Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và năng suất quả trám trắng (c...

Tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và năng suất quả trám trắng (canarium album) trồng sau ghép tại huyện phú lương, đồng hỷ tỉnh thái nguyên

.PDF
67
1283
100

Mô tả:

1 PHẦN I MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Trám Trắng (Canarium album (Lour) Raeusch) là loài cây bản địa đa tác dụng. Cây thân gỗ sống lâu năm, có biên độ sinh thái rộng, là cây lá rộng thường xanh có tác dụng chống xói mòn bảo vệ đất, cải thiện khí hậu tốt. Là cây trồng làm giàu rừng, vườn rừng, nông lâm kết hợp và phục hồi rừng tự nhiên. Gỗ của Trám Trắng nhẹ, mềm mịn được sử dụng trong dán lạng, có thể dùng làm bột giấy và đóng đồ mộc thông thường. Nhựa dùng trong y học, công nghiệp thực phẩm, sơn, nước hoa, giấy và làm hương. Quả Trám Trắng là một trong những sản phẩm mà cây Trám đem lại cho giá trị kinh tế cao, quả có thể sử dụng làm thực phẩm, mứt, ô mai, hạt ép dầu, sử dụng ở trong nước và xuất khẩu. Ở Trung Quốc, hai tỉnh trồng nhiều Trám Trắng là Phúc Kiến và Quảng Đông, mặc dù đã áp dụng các biện pháp nhằm tăng sản lượng quả nhưng vẫn phải nhập khẩu quả Trám Trắng từ Việt Nam. Chính vì thế mà quả Trám Trắng được thị trường tiêu thụ dễ dàng nên được người dân miền núi quan tâm nhân rộng với mục đích chính là lấy quả loài cây này [12]. Nâng cao năng xuất của rừng trồng là một trong những mục tiêu cần đạt được trong sản xuất lâm nghiệp hiện nay. Để nâng cao năng suất rừng trồng một trong những khâu mang tính quyết định đó là áp dụng kỹ thuật chăm sóc bón phân cho rừng trồng. Nhờ có giống được cải thiện và áp dụng các biện pháp kỹ thuật như thâm canh mà năng suất các loài cây nông nghiệp trong những năm qua đã tăng gấp đôi so với những năm 1960. Trong sản xuất lâm nghiệp hiện nay, đã và đang áp dụng kỹ thuật chăm sóc bón phân cho rừng trồng, cây rừng có đời sống dài ngày, áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăm sóc bón phân cho rừng trồng nhằm nâng cao năng suất làm việc làm cần thiết. Trên thế giới, bón phân rừng trồng đã được áp dụng khoảng trên dưới năm mươi năm trở lại đây. Đó là biện pháp kỹ thuật thâm canh quan trọng nhằm làm ổn 2 định tăng năng suất rừng trồng. Thực tế cho thấy là bón phân cho rừng trồng đã mang lại những hiệu quả rõ rệt làm nâng cao tỷ lệ cây sống, tăng sức đề kháng của cây đối với các điều kiện bất lợi của môi trường, tăng sinh trưởng và nâng cao sản lượng chất lượng sản phẩm rừng trồng. Các nước phát triển có nền lâm nghiệp phát triển cao thì đều áp dụng bón phân cho rừng trồng và đạt được chỉ số sử dụng phân bón cao. Để tăng cường hiệu lực của phân bón, điều quan trọng là phải bón đúng phân, đúng đất, đúng cây trồng, đúng thời vụ, thời điểm sinh trưởng và đúng liều lượng cùng với kỹ thuật thao tác hợp lý [1]. Nói cách khác Quy trình kỹ thuật phân bón yêu cầu phải hợp lý cân đối và hiệu quả trên cơ sở: (i) Nhu cầu dinh dưỡng của từng loại cây trồng và trong từng thời kỳ sinh trưởng riêng biệt; (ii) Khả năng cung cấp các chất dinh dưỡng của đất trên các loại hiện trường cụ thể và (iii) Sự biến đổi của phân bón trong đất và hệ số sử dụng phân bón. Ở Việt Nam trong nhiều năm gần đây đã có nhiều những nỗ lực nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng và phân bón cho cây trồng rừng nhằm tạo cơ sở để đề xuất, áp dụng một quy trình kỹ thuật phân bón hiệu quả hợp lý cho thâm canh trồng rừng sản xuất. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng cây trồng rừng, về kỹ thuật áp dụng phân bón cho rừng trồng, kinh nghiệm sản xuất và tập quán sử dụng phân bón tại các địa phương, nhiều hướng dẫn kỹ thuật liên quan tới bón phân cho rừng trồng đã được xây dựng đề xuất ở nhiều quy mô phạm vi áp dụng khác nhau. Các hướng dẫn kỹ thuật này đã tạo cơ sở pháp lý và kỹ thuật cho việc áp dụng phân bón cho trồng rừng về chủng loại, liều lượng phân bón và phương pháp bón phân và đã mang lại những hiệu quả nhất định góp phần làm nâng cao chất lượng rừng trồng. Tuy nhiên, các hướng dẫn kỹ thuật này chưa có cho loài cây Trám Trắng trồng chuyên lấy quả trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Vì vậy tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến sinh trưởng và năng suất quả Trám Trắng (Canarium album) trồng sau ghép tại huyện Phú Lương, Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Xây dựng được bản hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc bón phân loài cây Trám trắng chuyên lấy quả. 3 PHẦN II TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở nghiên cứu Bón phân cân đối được hiểu là cung cấp cho cây trồng đúng các chất dinh dưỡng thiết yếu, đủ liều lượng, tỷ lệ thích hợp, thời gian bón hợp lý cho từng đối tượng cây trồng, đất, mùa vụ cụ thể, đảm bảo năng suất. Mười nguyên tắc đảm bảo cho sử dụng phân bón hợp lý [4]: Một là: Bón phân hợp lý cho cây là tìm mọi cách để phối hợp tốt với thiên nhiên để tạo ra sản phẩm có ích cho con người, chứ không phải là chinh phục, là áp đặt ý muốn của con người lên thiên nhiên. Nông sản là sản phẩm của quá trình chu chuyển vật chất trong thiên nhiên, cho nên con người muốn thu hút được nhiều nông sản thì cần nắm bắt được các quy luật chuyển hoá vật chất và tác động làm cho quá trình chu chuyển vật chất diễn ra với quy mô lớn, cường độ mạnh, tốc độ nhanh. Bón phân là để tác động lên quá trình chu chuyển vật chất trong tự nhiên. Việc cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng không hoàn toàn là để cây trực tiếp tạo ra nông sản mà là để phối hợp tốt với thiên nhiên tạo ra sản phẩm trong quá trình chu chuyển vật chất. Hai là: Đối với thiên nhiên mọi tác động chỉ cần vừa đủ, mọi thứ thừa hay thiếu đều gây hại cho mọi hoạt động bình thường của nó. Theo cảm tính, nhiều người cho rằng cái gì đã tốt thì càng nhiều càng tốt, cái gì đã xấu thì càng nhiều càng xấu. Bón phân quá nhiều hoặc với liều lượng cao đều gây tác hại cho cây, thậm chí làm cho cây chết. Nguyên tố đồng (Cu) là phân vi lượng đối với cây, nhưng phun với nồng độ cao (trên 1%) làm cho lá cây bị cháy. Trong việc bón phân cho cây, điều quan trọng là không những không để cây bị thiếu đói, mà phải không bón thừa bất cứ chất dinh dưỡng nào cho cây. Cần lưu ý là sức chịu đựng cũng như mức độ tiếp thu các tác động từ bên ngoài của các bộ phận trên cây rất khác nhau. Đối với một loại phân bón, có thể đối với bộ phận này là thừa nhưng đối với bộ phận khác lại là chưa đủ. Chính vì thế mà có những loại hoá chất chỉ có thể bón cho cây vào đất mà không thể phun lên lá được. 4 Điều đáng chú ý là cho đến nay, trồng trọt, do tâm lý sợ thiếu cho nên người nông dân đã làm nhiều việc quá thừa, trong khi đó nhiều việc cần làm lại không biết làm. Nếu có những hiểu biết đầy đủ hơn về cây trồng, hiểu được những nhu cầu của cây và con đường mà thiên nhiên thường đáp ứng nhu cầu cho nó, hiểu được các mối quan hệ giữa các loài sinh vật trong hệ sinh thái, con người có thể tiết kiệm được bao nhiêu việc làm thừa đồng thời chỉ cần tiến hành những việc làm thật hợp lý để đạt được những khối lượng nông sản lớn. Ba là: Thiên nhiên còn nhiều điều mà con người chưa biết hết, vì vậy không được chủ quan khi sử dụng phân bón. Khoa học ngày càng phát triển nhanh, thành tựu khoa học ngày càng nhiều nhưng con đường khám phá thiên nhiên đang còn dài và còn nhiều quanh co khúc khuỷu. Thái độ chủ quan, cho rằng chúng ta đã có những hiểu biết quá đủ là không phù hợp, là có thể dẫn đến những sai lầm. Điều đáng lo ngại là con người coi thường những gì chưa biết trong thiên nhiên và cho rằng những gì khoa học đã biết đủ cho con người hoạt động theo ý muốn của mình. Nhiều thất bại trong sản xuất có nguồn gốc từ sự ngộ nhận này. Để có thể bón phân hợp lý, cần thường xuyên quan sát và đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn sản xuất. Kinh nghiệm tích lũy được qua nhiều năm kết hợp với những hiểu biết khoa học, những kết quả của nghiên cứu khảo nghiệm giúp chúng ta ngày càng nâng cao mức độ hợp lý của việc bón phân. Bốn là: Trong thiên nhiên sống, các loài sinh vật tồn tại và phát triển trong các mối liên hệ chặt chẽ với nhau và với thế giới không phải sinh vật. Các kết quả nghiên cứu khoa học được tiến hành trong các phòng thí nghiệm, trong các chậu vại, trong các ô thí nghiệm thường rất xa so với điều kiện môi trường sống của cây trên đồng ruộng. Nhiều trường hợp, muốn có được kết quả như đã thu được trong phòng thí nghiệm người ta phải đầu tư rất tốn kém để tạo được môi trường và điều kiện tương tự như trong phòng thí nghiệm. Khi không có được những điều kiện này, các kết quả khoa học thường phát huy tác dụng rất kém, thậm chí còn làm nảy sinh nhiều vấn đề và người nông dân lại phải lao theo để giải quyết. Như thế, phải làm thừa ra bao nhiêu việc mà đáng lẽ không phải làm. 5 Thực tế cho thấy: những phương pháp bón phân nào mà không chú ý đến các loài sinh vật khác trên đồng ruộng, không chú ý đến các mối quan hệ chằng chịt giữa chúng với nhau, thì đó chỉ là những việc làm vô nghĩa và có khi có hại. Năm là: Khoa học phân bón giúp ta bón phân hợp lý, tuy vậy nếu quá chuyên biệt trong lĩnh vực này sẽ làm cho kiến thức hiểu biết của ta về thiên nhiên trở nên manh mún và có nguy cơ dẫn đến thất bại. Các ngành khoa học ngày càng chuyên hoá để đi sâu tìm hiểu kỹ đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, đã có nhiều cố gắng để liên kết các ngành khoa học, nói đến những khoa học liên ngành. Tuy nhiên, việc bón phân hợp lý để tạo ra năng suất cây trồng cao, bảo vệ tốt môi trường không chỉ đơn thuần là sự liên kết, sự giao thoa, sự liên ngành của một số lĩnh vực khoa học khác nhau, mà là sự tìm tòi nghiên cứu trong một lĩnh vực khoa học mà đối tượng của nó là sự sống, là quá trình tạo thành năng suất kinh tế. Đây là một loại đối tượng tổng hợp mà càng chia nhỏ ra càng chuyên biệt hoá, càng đi xa khỏi bản chất của đối tượng nghiên cứu. Sáu là: Trong các hệ sinh thái, mỗi tác động từ bên ngoài đưa vào hệ sinh thái, thường tạo ra những phản ứng dây chuyền, lan rộng ra trong không gian theo các mạng lưới dinh dưỡng, năng lượng, thông tin, v.v... và kéo dài theo thời gian, cho đến khi toàn bộ hệ sinh thái thiết lập được trạng thái cân bằng mới. Mỗi hiện tượng xảy ra trong hệ sinh thái đều là kết quả của nhiều nguyên nhân, mặt khác một nguyên nhân có thể dẫn tới những kết quả khác nhau. Từ một hiện tượng là năng suất cây trồng có thể có một chuỗi các nguyên nhân và kết quả với 7 bậc nhân - quả khác nhau. Trong thực tế, một hiện tượng xảy ra có thể có nhiều nguyên nhân. Những nguyên nhân này lại có những nguyên nhân khác đi trước trong một mạng lưới các sự kiện và yếu tố đan chéo nhau toả ra đến vô tận. Bón phân cũng như những biện pháp kỹ thuật canh tác khác nhau, thường không chỉ gây ra một tác động trực tiếp dẫn đến một kết quả nào đó mà thường có nhiều tác động lên các thành tố trong hệ sinh thái và có thể dẫn đến những kết quả khác nhau, trong đó có thể có những kết quả mà con người không ngờ tới. Do đặc điểm của quá trình phản ứng dây chuyền và quá trình tiếp nhận các tác động từ bên ngoài vào các hệ sinh thái mà có thể có những tác động rất mạnh nhưng 6 không gây ra hiệu quả gì đáng kể, trong khi đó, có những tác động nhẹ nhàng, nhưng được nhân lên trong phản ứng dây chuyền và tạo nên những hiệu quả rất lớn. Bón phân hợp lý có thể không cần sử dụng những lượng phân bón mà có thể đạt được hiệu quả rất cao. Bảy là: Đối với thiên nhiên không có cái gì là tốt, cũng không có cái gì là xấu.Con người phân biệt ra trong thiên nhiên có cái tốt, cái xấu. Tốt xấu ở đây được đánh giá trên cơ sở lợi ích của con người. Từ việc phân chia các sự vật và hiện tượng thành 2 nhóm tốt và xấu, con người thường cố công để loại trừ, tiêu diệt những cái xấu và nhân lên, tăng thêm những cái tốt, với hy vọng là thu được lợi ích lớn. Đối với thiên nhiên, mọi thứ đều có vị trí của nó và cần thiết cho sự hài hoà và phát triển. Bằng các tác động đưa thêm các cái "tốt" và loại bỏ các cái "xấu" con người đã phá vỡ cân bằng trong các hệ sinh thái. Và như vậy, các tác động của con người đã thúc đẩy hoạt động của cơ chế điều tiết của hệ sinh thái để thiết lập trạng thái cân bằng. Với hoạt động của cơ chế này, những tác động của con người bị trung hoà và bị triệt tiêu. Hy vọng thu được lợi ích lớn không những không đạt được, mà những đảo lộn trong hệ sinh thái có thể dẫn đến nhiều hiệu quả tiêu cực. Bón phân, con người nghĩ rằng đó là đưa điều tốt đến cho cây, vì vậy càng nhiều càng tốt. Thế nhưng hiệu quả của việc bón phân chỉ có thể thu được khi bón hợp lý, có nghĩa là phù hợp với hoạt động bình thường của hệ sinh thái nông nghiệp. Bón phân không hợp lý sẽ gặp phải phản ứng chống lại của hệ sinh thái đồng ruộng và chỉ có thể dẫn đến những hậu quả xấu. Tám là:Trong nông nghiệp, không thể cải thiện thể hữu cơ thống nhất chỉ bằng cách thay thế từng bộ phận của thể đó. Cây trồng, hệ sinh thái nông nghiệp là những hệ thống thống nhất và hoàn chỉnh. Trong hệ thống đó mỗi bộ phận đều có vị trí và chức năng của mình. Mỗi bộ phận trong hệ thống được quy định không những chỉ phụ thuộc vào các yếu tố bên trong bộ phận đó, mà còn phụ thuộc vào các bộ phận kế cận, các bộ phận xung quanh và vào toàn bộ hệ thống. Bón phân cho cây trồng chúng ta muốn tăng chất dinh dưỡng cho cây để tạo ra nhiều sản phẩm. Tuy nhiên cây trồng là một bộ phận của hệ sinh thái đồng ruộng. Chúng ta không thể cải thiện một bộ phận của hệ sinh thái là cây trồng mà không tính 7 gì đến các bộ phận khác của hệ sinh thái đó. Nhiều trường hợp bón phân không mang lại kết quả là do chúng ta gặp phải những phản ứng điều tiết của hệ sinh thái. Bón phân hợp lý là có tính toán đầy đủ đến các yếu tố trong hệ sinh thái, tạo sự hài hoà trong toàn bộ hệ sinh thái đồng ruộng đồng thời thúc đẩy các hoạt động của toàn bộ hệ sinh thái hướng tới việc tạo ra năng suất cao. Chín là: Nền nông nghiệp tiến bộ phải là nền nông nghiệp nuôi dưỡng được con người cả thể xác lẫn tinh thần. Bón phân là để làm tăng năng suất cây trồng. Năng suất đó phải đáp ứng được nhu cầu của con người. Vì vậy, nếu phân bón còn để lại dư lượng trong nông sản, nếu trong nông sản có nhiều NO3, nhiều kim loại nặng thì nông sản không đáp ứng được nhu cầu của con người. Phân bón có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nông sản. Đối với các sản phẩm cây công nghiệp, cây dược liệu, cây hương liệu, cây tinh dầu v.v... bón phân không hợp lý có thể làm giảm phẩm chất nông sản rất đáng kể [2]. Phân bón có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cất giữ, bảo quản và chuyên chở nông sản. Sản phẩm rau quả chứa nhiều đạm, nhiều nước rất chóng bị hỏng. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu của con người về vật chất, nông nghiệp còn đáp ứng nhu cầu của con người được lao động, được tiếp xúc với thiên nhiên, được khám phá những điều bí ẩn của tự nhiên. Bón phân không hợp lý thường để lại trong môi trường đất, nước, không khí những dư lượng phân bón có ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ, đến tâm trạng con người [6]. Càng ngày việc thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần của con người càng tăng lên. Vai trò của nông nghiệp trong việc đảm bảo ổn định cuộc sống, ổn định xã hội cũng ngày một được nâng cao. Bón phân hợp lý không những phát huy đến mức cao hiệu quả của phân bón mà còn đảm bảo cho môi trường trong lành và thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng tiến bộ. Mười là: Cần có cách nhìn toàn diện, đừng để bị hoàn cảnh lung lạc. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, khi tiếp xúc với bất kỳ loại cây trồng nào cũng không thể tách rời chúng ra khỏi điều kiện sống của nó mà phải có cách nhìn 8 toàn diện và đặt đúng vị trí của nó trong hệ sinh thái đồng ruộng. Thông thường người làm nông nghiệp chỉ biết có cây trồng mà quên mất cây trồng tồn tại và phát triển trong hệ sinh thái. Kết quả của sản xuất nông nghiệp thường chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện cụ thể từng địa phương cũng như điều kiện khí hậu thời tiết của từng năm. Người nông dân thường lấy kinh nghiệm sản xuất của năm nay để áp dụng cho năm sắp tới. Như vậy, việc tiến hành sản xuất nông nghiệp của nông dân thường chịu ảnh hưởng của cái nhìn hẹp và ngắn. Muốn đạt được kết quả tốt, người nông dân cần có cái nhìn toàn diện đồng thời cần biết cách thoát ra khỏi hoàn cảnh cụ thể của một năm sản xuất, không để cho hoàn cảnh lung lạc mình và phải có cách nhìn vượt lên trên không gian và thời gian, cố gắng đi vào bản chất của các hiện tượng. Cách nhìn này không phải là không dựa trên cơ sở thực tế mà là cách nhìn xuyên sâu vào bản chất của thực tế, làm cho thực tế hiện rõ lên, không bị những nhiễu loạn nhất thời làm che mất bản chất. Bón phân hợp lý là tìm ra những kết luận từ việc phân tích toàn diện hệ sinh thái nông nghiệp, phân tích thực chất các hiện tượng đã diễn ra, dự báo những hiện tượng và trạng thái có thể xuất hiện trong vụ tới để đề ra giải pháp bón phân mang lại hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội cũng như môi trường. 2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam 2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Có thể ví phân bón là “thức ăn” của cây trồng. Việc bón phân thích hợp sẽ góp phần tăng năng suất cây trồng, chất lượng sản phẩm và hiệu suất kinh tế; ít hoặc không tác động xấu đến kết cấu đất canh tác và môi trường. Việc sử dụng các loại phân bón nitơ tổng hợp đã tăng ổn định trong 30 năm qua, tăng gấp 20 lần lên mức tiêu thụ hiện tại 1 tỷ tấn nitơ mỗi năm. Việc sử dụng các loại phân bón photphat cũng đã tăng từ 9 triệu tấn mỗi năm (năm 1960) lên 40 triệu tấn mỗi năm [8]. Các số liệu khảo sát cho thấy, bình quân các nước châu Á sử dụng phân khoáng nhiều hơn bình quân thế giới. Tuy nhiên, Ấn Độ (nước có khí hậu nóng) lại dùng phân khoáng ít hơn bình quân toàn châu Á. Trong lúc đó Trung Quốc và Nhật lại sử dụng 9 phân khoáng nhiều hơn bình quân toàn châu Á. Hà Lan là nước sử dụng phân khoáng nhiều nhất. Tuy nhiên lượng phân chủ yếu bón nhiều cho đồng cỏ, rau và hoa để thu sản lượng chất xanh cao. - Thái Lan: bình quân 95,83 (triệu tấn/năm) - Philippin: bình quân 65,62 (triệu tấn/năm) - Indonesia: bình quân 63,0 (triệu tấn/năm) - Myanma: bình quân 14,93 (triệu tấn/năm) - Lào: bình quân 4,50 (triệu tấn/năm) - Campuchia: bình quân 1,49 (triệu tấn/năm) Theo số liệu ghi nhận được ở trên cho thấy Campuchia, Lào và Myanma sử dụng phân khoáng ít nhất, đặc biệt là Campuchia [5]. 2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước Sự hiểu biết hiện đại về dinh dưỡng của cây trồng bắt đầu từ thế kỷ 19 và việc quản lý độ phì nhiêu của đất đai đã là một vấn đề được các nông dân quan tâm từ hàng nghìn năm nay. Việt Nam được coi là nước sử dụng nhiều phân khoáng trong số các nước ở Đông Nam Á, số liệu tham khảo năm 1999 bình quân 241,82 kg NPK/ha. Tính nhu cầu phân bón cho cây trồng là dựa trên cơ sở đặc điểm của đất đai, đặc điểm của cây trồng để tính số lượng phân cần cung cấp làm cho cây trồng có thể đạt được năng suất tối ưu (năng suất cao nhưng hiệu quả kinh tế cũng cao). Cho đến năm 2010, ước tính tổng diện tích gieo trồng ở nước ta vào khoảng 12.285.500 ha, trong đó cây có thời gian sinh trưởng hàng năm là 9.855.500 ha và cây lâu năm khoảng 2.431.000 ha [5]. Để thoả mãn nhu cầu phân bón cho các loại cây trồng trên các diện tích này, ta cần có 2.100.000 tấn phân Urê, 300.000 tấn phân DAP, 3.000.000 tấn phân NPK các loại, 1.400.000 tấn phân lân dạng super và nung chảy và 400.000 tấn phân Kali [1]. Tại Hội thảo "Giải pháp tăng hiệu suất sử dụng phân bón, giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức, ông Nguyễn Trí Ngọc - Cục trưởng Trồng trọt cho biết: Trong bảy tháng đầu năm (2009-2010), xuất khẩu nông sản đạt 7 tỷ USD, tuy nhiên, Việt Nam phải nhập tới 1,3 tỷ USD phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, trong khi các nước phát triển, việc sử dụng phân bón có chiều hướng đi xuống thì tại các nước đang phát triển lại chiều hướng tăng mạnh, 10 trong đó có Việt Nam. So với các nước sử dụng nhiều phân bón trên thế giới, Việt Nam mới sử dụng phân bón ở mức 2%. Tuy nhiên mức này lại chiếm một nguồn đầu vào khá lớn đối với sản xuất nông nghiệp. "Mỗi năm Việt Nam sử dụng khoảng trên 2 triệu tấn phân urê, khoảng 600 nghìn tấn DAP và một lượng gần tương đương như vậy với các loại phân bón khác. Tổng lượng phân bón các loại sử dụng ở Việt Nam xấp xỉ 7,7 triệu tấn. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc sử dụng phân bón chỉ được trên 40% hiệu suất. Ở một số vùng thấp còn hơn [1]. Điều này dẫn đến việc chúng ta mất một lượng tiền lớn để nhập khẩu phân bón đồng thời lại gây ra những ảnh hưởng đến môi trường do phân bón bị rửa trôi, tích tụ ở nguồn nước ngầm, nước mặt ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản và nước sinh hoạt. Để việc sử dụng phân bón có hiệu quả, không có dư thừa quá mức cho phép, không gây ô nhiễm môi trường thì ngay bây giờ ta phải trang bị cho người sản xuất những kiến thức khoa học cần thiết về tính chất 2 mặt của phân bón, biết được nhu cầu phân bón của từng loại cây, từng giai đoạn sinh trưởng của cây trên từng loại đất, từng mùa vụ để thu được hiệu quả đúng. Nước ta ở giai đoạn trước chủ yếu sử dụng phân bón cho sản xuất nông nghiệp, chưa sử dụng phân bón cho đối tượng cây lâm nghiệp. Hiện nay trong sản xuất đã sử dụng phân bón cho cây lâm nghiệp, trong đó Trám Trắng trồng lấy quả cũng đã bước đầu được áp dụng kỹ thuật này. Các loại phân bón được sử dụng gồm nhiều loại, nhưng có thể tổng hợp thành nhóm chủ yếu: Phân hữu cơ (cả hữu cơ vi sinh); phân vô cơ (phân đa lượng, trung lượng, vi lượng); phân vi sinh vật. Hiện nay, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, sử dụng phân bón qua lá cũng góp phần tăng năng suất cây trồng. 2.3. Tổng quan khu vực nghiên cứu 2.3.1. Xã Văn Lăng huyện Đồng Hỷ Thái nguyên *Vị trí địa lý Văn Lăng là một xã trung du miền núi nằm ở phía Bắc của Huyện Đồng Hỷ. Với diện tích của xã là 16.414,79 ha, mật độ dân số 68 người/km2. Có tọa độ địa lý từ 1050 46 ’ - 1060 46’ Kinh độ Đông, 21032’ - 210 51 ’ vĩ độ Bắc. o Phía Đông giáp với xã Thần Sa - huyện Võ Nhai 11 o Phía Tây giáp với xã Phú Đô - Huyện Phú Lương o Phía Nam giáp với xã Hòa Bình - Huyện Đồng Hỷ o Phía Bắc giáp với xã Quảng Chu - Chợ Mới * Địa hình Văn Lăng có địa hình rất phức tạp không đồng nhất. Có nhiều núi cao xen lẫn đồi thấp nên thường có hiện tượng xói mòn, rửa trôi diễn ra. * Đất đai Diện tích đất tự nhiên là 16.414,79 ha, Văn Lăng là một xã có diện tích đất tự nhiên lớn nhất của huyện Đồng Hỷ, bình quân diện tích tự nhiên là 0,8ha/người, trong khi đó huyện Đồng Hỷ là 0,37ha/người. * Dân số và lao động - Dân số: Theo thống kê năm 2010, xã Văn Lăng có tổng số dân là 11.162 người, là một xã có mật độ dân số thấp nhất huyện Đồng Hỷ là 68 người/km2. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân từ năm 2008 - 2010 là 1,36%. Xã Văn Lăng là một xã vùng xa mật độ dân số thấp, trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác lạc hậu, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, số hộ đói nghèo (7,7%). - Lao động: Lao động ở xã tập trung ở ngành nông nghiệp. Hầu hết số lao động là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, chất lượng lao động thấp. Để sử dụng hết lực lượng lao động này cần phải mở rộng đào tạo nghề, phát triển nghề phụ thu hút lao động nông nghiệp lúc nông nhàn. Đồng thời phải tiến hành thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích gieo trồng tân dụng triệt để nguồn lao động - Dân tộc: Văn Lăng có 8 dân tộc anh em chung sống. Dân tộc kinh chiếm khoảng 30,87%, dân tộc Nùng chiếm 16,83%, dân tộc Sán Dìu chiếm 0,43%, dân tộc Dao chiếm 18,16%, dân tộc Hơ Mông chiếm 29,1%, dân tộc Sán Chí chiếm 0,41%, dân tộc Mường chiếm 0,06%, dân tộc Tày chiếm 4,14% (nguồn từ dân số và kế hoạch hóa xã Văn Lăng). Các dân tộc ít người trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác lạc hậu, giao thông đi lại khó khăn, hạ tầng cơ sở thấp kém là những hạn chế chủ yếu khiến đời sống kinh tế - xã hội ở xã này chậm phát triển. Dưới sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền xã. Phong trào kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền sâu rộng và triển khai thực hiện tích cực. Mặc dù mức sinh đã giảm đáng kể song chưa ổn định, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên còn cao (1.36% năm 2010). 12 Sự gia tăng dân số kéo theo nhiều sức ép về việc làm, đời sống, y tế, giáo dục, trật tự xã hội. * Văn hóa xã hội Quy mô trường học đang trên đà phát triển, chất lượng trường lớp được nâng cao. Cụ thể: Đến nay 100% số phòng học ở xã được ngói hóa. Trong các năm học thường xuyên tổ chức các đợt hội giảng, thi giáo viên dạy giỏi, tăng cường công tác thanh kiểm tra, đổi mới nội dung,… Tuy nhiên chất lượng dạy và học, chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học chưa đạt được so với yêu cầu mục tiêu đạo tạo. Trang thiết bị cơ sở vật chất giáo dục còn hạn chế * Về y tế Hiện nay xã có một trạm y tế, nhìn chung về y tế còn gặp nhiều khó khăn * Thông tin liên lạc Hệ thống thông tin liên lạc trên địa bàn xã đã và đang được hiện đại hóa. Đến nay xã có một điểm bưu điện văn hóa xã. Hệ thống truyền thanh, truyền hình đã được xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo cung cấp kịp thời những thông tin về tình hình kinh tế xã hội, chủ trương đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt việc cấp phát máy thu hình, đài thu thanh tới các đối tượng theo chương trình mục tiêu góp phần nâng cao mặt bằng dân trí trong xã. * Hệ thống điện Hiện nay còn nhiều hộ dân ở các bản vùng sâu vùng xa chưa được sử dụng điện Nhà nước. Những năm tới đây yêu cầu đầu tư cho việc phát triển điện lưới đến các thôn xóm phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho dân cư và đáp ứng điện sản xuất phát triển kinh tế thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.. * Hệ thống giao thông Còn vô cùng khó khăn, do vậy cần có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước, UBND các cấp trong việc cải tạo, nâng cấp hệ thống đường giao thông. 2.3.2. Xã Phú Đô huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên * Vị trí địa lý: Phú Đô, là một xã miền núi thuộc huyện Phú Lương - phía Bắc tỉnh Thái Nguyên. Phía Đông giáp xã Hòa Bình Phía Tây giáp xã Tức Tranh 13 Phía Nam giáp xã Văn Lăng huyện Đông Hỷ Phía Bắc giáp xã Yên Lạc * Địa hình Phú Đô có địa hình không đồng nhất, có nhiều núi cao xen lẫn đồi thấp và thung lũng hẹp. * Đất đai Diện tích đất đai của Phú Đô là: 22224ha, đất rừng và đồi núi chiếm khoảng 75% diện tích. Đất thuộc loại đất Feralit màu đỏ vàng hoặc vàng nhạt, phát triển trên sa thạch, nghèo dinh dưỡng. * Dân số và lao động - Dân số: Theo thống kê năm 2010, xã có tổng số dân là 12.102 người, là một xã có mật độ dân số thưa. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên bình quân từ năm 2008 - 2010 là 1,16%. Trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác còn lạc hậu, đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, số hộ đói nghèo (9,5%). - Lao động: Lao động ở xã tập trung ở ngành nông nghiệp. Hầu hết số lao động là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, chất lượng lao động thấp. - Dân tộc: xã Phú Đô có 6 dân tộc anh em chung sống, gồm dân tộc kinh, dân tộc Nùng, dân tộc Tày, dân tộc Dao, dân tộc Sán Dìu . Các dân tộc ít người trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác lạc hậu, giao thông đi lại khó khăn, hạ tầng cơ sở thấp kém là những hạn chế chủ yếu khiến đời sống kinh tế, xã hội ở xã chậm phát triển. Dưới sự chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền xã. Phong trào kế hoạch hóa gia đình được tuyên truyền sâu rộng và triển khai thực hiện tích cực. Mặc dù mức sinh đã giảm đáng kể song chưa ổn định, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên còn cao. Sự gia tăng dân số kéo theo nhiều sức ép về việc làm, đời sống, y tế, giáo dục, trật tự xã hội. * Văn hóa xã hội Quy mô trường học đang trên đà phát triển, chất lượng trường lớp được nâng cao, 100% số phòng học ở xã được xây. Trong các năm học thường xuyên tổ chức các đợt hội giảng, thi giáo viên dạy giỏi, tăng cường công tác thanh kiểm tra, đổi mới nội dung,… Tuy nhiên chất lượng dạy và học, chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học chưa 14 đạt được so với yêu cầu mục tiêu đạo tạo. Trang thiết bị cơ sở vật chất giáo dục còn hạn chế. * Về y tế Hiện nay xã có một trạm y tế, đội ngũ y bác sĩ đời sống còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở vật chất phục vụ cho khám và chữa bệnh còn nghèo nàn. * Thông tin liên lạc Hệ thống thông tin liên lạc trên địa bàn xã đã và đang được hiện đại hóa. Đến nay xã có một điểm bưu điện văn hóa. Hệ thống truyền thanh đã được xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo cung cấp kịp thời những thông tin về tình hình kinh tế xã hội, chủ trương đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. * Hệ thống điện Xã đã có hệ thống điện lưới tuy nhiên chất lượng phục vụ chưa cao so với nhu cầu sinh hoạt của dân cư và sản xuất phát triển kinh tế. * Hệ thống giao thông Hệ thống đường đi lại còn nhiều khó khăn, do vậy cần có sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước, UBND các cấp trong việc cải tạo, nâng cấp hệ thống đường giao thông. 2.3.3. Đặc điểm về khí hậu thời tiết khu vực nghiên cứu Khu vực nghiên cứu có khí hậu nhiệt đới gió mùa có tính lục địa chia làm 2 mùa rõ rệt: Mùa hè nóng ẩm - mưa nhiều, mùa đông lạnh giá - hanh khô. - Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 230 - 24,50. Tháng có nhiệt độ cao nhất trong năm là tháng 7 (nhiệt độ trung bình 29,10), tháng có nhiệt độ thấp nhất trong năm là tháng 1 (nhiệt độ trung bình 17,70). Độ ẩm trung bình là 82%, cao nhất là 88% và thấp nhất là 78%. Lượng mưa trung bình cả năm là 1.695,9 mm. Mùa mưa ẩm, nóng kéo dài từ tháng 4 tới tháng 10, lượng mưa trong mùa chiếm 80% -85% tổng lượng mưa cả năm (nhất là trong bốn tháng 6; 7; 8; 9 lượng mưa chiếm tới 70% - 80% tổng lượng mưa trong mùa mưa), trong khi đó mùa khô lượng mưa chỉ chiếm 15% - 20% tổng lượng mưa trong cả năm. Do lượng mưa phân bố không đều giữa các tháng trong năm như vậy thường gây ra các hiện tượng hạn, úng gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, đời sống và sinh hoạt của nhân dân trong xã, đặc biệt là đối với người nông dân vì sản xuất của họ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết khí hậu. 15 Mỗi năm có khoảng 166 ngày mưa, lượng nước bốc hơi trung bình hàng năm là 710 mm. Số giờ nắng trung bình cả măm là 1.274 giờ (bảng 2.1). Bảng 2.1: Đặc điểm cơ bản của khí hậu khu vực nghiên cứu năm 2010 Các yếu tố Tháng 1 Nhiệt độ không khí TB (0C) 17,7 Độ ẩm TB (%) 78 Lượng mưa TB(mm) 2,3 Số giờ nắng TB (giờ) 45 2 18,0 86 24,4 21 3 20,0 87 41,0 13 4 25,1 83 19,6 86 5 26,5 81 391,3 154 6 29,0 82 233,5 160 7 29,1 85 262,7 168 8 27,4 88 328,5 110 9 27,4 78 215,9 184 10 26,7 82 83,1 122 11 23,7 79 87,3 122 12 17,3 78 6,3 89 1695.9 1.274 Cả năm Trung bình 24,0 82 (Nguồn: Số liệu của trạm thủy văn Thái Nguyên) Qua bảng số liệu trên ta thấy lượng mưa cả năm là 1695,9mm, mưa nhiều vào tháng 3-10, tháng 8 lượng mưa lớn nhất 328,5 mm. Nhiệt độ trung bình năm là 24 độ, độ ẩm trung bình 82%, số giờ nắng là 1.274 giờ. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 tới thánh 2 năm sau, trời lạnh khô. Nhìn chung các chỉ tiêu về lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ, số giờ nắng trong năm đều thuận lợi cho cây Trám Trắng trồng lấy quả sinh trưởng phát triển tốt cũng như các loài cây trồng khác. 16 2.4. Một số thông tin về loài cây Trám Trắng Trám Trắng Canarium album Lour Raeusc, tên gọi thông thường của Trám trắng ở một số nước: Ô liu trắng Trung Quốc (Anh), ô liu Trung Quốc (Pháp), Sam chim (Thái Lan) và tên thương mại là ô liu Trung Quốc. Ở Việt Nam đa số các tỉnh gọi là Trám Trắng, ở Nam Bộ gọi Trám là Càna, người Khơ - me gọi Trám là Khana. * Vùng phân bố Ở Trung Quốc Trám Trắng có nguồn gốc ở các tỉnh phía Nam. Ở Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Đài Loan…đều có Trám dại với lịch sử trên 2.000 năm. Trám còn có mặt ở các nước Campuchia, Thái Lan, Myanma, Ấn Độ, Malaysia. Ở Việt Nam Trám trắng phân bố rộng từ Bắc đến Nam phổ biến ở các vùng: Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng Sông Hồng, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên… và thường gặp ở rừng thứ sinh trên đất còn nguyên trạng, đặc biệt là ở các tỉnh phía Bắc như Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phú Thọ…[3]. * Đặc điểm hình thái Cây có thể cao tới 25m, đường kính 120cm. Thân tròn thẳng, vỏ xám trắng, lúc già thường bong vảy nhỏ. Vết vỏ đẽo thường có nhựa thơm hơi đục - Rễ: Điểm nổi bật nhất của cây Trám mọc tự nhiên từ hạt là rễ cọc đơn trục, thẳng đứng, phát triển rất sâu. Điều tra tại Phúc Kiến - Trung Quốc cho thấy cây mẹ từ hạt với đường kính 40cm, trên đất đồi rễ cọc có thể ăn sâu tới 4 - 5m. Rễ chính của Trám lớn, phát triển mạnh, ít rễ con. Rễ ăn sâu nhưng phân bố sâu, nông tuỳ điều kiện cụ thể. Nơi có mực nước ngầm cao, đất xấu, rễ ăn nông và ăn ngang, khoảng 2 - 3 lần tán cây. Ở đất có tầng dày, rễ có thể ăn sâu tới 3m, thậm chí tới 5m nhưng chủ yếu ở tầng 20 - 120cm. - Thân, cành: Là cây gỗ lớn có thể cao 25 - 30m, tán rộng 10 - 18m, thân tròn thẳng, nhựa có màu trắng đục, thơm, vỏ màu xám trắng. Khi cây Trám phát triển mạnh thì hàng năm có 4 - 5 lần ra lộc, cây đã ra quả thì một năm ra lộc 2 -3 lần: lộc xuân phát triển vào lập xuân, lộc hạ ra vào tháng 6 - 7 và lộc thu ra vào tháng 8 - 9. - Lá: Ở giai đoạn cây mạ là lá đơn xẻ thuỳ, sau đó là lá đơn nguyên, mép có răng cưa. Khi định hình là lá kép lông chim một lần lẻ, có 7 - 13 lá chét, lá chét có 17 hình trái xoan hoặc ô van dài từ 6 -15 cm, rộng 3 - 7 cm, mặt trên màu xanh đậm. Gân bên 12 - 16 đôi. Có lá kèm nhỏ sớm rụng. - Hoa, quả: Hoa tự xim viên chuỳ ở nách lá gần đầu cành. Trám Trắng có hoa lưỡng tính và hoa đực, đài dài 2,5 -3 mm. Hoa có màu trắng hoặc trắng vàng, cứ 3 đoá hoa mọc thành chùm trên trục hoa, tràng hoa rời, bầu thượng. Có 4 kiểu hoa: hoa đực, hoa cái, hoa lưỡng tính và hoa dị hình. Cây hoa tự đực hoàn toàn không có quả, ngôn ngữ dân gian thường gọi là “cây đực”, cây toàn hoa cái cho sản lượng tăng dần theo tuổi, vừa có hoa đực vừa có hoa cái cho sản lượng giảm dần theo tuổi. Cây có hoa toàn đực, toàn lưỡng tính và toàn dị hình cho sản lượng quả rất thấp và ít thay đổi theo tuổi. Quả hạch hình trái xoan hai đầu nhọn, hạch thường chia thành các múi, thường có 6 múi. Quả dài 2,5 - 3,5 cm, khi chín có màu xanh vàng [3]. * Đặc điểm sinh thái Trám Trắng là loài cây ưa sáng, mọc nhanh, tái sinh chồi và hạt tốt, trong rừng tự nhiên thường chiếm tầng trên nhưng trong giai đoạn hai năm đầu cần có độ che bóng, sau đó hoàn toàn ưa sáng, là cây thoát hơi nước mạnh. Tuy nhiên cũng không thể che kín cả ngọn cây. Kết quả thí nghiệm chỉ ra rằng sử dụng cây Cốt Khí trồng xen làm cây phù trợ trong giai đoạn đầu và luôn chú ý điều chỉnh độ tàn che không để Cốt Khí che lấp ngọn Trám là một biện pháp tốt. Trong điều kiện đó cây Trám sinh trưởng nhanh, có sức sống tốt, lá xanh đậm. Mùa ra hoa vào tháng 4 - 5, ở một cây thời kỳ ra hoa khoảng 35 ngày, ở mỗi mùa hoa từ khi nở đến khi tàn khoảng 4 - 5 ngày. Sau khi ra hoa 3 ngày thì thụ phấn, sau khi thụ phấn đến khi thụ tinh hoàn thành cần 32- 48 giờ, tỷ lệ nảy mầm của phấn hoa thấp (khoảng 12.67 - 30.17%). Tuyến mật hoa phát triển mạnh, nên ong đến nhiều, thời tiết thuận lợi thì thụ phấn, thụ tinh, đậu quả tốt. Trám Trắng có khă năng thích nghi rộng với các điều kiện khí hậu và đất ở nước ta, phát triển tốt trên đất tầng dày, tơi xốp và thoát nước tốt. * Giá trị kinh tế Gỗ Trám có màu xám trắng, mềm nhẹ, dễ làm, dễ gia công chế biến có thể sử dụng làm gỗ xây dựng, gỗ dán lạng, làm trụ mỏ, dùng làm bột giấy và đóng đồ mộc thông thường, là cây gỗ nhóm 7- 8. 18 Theo một số nghiên cứu mới đây, cây Trám trước đây thường được quan tâm chủ yếu về sản phẩm gỗ, nay có thể cho thu nhập cao hơn nếu trồng để lấy nhựa và lấy quả. Nhựa Trám có thể dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế biến xà phòng, mỹ phẩm, sơn tổng hợp, giấy và hương... [14]. Hạt có hàm lượng tinh dầu 20 - 25%, có thể ép dầu làm nhân bánh, dầu dùng trong công nghiệp. Trong 100kg nhựa Trám trắng có thể lấy được 18 - 20 kg dầu và 50 - 60 kg colophan gần như nhựa thông nhưng khả năng cung cấp của nhựa Trám cao hơn nhiều. Một cây Trám đường kính trên 20 cm có thể cho 10 - 15 kg nhựa một năm. Sản phẩm có giá trị nhất và được sử dụng chủ yếu là quả Trám. Theo tài liệu của Viện Y học Trung Quốc (1989), thành phần dinh dưỡng của quả Trám rất tốt, trong 100g ăn được của quả Trám có 1,2g protit; 1g chất béo; 12g chất đường bột: 60 mg P2O5; 1,4 mg Mg; 204 mg Ca; 21 mg vitamin,... Quả Trám dùng để ăn tươi (có lợi cho tiêu hoá, giải khát, chữa viêm họng,..) ngoài ra còn để làm các loại chế phẩm: đóng hộp, muối,… Quả Trám trắng có thể làm thực phẩm và sản xuất ô mai, làm thuốc chữa ho, giải độc. Quả Trám có thể giải khát, giải độc đối với rượu. Ngoài ra còn dùng Trám để chữa các bệnh sau: Đau răng, sâu răng, miệng khô, khát nước, dị ứng sơn [15]. Hạt Trám có thể được sử dụng làm than hoạt tính, nhân hạt Trám có hàm lượng tinh dầu 20 - 25 %, có thể làm dầu công nghiệp. Là cây bóng mát, vườn rừng, nông lâm kết hợp, làm giàu rừng và phục hồi rừng tự nhiên. Nếu Trám trồng làm giàu rừng trong các loại hình rừng phục hồi hoặc trong các vườn rừng với số lượng 50 cây/ha sau 8 - 10 năm có thể cho thu hoạch 20 25 kg quả/cây/năm và 10 - 15 kg nhựa/cây/năm. Với thời giá hiện nay có thể cho tổng thu nhập là 5 - 6,75 triệu đồng/ha/năm. * Kỹ thuật gây trồng + Yêu cầu ngoại cảnh - Nhiệt độ: là nhân tố ảnh hưởng đến sự phân chia tế bào và các quá trình sinh hóa trong cây, do đó là nhân tố quan trọng cho nhân giống sinh dưỡng. Đối với cây con làm gốc ghép trong giai đoạn vườn ươm phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ chăm sóc và che bóng, với cây ghép có thể lựa chọn thời vụ thích hợp, giảm thiểu ảnh hưởng của thời tiết đến tỷ lệ sống của cây ghép. 19 Trám ưa khí hậu ấm áp, mùa đông không được quá lạnh. Trám trắng tính chịu rét phụ thuộc vào từng loại giống thông thường giới hạn nhiệt độ thấp cực trị là - 30C. - Nước: Trám ưa ẩm nhưng không được đọng nước, nếu đọng nước rễ cây sẽ bị thối, lá rụng, cây chết, rễ Trám ăn sâu nên chịu hạn tốt. - Đất: Yêu cầu đất trồng Trám không khắt khe, có thể nói Trám trồng được hầu hết các loại đất đồi núi, chỉ cần tầng đất tương đối sâu, tơi xốp, giữ ẩm, thoát nước tốt, mực nước ngầm thấp, pH 4,5 - 6 [7;9]. - Ánh sáng và gió: Ánh sáng đóng một vai trò chủ yếu ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây, không có ánh sáng thì cây không quang hợp được, vật liệu nhân giống sinh dưỡng không thể phát triển thành cây con, ánh sáng còn liên quan đến một số nhân tố khác như nhiệt độ, sự thoát hơi nước của cây và một số phản ứng sinh hoá trong cây. Trám là cây ưa nắng, cần đủ ánh sáng mới sinh trưởng phát dục tốt, ít sâu bệnh. Tuy vậy, yêu cầu cường độ ánh sáng tuỳ từng giống cũng có biểu hiện khác nhau. Gió lớn, bão làm rụng quả, gãy cành. Trám trắng cành quả ngắn nên dễ bị gió gây hại hơn Trám đen gây ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của cây. Do vậy nên tạo cây lùn hoá và không nên trồng Trám ở vùng ven biển. - Độ ẩm: Độ ẩm của môi trường nhân giống có liên quan trực tiếp đến lượng nước trong vật liệu nhân giống nên có vai trò hết sức quan trọng đến kết quả nhân giống. Mọi quá trình sống trong vật liệu giống đều cần có nước, tuy nhiên, nếu môi trường quá nhiều hoặc quá ít nước thì vật liệu giống đều bị ảnh hưởng [3], làm giảm khả năng nhân giống sinh dưỡng. Nhu cầu về độ ẩm của môi trường nhân giống thay đổi theo loài cây và theo từng phương pháp nhân giống sinh dưỡng. Khi ghép cây, biện pháp quan trọng để đảm bảo cành ghép không chết do mất nước là phải tạo được tiếp xúc tốt giữa tượng tầng của cành ghép, mắt ghép và gốc ghép để nước và dinh dưỡng khoáng từ gốc ghép cung cấp cho cành, mắt ghép. Cần hạn chế sự thoát hơi nước của cành, mắt ghép tới mức thấp nhất khi vết ghép chưa liền sinh. Một trong những biện pháp hạn chế thoát hơi nước của tổ hợp ghép một cách hiệu quả và tiện lợi là dùng nilon bọc kín tổ hợp ghép. 20 + Yêu cầu về giống Trám có thể trồng bằng cây con từ hạt hoặc cây ghép tuy nhiên cây con trồng từ hạt thường có tỷ lệ cây đực cao. Hạt Trám để ươm cây cần chọn quả đã chín, ngâm vào nước nóng 60oC - 65oC. Khi thịt quả đã mềm thì tách hạt đem rửa sạch rồi hong khô [10]. Trám trồng bằng cây ghép nên dùng gốc ghép 2 năm tuổi rồi mới ghép mắt. Tốt nhất là dùng cây gốc ghép mọc từ hạt, trồng trong bầu, sau khi ghép cây con trưởng thành tốt mới ra ngoài sẽ dễ sống và sớm ra quả. Do Trám có cây đực và cây lưỡng tính, cây đực chỉ ra hoa đực, có ra hoa mà không có quả, dùng mắt ghép từ cây lưỡng tính thì ra hoa kết quả bình thường và cho năng suất ghép cao.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng