năm2012 - 2014 3.3.8.Nguồn dịch 52 53 3.3.9 Một số nhân tố xã hội ảnh hưởng đến quá trình phát sinh và lây lan bệnh DTL tại các huyện ngoại thành Hà Nội. 3.3.10 Nghiên cứu về thể bệnh, triệu chứng, bệnh tích 3.4 54 55 Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn sau tiêm phòng vắc xin tại các huyện Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ - Hà Nội bằng phản ứng ELISA 59 3.4.1 Kết quả khảo sát kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh lợn xét theo cơ cấu đàn tại các huyện ngoại thành Hà Nội v 59 3.4.2 Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch kháng virus DTL sau tiêm phòng vắc xin ở các thời điểm 21, 90 và 180 ngày 3.5 61 Đề xuất một số biện pháp phòng chống bệnh dịch tả lợn tại các huyện ngoại thành Hà Nội. 62 3.5.1 Đối với nguồn bệnh 62 3.5.2 Đối với động vật cảm nhiễm 63 3.5.3 Đối với nhân tố trung gian truyền bệnh 63 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 63 Kết luận 64 Đề nghị 65 TÀI LIỆU THAM KHẢO 66 PHỤ LỤC 70 MỘT SỐ HÌNH ẢNH 70 vi DANH MỤC CHỮ VIẾT TĂT BVD Border disease virus. BVDV Bovine viral diarrhea virus. CS Cộng sự. DTL Dịch tả lợn. ELISA Enzyme linked immuno sorbent assay. OIE Office International des Epizooties. OD Optical Density H. Huyện. HSTD Hệ số tháng dịch. NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. TLC Tỷ lệ chết TLMB Tỷ lệ mắc bệnh. TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam. vii DANH MỤC BẢNG Số bảng 3.1 Tên bảng Trang Kết quả tiêm phòng các huyện Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ Thành Phố Hà Nội năm 2012 - 2014 3.2 Tình hình bệnh DTL ở Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ từ năm 2012 – 2014 3.3 42 Xác định tỷ lệ chết và tỷ lệ Tử vong do bệnh DTL gây ra ở Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ 3.4 44 So sánh tỷ lệ bệnh DTL với các bệnh khác ở đàn lợn trong các năm từ 2012 – 2014 3.5 40 46 Tình hình bệnh dịch tả lợn ở lợn các lứa tuổi tại Thanh Oai, Quốc Oai, Chương Mỹ - TP Hà Nội năm 2012 - 2014 48 3.6 Tình hình bệnh DTL xảy ra ở các tháng trong năm, từ 2012 -2014 50 3.7 Tình hình bệnh DTL ở các hình thức chăn nuôi khác nhau năm 2014 52 3.8 Tình hình dịch tả lợn ở các giống lợn các huyện ngoại thành năm 2014 52 3.9 Kết quả điều tra về thời gian mắc bệnh – chết ở một số ổ dịch 3.10 Xác định tỷ lệ biểu hiện các triệu chứng lâm sàng của bệnh DTL ở lợn 56 các lứa tuổi 57 3.11 Bệnh tích đặc trưng ở lợn các lứa tuổi qua mổ khám 58 3.12 Kết quả khảo sát kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh của lợn xét theo cơ cấu đàn tại các huyện Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ - Hà Nội. 3.13 59 Kết quả kiểm tra khả năng đáp ứng miễn dịch của lợn ở các thời điểm khác nhau sau khi tiêm phòng vắc xin viii 61 DANH MỤC HÌNH Số hình Tên hình Trang 3.1 Tỷ lệ tiêm phòng DTL các năm 2012 - 2014 3.2 So sánh tỷ lệ chết do bệnh DTL tại Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ từ năm 2012 - 2014 3.3 45 So sánh tỷ lệ bệnh DTL với các bệnh khác xảy ra ở đàn lợn năm 2014 tại 3 huyện ngoại thành Hà Nội 3.4 46 So sánh tỷ lệ mắc bệnh dịch tả ở lợn các lứa tuổi nuôi tại các huyện ngoại thành Hà Nội. 3.5 41 49 Tình hình bệnh dịch tả lợn xảy ra ở các tháng trong năm tại Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai thành phố Hà Nội 51 3.6 So sánh tỷ lệ mắc bệnh DTL ở các giống lợn 53 3.7 So sánh kết quả kháng thể kháng virus DTL trong huyết thanh của lợn xét theo cơ cấu đàn tại các huyện Quốc Oai, Thanh Oai, Chương Mỹ Hà Nội 60 ix MỞ ĐẦU Bệnh dịch tả lợn (Pestis suum) là bệnh đã và đang gây thiệt hại cho ngành chăn nuôi lợn ở nhiều nước trên thế giới và ở cả Việt Nam. Bệnh do một loại virus có tên là Hog cholerae gây ra, virus thuộc họ Flaviridae (Nguyễn Văn Ty., 1975). Bệnh dịch tả lợn (DTL) là bệnh truyền nhiễm của loài lợn, khi bệnh xảy ra sẽ giết chết nhiều lợn, tỷ lệ chết từ 60 - 90 %; số còn lại không chết thì còi cọc, chậm lớn, làm giảm năng xuất chăn nuôi và ảnh hưởng đến chất lượng thịt. Ở nước ta, hiện nay bệnh DTL được xếp vào một trong những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở lợn. Bệnh DTLlà một trong những bệnh mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định phải tiêm phòng bắt buộc, khi dịch xảy ra phải công bố dịch và nằm trong danh mục các bệnh nguy hiểm của động vật, các bệnh phải áp dụng các biện pháp phòng bệnh bắt buộc. Mặc dù rất quyết liệt trong công tác phòng, chống dịch nhưng bệnh DTL vẫn xảy ra ở nhiều địa phương trong nước. Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở các huyện ngoại thành Thành Phố Hà Nội phát triển rất mạnh, đặc biệt chăn nuôi với quy mô trang trại. Do vậy các loại dịch bệnh gia súc thường xuyên xảy ra, lây lan làm thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi của Thành phố, trong đó bệnh dịch tả lợn là một trong những bệnh gây thiệt hại nhiều nhất. Xuất phát từ tình hình dịch bệnh nói trên, việc nắm bắt được các được các đặc điểm dịch tễ học, biết được các quy luật của bệnh dịch tả lợn tại các huyện ngoại thành – Thành Phố Hà Nội; khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn sau tiêm phòng sẽ giúp địa phương đề ra các biện pháp phòng chống bệnh dịch tả lợn một cách hiệu quả hơn. Chính vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ của bệnh dịch tả lợn tại một số huyện ngoại thành Hà Nội ". 1 Mục tiêu nghiên cứu Xác định một số đặc điểm dịch tễ học bệnh dịch tả lợn tại một số huyện ngoại thành Hà Nội. Khảo sát khả năng đáp ứng miễn dịch của đàn lợn sau khi tiêm phòng vắc xin dịch tả. Đề xuất các biện pháp phòng chống dịch phù hợp với điều kiện một số huyện ngoại thành Hà Nội nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do dịch bệnh gây ra. 2 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Lịch sử hình thành bệnh dịch tả lợn trên thế giới và trong nước 1.1.1. Trên thế giới Bệnh dịch tả lợn là bệnh lây lan rất nhanh, tỷ lệ chết cao (có thể từ 60 90%). Bệnh thường ghép với phó thương hàn, tụ huyết trùng. Lợn mắc bệnh thường có triệu chứng bại huyết, xuất huyết ở nhiều cơ quan, bộ phận, hoại tử, loét niêm mạc đường tiêu hoá. Bệnh tiến triển ở nhiều thể khác nhau: Quá cấp, cấp tính, mạn tính và thể tiềm ẩn. Cho đến nay nguồn gốc của bệnh dịch tả lợn chưa được xác minh chính xác, hiện vẫn còn hai quan điểm song song tồn tại: Năm 1810 bệnh dịch tả lợn được Hanson (1957) mô tả đầu tiên ở Tenessce. Đến năm 1833, bệnh dịch tả lợn được thông báo đầu tiên ở Ohio (Bắc Mỹ), sau đó bệnh lan ra cả nước Mỹ nhất là vùng Cornbert, vì đây là vùng chăn nuôi lợn nhiều nhất). Theo Dahle và Liess (1992) dịch diễn ra ở Pháp năm 1862, ở Đức 1893. Theo Fuchs (1968), bệnh xuất hiện đầu tiên ở Anh vào năm 1862, sau đó lây lan sang các nước châu Âu khác là Đan Mạch, Thụy Điển vào năm 1887. Các nhà khoa học Mỹ cho rằng bệnh xuất phát từ châu Âu và lan sang khắp các nước trên thế giới, ở Nam Mỹ năm 1899, Nam Phi năm 1900. Hiện nay bệnh DTL vẫn tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, thiệt hại về kinh tế do dịch tả lợn gây ra vẫn rất lớn, năm 1997 các nước: Đức, Hà Lan, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ có hơn 10 triệu con lợn bị giết hủy (Rassow, 1997). ở Hà Lan tính đến 31/12/1997 có 424 ổ dịch trong một năm. Cộng hòa liên bang Đức từ tháng 11/1982 - 9/1984 có 1.457 ổ dịch xảy ra ở 248 đàn lợn giống, 777 đàn lợn thịt và 412 đàn hỗn hợp, với 395.000 lợn bị xử lý. Theo OIE (1998), năm 1984 ở Mêhyco có 179 ổ dịch, Malaysia có 5 ổ dịch, Hàn Quốc có 45 ổ dịch. Năm 1997 dịch tả lợn xuất hiện ở Italia, Tây Ban Nha và Bỉ đều có nguồn gốc từ Hà Lan (Mesplede et al., 1999). Về địa dư bệnh lý, bệnh dịch tả lợn có tính chất phân bố toàn cầu. Theo Edwards S, 1998, bệnh xảy ra ở tất cả các nước có chăn nuôi lợn. Riêng các 3 nước: Australia, Canada, Newzeland, Ireland, Thụy Sỹ và các nước thuộc bán đảo