BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
TRẦN HỮU THÀNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ, THỜI GIAN XỬ LÝ
BẰNG DUNG DỊCH AMONIAC, TỶ SUẤT NÉN ĐẾN CHẤT LƯỢNG
GỖ BỒ ĐỀ (Styrax tonkinensis Pierre) BIẾN TÍNH THEO PHƯƠNG PHÁP
HOÁ DẺO – NÉN ÉP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
Hà Tây – 2006
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
TRẦN HỮU THÀNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ, THỜI GIAN XỬ LÝ
BẰNG DUNG DỊCH AMONIAC, TỶ SUẤT NÉN ĐẾN CHẤT LƯỢNG
GỖ BỒ ĐỀ (Styrax tonkinensis Pierre) BIẾN TÍNH THEO PHƯƠNG PHÁP
HOÁ DẺO – NÉN ÉP
LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
Hà Tây - 2006
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
TRẦN HỮU THÀNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ, THỜI GIAN XỬ LÝ
BẰNG DUNG DỊCH AMONIAC, TỶ SUẤT NÉN ĐẾN CHẤT LƯỢNG
GỖ BỒ ĐỀ (Styrax tonkinensis Pierre) BIẾN TÍNH THEO PHƯƠNG PHÁP
HOÁ DẺO – NÉN ÉP
Chuyên ngành: Kỹ thuật máy, thiết bị và công nghệ gỗ, giấy
Mã số: 60-52-24
LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
Hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Chứ
Hà Tây – 2006
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
TRẦN HỮU THÀNH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NỒNG ĐỘ, THỜI GIAN XỬ LÝ
BẰNG DUNG DỊCH AMONIAC, TỶ SUẤT NÉN ĐẾN CHẤT LƯỢNG
GỖ BỒ ĐỀ (Styrax tonkinensis Pierre) BIẾN TÍNH THEO PHƯƠNG PHÁP
HOÁ DẺO – NÉN ÉP
Chuyên ngành: Kỹ thuật máy, thiết bị và công nghệ gỗ, giấy
Mã số: 60-52-24
LUẬN VĂN THẠC SỸ KỸ THUẬT
Hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Chứ
Hà Tây – 2006
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Trần
Văn Chứ, người thầy đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận
văn.
Cảm ơn Khoa Sau Đại Học - Trường Đại học Lâm nghiệp, cùng các thầy cô
giáo, toàn thể cán bộ Trung tâm thực nghiệm và chuyển giao kỹ thuật Công
nghiệp
rừng - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Cục chế biến nông lâm sản và
nghề
muối đã đóng góp ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình
học
tập và nghiên cứu.
Cảm ơn các cán bộ kỹ thuật của Trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công
nghệ công nghiệp rừng và Phòng thí nghiệm Trường Đại học Lâm nghiệp;
Phòng
Tài nguyên thực vật rừng - Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam đã hướng dẫn
kỹ
thuật và hỗ trợ các trang thiết bị nghiên cứu, thử nghiệm tốt nhất giúp tôi thực
hiện
đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp, bạn bè cùng gia đình đã quan tâm
động viên khích lệ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chung đối với tất cả mọi người đã
giúp đỡ và ủng hộ tôi!
Hà Tây, Tháng 8-2006
Tác giả
Trần Hữu Thành
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Trang
Lời cảm ơn
ĐẶT VẤN ĐỀ
1
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
4
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
4
1.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
5
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
5
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
7
1.3. MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
8
1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu
8
1.3.2. Nội dung nghiên cứu
9
1.3.3. Phương pháp nghiên cứu
9
1.3.4. Phạm vi nghiên cứu
13
Chương 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT
15
2.1. ĐẶC ĐIỂM NGUYÊN VẬT LIỆU LIÊN QUAN ĐẾN QUÁ TRÌNH
HOÁ DẺO - NÉN ÉP
15
2.1.1. Đặc điểm nguyên liệu gỗ
15
2.1.1.1. Các thành phần cơ bản của vật liệu gỗ là đối tượng nghiên cứu của
khoa học biến tính gỗ
15
2.1.1.2. Tính chất hút nước và thấu nước của vật liệu gỗ
17
2.1.1.3. Hóa chất Amoniac (NH
3
)
và
dung dịch amonihydroxyt (NH
4
OH)
18
2.2. LÝ THUYẾT BIẾN TÍNH GỖ
19
2.2.1. Khái niệm về quá trình biến tính hoá dẻo - nén ép gỗ
20
2.2.2. Biến đổi cấu trúc và tính chất của gỗ do tác động của nhiệt độ
21
2.2.3. Cơ chế hoá dẻo và nén ép gỗ
24
2.2.3.1. Cơ chế hóa dẻo gỗ
24
2.2.3.2. Xử lý hoá dẻo gỗ
26
2.2.3.3. Cơ chế nén ép gỗ
28
2.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG THẤM HOÁ CHẤT KHI
NGÂM GỖ
29
2.3.1. Khả năng thấm hóa chất theo nguyên lý khuyết tán
29
2.3.2. Khả năng thấm hóa chất theo nguyên lý mao dẫn
31
Chương 3. THỰC NGHIỆM
33
3.1. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ BIẾN TÍNH GỖ BỒ ĐỀ THEO
PHƯƠNG PHÁP HOÁ DẺO – NÉN ÉP
33
3.2. CHUẨN BỊ NGUYÊN LIỆU
34
3.2.1. Nguyên liệu gỗ bồ đề (Styrax tonkinensis Pierre)
34
3.2.2. Hoá chất
40
3.3. DỤNG CỤ THÍ NGHIỆM
40
3.4. BỐ TRÍ THỰC NGHIỆM VÀ KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG GỖ BỒ
ĐỀ BIẾN TÍNH
41
3.4.1. Tạo phôi gỗ thí nghiệm
41
3.4.2. Hoá dẻo gỗ bồ đề
41
3.4.3. Để ráo
41
3.4.4. Nén ép phôi gỗ bồ đề
41
3.4.5. Sấy gỗ nén
43
3.4.5 Để gỗ nén ổn định trong phòng kín.
46
3.4.6. Cắt mẫu để kiểm tra các chỉ tiêu chất lượng của gỗ nén theo các tiêu
chuẩn phù hợp
43
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ
45
4.1. KHỐI LƯỢNG THỂ TÍCH GỖ BỒ ĐỀ BIẾN TÍNH
45
4.2. TỶ LỆ CO RÚT, DÃN NỞ, TRƯƠNG DÃN CỦA GỖ BỒ ĐỀ BIẾN
TÍNH
47
4.2.1. Tỷ lệ co rút tiếp tuyến
47
4.2.2. Tỷ lệ co rút xuyên tâm
50
4.2.3. Tỷ lệ dãn nở tiếp tuyến
51
4.2.4. Tỷ lệ dãn nở xuyên tâm
52
4.2.5. Tỷ lệ trương dãn tiếp tuyến
53
4.2.6. Tỷ lệ trương dãn xuyên tâm
54
4.3. ĐỘ BỀN UỐN TĨNH CỦA GỖ BỒ ĐỀ BIẾN TÍNH
55
4.3.1. Độ bền uốn tĩnh tiếp tuyến
55
4.3.2. Độ bền uốn tĩnh xuyên tâm
58
4.4. GIỚI HẠN BỀN NÉN DỌC THỚ
59
4.5. KHẢ NĂNG TRANG SỨC BỀ MẶT CỦA GỖ BỒ ĐỀ SAU KHI
ĐƯỢC XỬ LÝ AMONIAC
61
4.6. KẾT QUẢ GIẢI PHẪU GỖ BỒ ĐỀ BIẾN TÍNH
63
4.7. GIẢI BÀI TOÁN TỐI ƯU
67
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
68
KẾT LUẬN Và KHUYẾN NGHỊ
76
KẾT LUẬN
76
KHUYẾN NGHỊ
77
Tài liệu tham khảo
Phần phụ biểu
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cùng với tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ngành khoa học vật liệu đã phát
triển mạnh mẽ và tạo ra nhiều loại vật liệu mới phục vụ cuộc sống của nhân
loại,
ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực như giao thông, xây dựng, chế tạo máy,
điện
tử, viễn thông, y tế…và hiện nay các nhà khoa học đang quan tâm
nghiên cứu
những công nghệ kỳ diệu khác như công nghệ nano (vật liệu có kích thước 1100
nm). Trong đó, các loại vật liệu như kim loại, plastic, composite… đã thay thế
vật
liệu gỗ để sản xuất đồ nội, ngoại thất, kết cấu xây dựng, giao thông… vì có
thể
được sản suất hàng loạt với mức độ đồng đề cao và giá thành thấp.
Tuy nhiên, so với nhiều vật liệu khác, gỗ vẫn là một loại vật liệu có hệ số
phẩm chất cao, có khả năng cách nhiệt, cách âm, hệ số dãn nở vì nhiệt nhỏ, vân
thớ
đẹp, dễ gia công chế biến, trang sức bề mặt… Vì vậy, nhu cầu của xã hội về gỗ
và
sản phẩm gỗ ngày càng tăng cả về khối lượng và chất lượng. Thực tế đã
chứng
minh, các quốc gia có nền công nghiệp càng phát triển tiêu thụ gỗ càng nhiều.
Theo
dự thảo “Chiến lược Lâm nghiệp quốc gia” [13], lượng tiêu thụ gỗ xẻ
hàng
Nhưng vật liệu gỗ cũng có một số nhược điểm như mềm xốp; dễ cháy; dễ hút
ẩm gây ra cong vênh, nứt nẻ, biến hình; tính chất cơ học thấp. Trong khi đó, đối
với
một số lĩnh vực, vật liệu gỗ rất quan trọng, ít vật liệu khác có thể thay thế. Ví
dụ,
tay đập, thoi dệt; bạc trục chân vịt tàu thuỷ, các chi tiết truyền động có khả năng
chịu mài mòn và tự bôi trơn; nhạc cụ, dụng cụ thể thao, tà vẹt…
Để khắc phục những nhược điểm và lợi dụng những đặc tính quý kể trên, các
nhà khoa học đã tìm nhiều giải pháp cải thiện tính chất và nâng cao giá trị sử
dụng
của vật liệu gỗ. Vì vậy, khoa học biến tính gỗ đã ra đời và phát triển rất nhanh
với
những giải pháp kỹ thuật hiện đại như hoá học cao phân tử, dùng tia γ thậm chí
sử
dụng năng lượng nguyên tử. Cho đến nay, rất nhiều quốc gia có công nghiệp
phát
triến như Nga, Mỹ, Pháp, Ba Lan, Ý, Đức, Nhật Bản, Trung quốc… đã quan
tâm
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ biến tính gỗ. Các sản phẩm gỗ biến tính
được
ứng dụng rất phổ biến tại các quốc gia này và trên thị trường nói chung.
Công nghệ biến gỗ là một trong những biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn
đề khan hiếm nguyên liệu cũng như tạo ra các loại vật liệu có hệ số phẩm chất
và
giá trị sử dụng tốt hơn gỗ nguyên. Theo xu thế chung của ngành công nghiệp
chế
biến lâm sản, Việt Nam đang bắt đầu tiếp cận công nghệ biến tính gỗ với những
giải
pháp đơn giản, phù hợp điều kiện kỹ thuật, thiết bị hiện có.
Theo quan điểm của chúng tôi, để phù hợp điều kiện sản xuất hiện tại của
Việt Nam, việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ biến tính gỗ nên tập chung
vào
phương pháp nhiệt hoá cơ, trong đó việc sử dụng hoá chất để hoá dẻo gỗ là có
hiệu
quả nhất.
Với giải pháp hoá dẻo gỗ bằng hoá chất, các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến
mức độ hoá dẻo gỗ gồm loại gỗ, hoá chất, nồng độ hoá chất, thời gian xử lý,
kích
thước phôi gỗ, áp lực ngâm tẩm… Trong quá trình nén ép, tỷ suất nén, chiều
dày
phôi gỗ, nhiệt độ nén ép, phương pháp nén ép (nén kín hay nén hở, phương áp
lực
nén), tốc độ nén… là các yếu tố quyết định khả năng tăng khối lượng thể tích và
ảnh hưởng đến các tính chất cơ học, vật lý của gỗ nén.
Trong quá trình công tác và nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, cũng như một
số loại cây rừng trồng mọc nhanh khác, Bồ đề (Styrax tonkinensis Pierre) là loại
cây
có tốc độ sinh trưởng, phát triển nhanh, nhưng có nhược điểm là độ bền tự nhiên
kém, dễ bị cong vênh, biến hình, khó bảo quản, chưa đáp ứng yêu cầu làm
nguyên
liệu sản xuất đồ mộc cao cấp, mộc xây dựng, trang trí nội thất, mộc giả cổ…
Hiện
tại, gỗ Bồ đề chủ yếu được sử dụng để sản xuất giấy, diêm, bút chì, ván dán. Vì
vậy,
những cây gỗ Bồ đề có đường kính lớn không được sử dụng hiệu quả sẽ gây
lãng
phí, trong khi chúng ta đang thiếu nguyên liệu để sản xuất đồ gỗ.
Theo đó, yêu cầu thực tế đặt ra đối với các nhà khoa học, nhà sản xuất là
phải tìm các biện pháp nâng cao chất lượng, thẩm mỹ của gỗ rừng trồng mọc
nhanh
nói chung, trong đó có gỗ Bồ đề.
Xuất phát từ yêu cầu trên, để góp phần đóng góp những công trình nghiên
cứu cơ bản trong công nghệ biến tính gỗ, được sự phân công của Trường Đại
học
Lâm nghiệp, Khoa sau đại học, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ, thời gian xử lý bằng dung dịch
amoniac, tỷ suất nén đến chất lượng gỗ Bồ đề (Styrax tonkinensis Pierre) biến
tính theo phương pháp hoá dẻo – nén ép”
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến gỗ thế giới đang tìm các biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng gỗ và nâng cao chất lượng gỗ.
Đến cuối thế kỷ 20, ngành công nghiệp chế biến gỗ đã phát triển mạnh với
các dây chuyền sản xuất ván nhân tạo, giấy, công nghệ xẻ hiện đại như dùng
laser,
tia nước áp lực cao... nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng gỗ.
Ngoài ra, việc nghiên cứu theo hướng nâng cao chất lượng gỗ đã và đang
được quan tâm ở nhiều quốc gia trên thế giới. Theo xu hướng này, hiện
có 5
phương pháp biến tính gỗ, đó là nhiệt-cơ; nhiệt-hoá-cơ; hoá-cơ; hoá học và bức
xạhoá học. Mục đích của các phương pháp trên đều nhằm nâng cao khối lượng thể
tích và độ bền của gỗ.
Trong những năm gần đây, nhu cầu sử dụng gỗ của Việt Nam đang
tăng
nhanh, cả cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Năm 2005 kim ngạch xuất khẩu
sản
phẩm gỗ đạt 1,5 tỷ USD, theo đó Chính phủ đã xếp sản phẩm gỗ vào nhóm 10
mặt
hàng xuất khẩu chiến lược.
Tuy nhiên, hiện nay ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam đang phải đối
mặt với thực trạng thiếu nguyên liệu, hàng năm phải nhập khẩu khoảng 7080%
nguyên liệu cho nhu cầu, trong đó gỗ rừng tự nhiên quý hiếm, chất lượng cao
chiếm
tỷ lệ rất lớn.
Trong khi đó, bằng nỗ lực của các Chương trình trồng rừng, ngành
Lâm
nghiệp Việt Nam đã cung ứng được một sản lượng lớn gỗ rừng trồng. Tuy
nhiên,
bên cạnh ưu điểm tăng trưởng nhanh, có khả năng tái sinh, nhưng gỗ rừng trồng
còn
một số nhược điểm như gỗ mềm, khối lượng thể tích nhỏ, độ bền thấp.
Trong 5-10 năm tới, nguyên liệu gỗ sẽ càng khan hiếm vì các lý do sau: Một
mặt, cùng với sự phát triển nhanh của ngành công nghiệp chế biến gỗ, nhu cầu
tiêu
dùng nguyên liệu gỗ sẽ tăng. Mặt khác, do áp lực của các Tổ chức môi trường
quốc
tế, các Hiệp hội người tiêu dùng, buộc các Chính phủ phải xiết chặt quản lý hoạt
động khai thác và hạn chế xuất khẩu gỗ.
Đến nay, Việt Nam chỉ nhập khẩu 2 loại sản phẩm gỗ biến tính, đó là bạc
trục chân vịt tàu biển và tay đập thoi dệt cho ngành dệt. Nhưng chúng tôi cho
rằng,
nhu cầu sử dụng gỗ biến tính ở Việt Nam trong những năm tới là rất lớn, bởi vì
nguồn nguyên liệu gỗ rừng tự nhiên, trong đó có các loại gỗ quý phục vụ chế
biến
sản phẩm mộc truyền thống, mộc xây dựng, mộc cao cấp ngày càng khan hiếm.
Vì vậy, việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ biến tính gỗ nâng cao chất
lượng và độ bền gỗ rừng trồng là yêu cầu cấp bách đặt ra, góp phần nâng cao
chất
lượng gỗ rừng trồng, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu liệu gỗ.
1.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vấn đề nghiên cứu trong đề tài này là hai quá trình hoá dẻo và nén ép thuộc
lĩnh vực sản xuất gỗ nén.
Những năm 1930, các nhà khoa học Nga đã nghiên cứu nén ép gỗ tạo ra thoi
dệt và tay đập của máy dệt. Sau đó, họ đã sử dụng phương pháp này để tạo ra
những
chi tiết truyền động có khả năng chịu mài mòn, tự bôi trơn... Tuy nhiên,
theo
phương pháp này, gỗ nén không ổn định hình dạng, luôn có xu thế đàn hồi trở
lại.
Để khắc phục hiện tượng này, các nhà khoa học đã nghiên cứu đưa vào gỗ các
hoá
chất dưới dạng monome hoặc polyme. Năm 1936, một số nhà khoa học Nga đã
đưa
vào gỗ dung dịch Bakelit 5-10%.
Cũng khoảng những năm 1930, gỗ nén đã được nghiên cứu và ứng dụng tại
một số nước phát triển như: Nga, Đức, Mỹ, Nhật, Trung Quốc…để tăng độ bền
tự
nhiên của gỗ bằng phương pháp nén ép tăng khối lượng thể tích gỗ sau khi đã
hoá
dẻo bằng nhiều phương pháp khác nhau.
Về mặt ứng dụng, Đức là nước đầu tiên sản xuất ra gỗ nén vào những năm
1930 và bán ra sản phẩm Lignstone làm thoi dệt, tay nắm công cụ, ống sợi…
Đầu năm 1932, tại Nga có hai giải pháp tăng tính chất cơ lý của gỗ bằng
phương pháp nén ép. Trong đó có phương pháp nén ép kết hợp việc làm nóng
gỗ ở
trong môi trường hơi nước bão hoà hoặc gỗ được tẩm trước, gỗ được xử lý
trong
môi trường độ ẩm cao để hoá mềm. Các nhà khoa học của trường Đại
học
Varonhezơ và các Nhà máy chế tạo máy ở Varonhezơ đã dựa vào
phương pháp
Khukhrenxki tạo ra phương pháp nén ép gỗ sản xuất các chi tiết máy.
Tác giả V.A. Bazenova [19] nhận xét, Viện Công nghiệp rừng Leningrat đã
tạo ra lý thuyết và ứng dụng gỗ tự nén.
Những năm 1950, một số nhà máy ở Thượng Hải, Bắc Kinh, Trung Quốc bắt
đầu nghiên cứu sản xuất các chi tiết gỗ uốn cong. Nhà máy đồ mộc Thượng Hải
đã
xuất khẩu ghế gấp uốn cong với khối lượng lớn.
Những năm gần đây, Trường Đại học Lâm nghiệp Nam Kinh – Trung Quốc
đã nghiên cứu uốn gỗ kết hợp hóa mềm bằng dòng điện cao tần, sử dụng kỹ
thuật
xử lý bằng hóa chất và định hình uốn cong gỗ.
Gỗ nén có nhược điểm là kích thước không ổn định trong môi trường ẩm, dễ
hút ẩm đàn hồi trở về trạng thái ban đầu. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên
cứu
về quá trình tạo gỗ nén, nhưng hiện tượng đàn hồi trở lại vẫn chưa được xử lý
triệt
để và cần được tiếp tục nghiên cứu theo nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo V. G. Matveeva [21, tr.24], khi tăng tỷ xuất nén, độ bền của gỗ sẽ tăng
lên mà không phụ thuộc vào phương pháp nén, với tỷ suất nén tối đa, độ bền
của gỗ
tăng nhanh.
Các nhà khoa học Mỹ, Trung quốc đã nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian
ép, độ ẩm gỗ, nhiệt độ, áp lực ép đối với mức độ đàn hồi của gỗ nén.
Kết quả
nghiên cứu cho thấy, khi nén ép ở nhiệt độ 170-180
o
C (nhiệt độ thuỷ tinh hoá biến
đổi), lignin được hoá dẻo và linh động, giảm nội ứng suất và gỗ nén tương đối
ổn
định kích thước.
Các nước phát triển đã sử dụng nhiều phương pháp từ đơn giản đến phức tạp
để hoá dẻo gỗ trước khi (hoặc đồng thời) nén ép định hình như: hấp luộc; gia
nhiệt
- Xem thêm -