Scadinavia được coi là không có bệnh dịch tả lợn (Van Oirchot, 1992). Do tầm quan trọng của bệnh dịch tả lợn, khi xảy ra gây chết nhiều lợn và làm thiệt hại lớn về kinh tế nên nhiều nước đã xây dựng chương trình thanh toán bệnh này. ở Mỹ chương trình khống chế dịch tả lợn được thực hiện trong 14 năm (1962-1976), kinh phí cho chương trình này là 140 triệu đô la. EC cũng tài trợ cho các nước thành viên một chương trình thanh toán bệnh DTL dựa trên phương pháp giết loại gia súc ốm cùng với biện pháp vệ sinh thú y triệt để. Tuy vậy bệnh vẫn xảy ra và gây thiệt hại nhiều về kinh tế, như ở Hà Lan, chi phí cho chương trình khống chế DTL từ năm 1983 - 1985 lên tới 93 triệu USD. 1.1.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, bệnh DTL được phát hiện vào các năm 1923 - 1924 bởi Houdenner (Đào Trọng Đạt và cs., 1989) và đến nay bệnh DTL vẫn là một trong “4 bệnh đỏ” gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi lợn ở nước ta (Lê Minh Chí., 1993 - 1997). Năm 1960, bệnh DTL xảy ra ở các tỉnh Nghệ An, Phú Thọ do việc vận chuyển lợn bệnh từ tỉnh ngoài vào. Năm 1968 có tới 481 ổ dịch (Lê Độ., 1980). Năm 1973, bệnh DTL xảy ra ở 11 trại lợn xung quanh thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1974 dịch xảy ra ở 17 tỉnh phía Bắc, làm thiệt hại trên 4 vạn lợn, 15 tỉnh Nam bộ có dịch, gây chết 145.078 con lợn (Đào Trọng Đạt và Trần Thị Tố Liên., 1989); năm 1983 dịch xảy ra ở Hải Hưng. Trong những năm 1972-1973 dịch kéo dài ở Nghệ An, Hà Tĩnh do nhân dân mua lợn bệnh về trong dịp ăn tết cổ truyền làm lây lan dịch bệnh. Tại các tỉnh Trung bộ dịch xảy ra mạnh vào những năm 1976 - 1978; năm 1976 có 17 ổ dịch, 1977 có 36 ổ dịch, năm 1978 có 18 ổ dịch (Báo cáo dịch tễ tháng 11/1978 của Cục Thú y). Từ những năm 1980, do việc tiêm phòng đã triển khai đồng bộ nên các ổ dịch lớn không xảy ra, nhưng bệnh vẫn tồn tại và diễn biến ngày càng phức tạp, có nhiều thay đổi về triệu chứng lâm sàng, bệnh tích cũng như về độ tuổi mẫn cảm. Nghiên cứu về bệnh lý lâm sàng, Đào Trọng Đạt và Trần Tố Liên (1989) cho rằng, triệu chứng, bệnh tích của bệnh DTL ở lợn các lứa tuổi khác nhau và 4 những biến đổi phức tạp, bệnh diễn ra ở thể mạn tính, không điển hình do các chủng virus bị giảm độc lực thường xảy ra đối với lợn nái chưa tiêm phòng, lợn con theo mẹ và gây chết nhiều nhất là lợn con. Đào Trọng Đạt và Nguyễn Tiến Dũng (1984), Nguyễn Xuân Bình (1998) đều cho rằng bệnh DTL xảy ra ở lợn mọi lứa tuổi nhưng nhiều nhất vẫn là ở lợn con theo mẹ và lợn con mới cai sữa. Nghiên cứu Nguyễn Tiến Dũng và cs (1997) về khả năng thải virus cường độc ở lợn được tiêm vắc xin, cho thấy những lợn đã tiêm vắc xin DTL trước hoặc sau khi có khả năng miễn kháng chống sự xâm nhập của virus cường độc, phát bệnh hay không phát bệnh đều có hiện tượng thải virus cường độc sau khi bị nhiễm và gây bệnh qua tiếp xúc cho những lợn chưa có miễn dịch cùng nhốt chung. Đào Trọng Đạt và cs. (1988) nghiên cứu về miễn dịch thụ động và ảnh hưởng của nó đến phản ứng miễn dịch của lợn con chống virus DTL đã đi đến khuyến cáo nên tiêm phòng cho lợn con ở 40 - 50 ngày tuổi và lợn nái tiêm phòng trước khi phối giống. Theo Thông tư 04/2011/TT-BNNPTNT, 2011 có nêu: Bệnh DTL ở nước ta xảy ra quanh năm, tuy nhiên do thời tiết thay đổi (thể hiện rõ ở miền Bắc) và do biến động của đàn lợn trong năm nên bệnh có lúc tăng lúc giảm. Ngoài ra, bệnh dịch tả lợn còn phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ tiêm phòng, lợn lớn đã có miễn dịch bị giết mổ, lợn con thay đàn bổ sung vào chưa kịp tiêm phòng làm cho tỷ lệ lợn mẫn cảm trong đàn tăng lên. Việc tiêm phòng theo mùa vụ và tiêm phòng bổ sung thường xuyên góp phần ổn định và hạn chế dịch bệnh rất nhiều, nhưng trong sản xuất thực tế do nhiều lý do nên việc tiêm phòng chưa thực hiện đúng quy định, vì vậy dịch tả lợn vẫn xảy ra vào các tháng trong năm. 1.2. Bệnh dịch tả lợn 1.2.1. Virus dịch tả lợn 1.2.1.1. Phân loại Năm 1885 Salmon và Smith cho rằng bệnh gây ra bởi một loại vi khuẩn mà hai ông đặt tên là Bacillus cholerae suis (tức Salmonellasuis). Nhưng đến năm 1903, Schweinitz và Dorset đã xác định được tác nhân gây bệnh DTL là một 5 loại virus còn vi khuẩn Bacillus cholerae suis chỉ đóng vai phụ (Nguyễn Vĩnh Phước, 1978). Năm 1947 Holmes đặt tên cho virus gây bệnh DTL là Tortor suis. Từ đó việc xếp loại virus này có nhiều ý kiến khác nhau. Những nghiên cứu gần đây đã xác định virus gây bệnh DTL là thành viên của họ Togavirideae, giống Pestivirus cùng với virus gây bệnh tiêu chảy ở bò (Bovine Viral Diarrhea Virus BVDV) và virus gây bệnh Border ở cừu (Border Disease Virus). Nhưng khi nghiên cứu về cấu trúc phân tử của Pestivirus cho thấy bộ gen của chúng (genome) tương ứng với virus thuộc họ Flaviridae(Nguyễn Văn Ty, 1975), nên giống Pestivirus được xếp vào họ Flaviridae. 1.2.1.2. Hình thái cấu trúc của virus Virus DTL thuộc loại ARN virus, một sợi đơn, có vỏ bọc là lipoprotein. Quan sát dưới kính hiển vi điện tử, virus có dạng cấu trúc hình cầu với nucleocapside đối xứng hình khối bao bọc bởi lớp màng ngoài. Virion là đơn vị đặc hiệu của virus, có đường kính 40 - 50 nm (nanomet), đường kính của một khối nucleocapside là 29 nm, là lớp vỏ bao bọc sợi ARN của virus, có những gai lồi 6 - 8 nm tập trung trên bề mặt của virus. Bộ gene của virus là một chuỗi đơn ARN, có độ dài 12 KB (Moormann và Hulot., 1998). Virus có 2 glycoprotein E155 và E146 KD ở trên bề mặt và 1 nucleocapside protein 36 KD (Enzmann và Weiland., 1978). Hệ số sa lắng là 140s - 180s. Hạt virus gây nhiễm gồm 3 thành phần chính sau đây: Nhân (core): nhân là một sợi đơn ARN nằm ở giữa hạt virus, nên virus chủ yếu nhân lên trong bào tương của tế bào vật chủ. Theo Moening V, 1988, nhân vừa là yếu tố di truyền, vừa là yếu tố sinh sản của virus. Theo Moorrman R. J. M và M. M Hulot, 1998 bộ gene virus DTL là một chuỗi AND sợi đơn dài khoảng 12 kilobases (KB), có trình tự sắp xếp giống nhau giữa gene của virus DTL và virus gây tiêu chảy ở bò (Bovine Viral Diarrhea Virus - BVDV) và virus gây bệnh Border ở cừu (Border Disease Virus). Vỏ protein (Nuleocapside): theo Van Oirchot (1992), vỏ protein mang những thành phần bên ngoài có độ dày 29 nm, trên bề mặt có những gai lồi 6 - 8 nm là thành phần có tính chất bảo vệ virus. Theo P. J Enzmann và F. Weiland, 1978, lớp nucleocapside của virus bao gồm 2 glycoprotein có trọng lượng phân 6 tử là 55 KD (Kilodanton) và 46 KD cùng với một lớp 36 KD (Trần Đình Từ, 1990). Các protein này được đặt tên là Protein E1 (GP55), Protein E2 (GP46) và protein C (G36). Bằng phương pháp đánh dấu các phân tử, các tác giả đã nhận thấy E1 và E2 là những Glycoprotein nằm trên bề mặt của virus, E2 tạo nên các gai của virus. Protein E1 chứa đựng các kháng nguyên chính của virus DTL. Trong tế bào bị nhiễm, E1 luôn được liên kết với một lycopeptide khoảng 47 KD (Mesplede et al., 1999). Những nghiên cứu gần đây cho thấy lớp vỏ protein gồm 4 thành phần: GP55, GP48, GP44 và GP33 cùng một số các protein nhân 36KD, 23KD và 14KD (Taylor, 1995). Bằng kỹ thuật miễn dịch phóng xạ kết tủa, Stark R, F. T. Rumenap, G.Mayers, H. J. Thiel 1990 đã nhận thấy GP48 và GP44 có chung một trục Protein thông thường. Cả 3 dạng này đều nằm ở dạng nhị trùng có cầu nối Disulfide trong virus ở tế bào bị nhiễm. Theo Thiel H. J., R. Stark, F. T. Rumenap, G. Mayers- 1991, những sự tương tác đồng hóa trị phức tạp như vậy giữa những Glycoprotein cấu trúc đến nay chưa được mô tả ở bất kỳ một ARN virus nào. Thứ tự các Glycoprotein trên bộ gene của virus DTL được sắp xếp như sau: NH2 - GP44/GP48 - GP33 - GP55 - COOH. Màng ngoài (Envelop): theo Moenning.V, 1988 là một lớp lypoprotein. 2.2.1.3. Phân loại Năm 1939, Geiger đã kết luận rằng không có sự khác nhau cơ bản nào về tính kháng nguyên để sắp xếp các chủng virus DTL vào nhiều type virus khác nhau (Nguyễn Vĩnh Phước, 1970). Nhưng từ những năm 1950, một số tác giả đã phát hiện được hiện tượng biến chủng của virus DTL và cũng nhận thấy độc lực của virus biến chủng thường thấp hơn độc lực của virus ban đầu (Trần Đình Từ, 1990). Theo Van Oirchot (1998), các chủng virus DTL được phân chia làm 2 nhóm: Nhóm 1: gồm các chủng virus cường độc Alfort, chủng C, chủng Thiverval. Nhóm 2: gồm các chủng 331 và nhiều chủng khác phân lập được từ những lợn bị bệnh thể mãn tính. Như vậy, trong tự nhiên đã tồn tại những chủng virus có độc lực khác nhau. Những chủng có độc lực cao thường gây ra bệnh thể cấp tính và tỷ lệ chết 7 cao, các chủng có độc lực trung bình thường gây bệnh ở thể á cấp tính hoặc mãn tính. Các chủng có độc lực thấp thường gây tỷ lệ chết cao đối với bào thai và lợn sơ sinh. Virus DTL có quan hệ với virus gây bệnh ỉa chảy ở bò (Bovine viral diarrhea virus - BVDV) về mặt cấu trúc kháng nguyên. Virus BVDV lây nhiễm cho trâu, bò, gia súc nhai lại nhỏ và lợn. Các lây nhiễm bẩm sinh với virus BDV (Border disease virus) gây nên bệnh Border ở cừu, dê và virus phân lập được từ hai loại này thường được gọi là virus Border (Terpstra, 1991). Độc lực của virus Virus DTL phản ứng chéo với virus BVDV trong phản ứng miễn dịch khuếch tán và phản ứng miễn dịch huỳng quang, thậm chí virus DTL và BVDV ở một mức độ nhất định có thể hấp thụ kháng thể trung hòa của các loài virus pha tạp. Các thí nghiệm giải độc chéo cho thấy rằng các chủng virus DTL có dạng là một nhóm pha tạp. Trong khi đó các chủng virus BVD hình thành những nhóm đặc tính huyết thanh rõ ràng, khác hẳn với virus DTL. 1.2.1.4. Đặc tính nuôi cấy, phân lập Khi tiêm truyền qua cơ thể lợn, các chủng virus DTL vẫn giữ nguyên các đặc tính gây bệnh và miễn dịch (Moenning, 1988). Cũng theo Moenning (1988), sự thích nghi của virus đối với các loài động vật khác nhau thường thay đổi tính gây bệnh của virus đối với lợn. Trong các loài động vật thì chỉ có thỏ là được chú ý nhất, đặc biệt là để chế tạo ra những chủng virus vắc xin nhược độc. Ngoài những tế bào có nguồn gốc từ lợn, virus DTL có thể nhân lên trong những tế bào động vật khác. Dòng tế bào thận lợn PK - 15 và SK - 6 rất thích hợp cho việc nuôi cấy virus DTL. Các chủng virus DTL cường độc thường không gây bệnh tích tế bào (CPE) khi chúng nhân lên trong môi trường tế bào nuôi. Đối với những chủng được mô tả là có gây bệnh lý tế bào là do trong thực tế chúng đã bị tạp nhiễm bởi một loại virus khác. Terpstra C, 1991 cũng cho rằng tác động gây CPE chỉ xuất hiện khi có Adenovirus. 1.2.1.5. Sự nhân lên của virus Virus DTL nhân lên có giới hạn trong nguyên sinh chất của tế bào và 8 không gây bệnh tích tế bào. Thế hệ đầu tiên của virus được giải phóng ra khỏi tế bào khoảng 5 - 6 giờ sau khi gây nhiễm. Theo Saatkamp H.W, 1998, trong môi trường tế bào, virus lây lan qua tế bào bên cạnh và từ tế bào mẹ sang tế bào con qua cầu nối nguyên sinh chất, điều này dẫn đến không có khả năng phát hiện ra kháng nguyên virus trên bề mặt tế bào bị nhiễm. 1.2.1.6. Nguồn bệnh và phương thức lây lan của virus Bệnh DTL là một bệnh truyền nhiễm lây lan mạnh do virus gây ra chỉ ở loài lợn (bao gồm lợn nhà và lợn rừng) (Trần Đình Từ, 1990). Theo tác giả Đào Trọng Đạt và Trần Thị Tố Liên (1989), virus DTL tồn tại bất cứ ở đâu có chăn nuôi lợn. Cũng theo Đào Trọng Đạt và Trần Thị Tố Liên (1989) ở một vài vùng giống nguồn bệnh có ở chính ngay trong những lợn nái đã được tiêm phòng. Nhận xét này phù hợp với ý kiến của tác giả Theo Nguyễn Vĩnh Phước, 1970, Moenning V, 1988: Lợn là loài vật chủ duy nhất mang mầm bệnh và lây lan. Sự tiếp xúc giữa lợn bị bệnh và lợn mẫn cảm là phương thức lây truyền chính của virus DTL. Virus truyền từ đàn này sang đàn khác có thể qua nhiều đường khác nhau, trong đó sự du nhập của những con có bề ngoài khỏe mạnh nhưng đã nhiễm bệnh vào trong một đàn là phổ biến nhất. Bệnh có thể lan truyền từ các trại chăn nuôi, các phương tiện vận chuyển bị nhiễm virus,… virus có thể truyền đi rất xa theo thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt hoặc truyền bởi người chăn nuôi, nhân viên thú y, các dụng cụ, trang thiết bị thú y; virus dường như ít có dấu hiệu lây lan từ đàn nọ sang đàn kia bằng con đường không khí (Moenning ., 1988). Trong phòng thí nghiệm có thể truyền virus qua thỏ, chuột lang (Nguyễn Vĩnh Phước, 1970). Virus DTL có thể sống vài tháng đến vài năm trong thịt đông lạnh. Qua con đường thương mại, virus có trong các sản phẩm của lợn có thể du nhập vào các nước hoặc các vùng đang an toàn dịch. Lợn mẫn cảm có thể nhiễm khi ăn phải thức ăn có chứa các thành phần phụ phẩm của quá trình giết mổ hoặc thức ăn thừa chất thải từ nhà bếp không qua xử lý (Trần Đình Từ, 1990). 9 Virus DTL có thể lây lan ở lợn rừng và những đàn lợn rừng nhiễm bệnh là nguy cơ tiềm tàng đối với lợn nuôi thông qua phương thức lây nhiễm qua thức ăn hoặc qua tiếp xúc trực tiếp. Đặc biệt là phương thức lây nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp thường xảy ra ở những nơi chăn nuôi với hình thức thả rông hoặc bán thả rông. 1.2.1.7. Sức đề kháng của virus DTL Virus DTL có sức đề kháng yếu và tùy thuộc vào trạng thái vật lý của chất chứa virus. Trong dịch nuôi cấy tế bào, virus bị vô hoạt ở 600C trong 10 phút; ở máu đã khử fibrin lại không bị vô hoạt ở 680C trong vòng 30 phút. Virus có khả năng bền vững ở pH từ 5 - 10, trên và dưới giá trị pH này thì virus bị phá hủy nhanh chóng vì vỏ virus có chứa lipid nên các dung môi của mỡ như ether, chloform, deoxychlolate và nonided P40, saponin làm bất hoạt virus rất nhanh. Người ta thường dùng NaOH 2% để tiêu độc chuồng trại. Virus có thể sống trong phân gia súc trong vài ngày, sống lâu trong các sản phẩm là thịt. Thịt lợn đông lạnh và chính những sản phẩm này là nguồn gieo rắc mầm bệnh rất nguy hiểm. Không phát hiện ra virus trong thịt đã được chế biến và đóng hộp từ thịt của những lợn bị bệnh (Terpstra, 1991). Trong máu, ở nhiệt độ bình thường, virus có thể sống được 3 tháng. Máu trộn với axit phenic, virus mất độc lực trong 60 phút ở 580C, trong 7 ngày ở 370C. Nếu bảo quản máu ở âm 200C, virus tồn tại tới 9 tháng, ở âm 400C virus tồn tại trong 14 tháng; máu để khô trên phiến kính virus sống 5 - 6 ngày. Trong thịt xông khói, virus sống được 37 ngày, thịt để trong tủ lạnh virus tồn tại tới 33 ngày, trong thịt ướp đông 95 ngày. Trong thịt, nước tiểu, xác động vật chết thối, virus bị chết trong vòng 2 - 3 ngày. Trong phân, rác virus bị mất hoạt tính sau khoảng 24 giờ (Trần Đình Từ, 1990). 1.2.2. Một số đặc điểm dịch tễ học bệnh DTL 1.2.2.1. Động vật cảm nhiễm Trong tự nhiên, chỉ có loài lợn (cả lợn rừng và lợn nhà) mọi lứa tuổi đều mắc bệnh DTL (Nguyễn Vĩnh Phước, 1970). Những nghiên cứu gần đây cho thấy lợn con theo mẹ và lợn cai sữa bị nhiễm nhiều nhất theo Nguyễn Bá Hiên và Huỳnh Thị Mỹ Lệ (2013) ; Đào Trọng Đạt và cs. (1988); Đào Trọng Đạt và Trần Thị Tố liên (1989) đáng chú ý là lợn nái nhiễm những chủng virus có độc lực 10 thấp gây bệnh cho thai và sơ sinh (Đào Trọng Đạt và cs., 1957). Trong phòng thí nghiệm, khi tiêm truyền cho lợn mẫn cảm, bệnh phát ra với triệu chứng, bệnh tích giống như trong tự nhiên. Tiêm virus cho thỏ, chuột lang thì bệnh thường ở thể ẩn tính, có thể tái phân lập virus sau vài ngày. Tiêm truyền cho thỏ liên tục qua nhiều đời (khoảng 150 đời) sẽ tạo ra một chủng virus nhược độc, không độc với lợn nhưng vẫn giữ được đặc tính kháng nguyên, dùng để chế vắcxin nhược độc DTL (Nguyễn vĩnh Phước, 1970). Những lợn khỏe mạnh mang trùng có vai trò quan trọng trong dịch tễ học của bệnh DTL , đặc biệt là ở những vùng virus có độc lực thấp. Lợn ở những nơi này thường xuất hiện những thể bệnh không điển hình do những chủng virus có độc lực thấp gây ra. Đây chính là nguồn tàng trữ mầm bệnh rất nguy hiểm. Khi lợn nái mang thai bị nhiễm thường làm cho bào thai bị chết lưu, hoặc lợn con bị chết sau khi sinh hoặc lợn được sinh ra nhưng yếu ớt. Những lợn con này có thể bị chết sau khi sinh một thời gian ngắn. Virus có thể có thể gieo rắc cho những lứa đẻ sau. Những lợn con bị nhiễm bệnh bẩm sinh có thể mang virus suốt đời và gây ra sự truyền bệnh tiếp xúc, vì vậy gây khó khăn trong công tác phòng chống bệnh (Van Oirchot, 1998). 1.2.2.2. Chất chứa và độc lực của virus Trong cơ thể, virus hấp thu mạnh trên bạch cầu nên máu có độc lực sớm nhất; các chất bài xuất như nước dãi, nước mũi, nước mắt, nước tiểu, phân, các phủ tạng đều chứa virus; hạch lâm ba và lách chứa nhiều virus nhất (OIE, 1985). Các chủng virus có độc lực cao thường gây bệnh thể cấp tính, các chủng có độc lực thấp thường gây ra thể á cấp tính hoặc thể không điển hình (Mesplede et al., 1999). Các chủng virus có độc tính khác nhau thì có tốc độ lây lan bệnh khác nhau; những chủng virus cường độc lây lan nhanh hơn và gây ra tỷ lệ chết cao hơn so với chủng độc lực thấp (Terpstra, 1991). Những lợn bị nhiễm bệnh có thể thải virus trước khi phát bệnh và tiếp tục thải virus trong quá trình bệnh, sự thải virus chỉ dừng lại khi kháng thể được sinh ra. Vì vậy những lợn bị nhiễm virus có độc lực cao có thể thải virus với số lượng lớn trong thời gian 10 -20 ngày, những lợn bị bệnh thể mãn tính thải virus liên tục hoặc từng đợt cho đến khi chết. 11 1.2.2.3. Lứa tuổi mắc bệnh Các nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy bệnh DTL xảy ra ở lợn mọi lứa tuổi (Trần Đình Từ, 1990), nhưng tập trung nhiều nhất ở lợn con theo mẹ và lợn mới cai sữa. Theo Đào Trọng Đạt và Trần Thị Tố Liên (1989), do đàn lợn đã được tiêm phòng vắc xin nhiều năm nên tuổi mắc bệnh phụ thuộc vào sức đề kháng và tình trạng miễn dịch của đàn lợn. Điều này khác với tính chất lây lan mạnh và lợn ở mọi lứa tuổi bị bệnh, tỷ lệ chết tới 100% trong các ổ dịch của nhiều năm trước đây. Tuy nhiên ở các huyện miền núi thuộc các tỉnh Bắc Trung bộ, do công tác tiêm phòng không được thực hiện triệt để nên bệnh DTL vẫn xảy ra ở lợn mọi lứa tuổi (Báo cáo của Trung tâm thú y vùng III - 1998). Theo Nguyễn Xuân Bình (1998), mặc dù quy trình tiêm phòng đã khép kín nhưng bệnh DTL vẫn xảy ra với lợn con và lợn thịt giai đoạn 30 - 90 ngày tuổi với tỷ lệ 1- 1,5% tổng đàn. Như vậy, tỷ lệ mắc bệnh DTL tùy thuộc vào tỷ lệ tiêm phòng của đàn lợn và mức độ kháng thể trong cơ thể lợn đã được tiêm; phụ thuộc vào mức độ kháng thể của lợn mẹ truyền qua sữa đầu mà lợn con thu nhận được, ở những vùng có tỷ lệ tiêm phòng thấp hoặc không được tiêm phòng thì tỷ lệ chết cao và xảy ra ở mọi lứa tuổi. 1.2.2.4. Mùa vụ bị bệnh Theo Đào Trọng Đạt, Trần Thị Tố Liên, 1989, bệnh DTL phát ra quanh năm, nhưng do biến động của đàn lợn nên bệnh có lúc tăng, lúc giảm. Theo thống kê của Lê Độ (1980), ở các tỉnh miền Bắc có tới 80% số ổ dịch diễn ra trong thời gian từ tháng 11 năm trước đến tháng 2 năm sau, các tháng còn lại số ổ dịch chỉ chiếm khoảng 20%. Theo thống kê của Cục thú y, những năm gần đây dịch xảy ra hầu hết ở các tháng trong năm nhưng vẫn có sự chênh lệch đáng kể giữa các tháng của vụ Đông - Xuân và Hè - Thu. Ngoài ra, tình hình dịch bệnh cũng còn bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố như tỷ lệ tiêm phòng, số lợn lớn đã bị giết thịt, số lợn con ra đời chưa được tiêm phòng làm cho số lượng cá thể mẫn cảm với bệnh DTL trong khu vực tăng lên. 12 1.2.2.5. Sinh bệnh học Trong điều kiện tự nhiên, virus vào cơ thể lợn qua đường tiêu hóa, niêm mạc mắt, mũi, sinh dục, virus cũng có thể xâm nhập vào cơ thể lợn qua đường hô hấp hoặc các vết thương trên da; một số ý kiến còn cho rằng virus có thể đi qua nhau thai. Theo Nguyễn Lương (1997), mọi phương pháp tiêm truyền trong phòng thí nghiệm như tiêm dưới da, tiêm bắp, tiêm phúc mạc, cho ăn, hít thở đều có kết quả. Các trường hợp lây nhiễm bệnh tự nhiên với các chủng có độc lực cao được đặc trưng bởi các pha: nhiễm virus ở hạch, máu và nhiễm virus ở phủ tạng. Từ tế bào thượng bì trong các hạch lâm ba, hạch amidan, virus xâm nhập vào lớp mô lympho và từ đó virus được vận chuyển theo đường bạch huyết vào các hạch lympho vùng. ở đó chúng được nhân lên nhanh chóng; một số lượng lớn virus được tạo ra ở mô bào đích thứ hai là lách, hạch lâm ba nội tạng, tủy xương và đường tiêu hóa,… Vì thế nồng độ virus trong máu cao, và chúng lại xâm nhập vào các cơ quan khác như hệ hô hấp, hệ thần kinh trung ương. Tại cơ quan bị nhiễm virus có hiện tượng thực bào do các đại thực bào tiến hành. Sự nhân lên của virus trong bạch cầu và các tế bào hệ thống lưới nội bì dẫn đến giảm bạch cầu làm cho lợn dễ nhiễm khuẩn thứ phát. Theo Trần Đình Từ (1990), các chủng virus có độc lực cao thường lây nhiễm từ khi xâm nhập vào cơ thể, lan tỏa ra tất cả các cơ quan khác trong cơ thể từ 5 - 6 ngày. Các dạng xuất huyết trong bệnh DTL ở thể cấp tính là kết quả của sự thoái hóa tế bào nội bì và biểu bì thành mạch quản do bị virus phá hủy, gây giảm tiểu cầu và rối loạn tổng hợp sợi fibrin, hình thành các cục máu đông nhỏ làm tắc nghẽn tuần hoàn gây xuất huyết lấm tấm. Virus tác động gây mụn loét ở niêm mạc ruột già, những mụn loét này dầy lên, hình cúc áo do những sợi huyết đông đặc lại và tạo ra những hình tròn đồng tâm. Cách lây nhiễm đối với các chủng virus có độc lực trung bình cũng giống với những chủng có độc lực cao nhưng tiến triển chậm hơn. ở giai đoạn lâm sàng của bệnh, nồng độ virus trong huyết thanh thấp (hoặc không có), kháng nguyên virus thường giới hạn ở các biểu mô, hạch amidan, tuyến nước bọt, hồi tràng và thận. Sự xuất hiện của kháng thể đặc hiệu được đánh giá bằng sự biến mất của 13 virus DTL trong huyết thanh. Các chủng virus có độc lực thấp chủ yếu hạn chế ở các biến đổi ở hạch bạch huyết và tuần hoàn cục bộ. Lợn nái mang thai mắc bệnh có thể truyền virus cho bào thai ở tất cả các giai đoạn phát triển của thai. Virus thường lan truyền qua đường máu và phát triển ở một vài nơi dọc theo nhau thai và lan truyền từ bào thai này sang bào thai khác (Van Oirschot, 1998). ở các bào thai, virus cũng phân bố trong các cơ quan nội tạng và đường máu giống như lợn nhiễm bệnh với chủng có độc tính sau khi sinh. Hậu quả cuối cùng của cách lây nhiễm từ trong bào thai có thể rất khác nhau, tùy thuộc vào tuổi thai bị lây nhiễm và độc lực của chủng virus xâm nhập (Terpstra, 1991). Những bào thai bị nhiễm ở giai đoạn 45 ngày đầu sau khi thụ thai có khuynh hướng chết trước khi sinh hoặc phát sinh hiện tượng lây nhiễm dai dẳng và có đáp ứng miễn dịch cao hơn các bào thai bị nhiễm lúc 65 ngày hoặc muộn hơn. Những bào thai lây nhiễm bởi những chủng virus có độc tính trung bình, lúc 45 ngày cuối của thời kỳ mang thai thường biểu hiện triệu chứng bệnh khi sinh hoặc một thời gian ngắn sau khi sinh hoặc thải virus trong trường hợp lây nhiễm với những chủng virus có độc lực thấp (Van Oirschot, 1998). Sau khi virus xâm nhập, hệ thống nội bì của thành mạch quản có nhiều biến đổi. Các tế bào bị sưng to do thủy thũng, các mạch quản ngoại biên bị giãn rộng, một số bị tắc mạch dẫn đến các bệnh tích đặc trưng của bệnh DTL như xung huyết, xuất huyết, nhồi huyết và hoại tử, viêm não - màng não và thoái hóa các tế bào nội bì, nghẽn mạch, thâm nhiễm lymphocyte qua mạch thường thấy ở 70 - 90% các trường hợp lợn bị chết (Nguyễn Vĩnh Phước, 1970). 1.2.2.6. Thể bệnh Thể bệnh của bệnh DTL ngày nay có nhiều thay đổi, tùy thuộc vào lứa tuổi lợn, phương thức chăn nuôi, chủng virus, thời điểm nhiễm bệnh…,nhưng các thể bệnh chủ yếu thường gặp là: thể quá cấp, thể cấp tính, thể mãn tính và thể tiềm ẩn (không điển hình). * Thể quá cấp Lợn không có triệu chứng ban đầu, bệnh xuất hiện đột ngột, sốt cao kết hợp với trạng thái thương hàn. Lợn bệnh tử vong trong vòng 24 - 48 giờ, con vật chưa kịp xuất hiện triệu chứng ỉa chảy. Thể này còn gọi là thể bệnh DTL khô. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan