MỤC LỤC
Lời cam đoan
ii
Lời cảm ơn
iii
Mục lục
iv
Danh mục chữ viết tắt
vii
Danh mục bảng
viii
Danh mục hình
x
MỞ ĐẦU
1
1
Đặt vấn đề:
1
2
Mục đích và yêu cầu của đề tài
3
2.1 Mục đích
3
2.2 Yêu cầu
3
2.3 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong và ngoài nước
4
1.1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở Ngoài nước
4
1.1.2 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong nước.
9
1.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trong và ngoài nước.
13
1.2.1 Các phương pháp gieo, cấy lúa ở Việt Nam
13
1.2.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trên thế giới.
15
1.2.3 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay ở Việt Nam
18
1.3 Ảnh hưởng của mật độ cấy đến năng suất lúa.
20
1.3.1 Kết quả nghiên cứu về mật độ cấy lúa trên thế giới.
20
1.3.2 Kết quả nghiên cứu về mật độ cấy lúa ở Việt Nam.
23
Chương 2 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
29
2.1 Vật liệu, thời gian, địa điểm nghiên cứu.
29
2.1.1 Vật liệu nghiên cứu
29
2.1.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
29
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv
2.2 Nội dung nghiên cứu
30
2.3 Phương pháp nghiên cứu
30
2.3.1 Thu thập số liệu thứ cấp
30
2.3.2 Bố trí thí nghiệm.
30
2.3.3 Chăm sóc thí nghiệm
34
2.3.4 Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
35
2.3.5 Phương pháp xử lý số liệu.
37
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
39
3.1 Đánh giá thực trạng áp dụng cơ giới hóa các khâu sản xuất lúa trong
những năm gần đây tại huyện Thường Tín
39
3.1.1 Điều kiện nông hóa thổ nhưỡng và thời tiết làm thí nghiệm
39
3.1.2 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Thường Tín có liên
quan đến sản xuất nông nghiệp nói chung và cây lúa nói riêng
41
3.1.3 Thực trạng áp dụng cơ giới hóa các khâu sản suất lúa huyện
Thường Tín trong những năm gần đây
43
3.2 Ảnh hưởng của việc bổ sung phân bón đến sinh trưởng của mạ khay
46
3.2.1 Ảnh hưởng của việc bổ sung đạm đến sinh trưởng của mạ khay
46
3.2.2 Ảnh hưởng của việc bổ sung lân đến sinh trưởng của mạ khay.
51
3.2.3 Ảnh hưởng của bổ sung đạm, lân kết hợp đến sinh trưởng của mạ khay.
55
3.2.4 Ảnh hưởng của việc bổ sung dinh dưỡng tro bếp, lân và kali vào
bùn mương đến sinh trưởng của mạ khay.
64
3.3 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến sinh
trưởng và năng suất lúa xuân
69
3.3.1 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến chỉ
tiêu sinh trưởng
69
3.3.2 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến chỉ
tiêu sinh lý
72
3.3.3 Ảnh hưởng số dảnh cấy/ khóm của phương thức cấy máy đến các
chỉ tiêu năng suất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
78
Page v
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
88
1
Kết luận
88
2
Kiến nghị
89
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
90
0
Page vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CS
Cộng sự
CT
Công thức
KLTLCK
Khối lượng tích lũy chất khô
MC
Máy cấy
NN & PTNT
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
NSLT
Năng suất lý thuyết
NSTT
Năng suất thực thu
SDC
Số dảnh cấy
TBNN
Trung bình nhiều năm
TGHT
Thời gian hoàn thành
TGST
Thời gian sinh trưởng
TLHC
Tỷ lệ hạt chắc
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TSC
Tuần sau cấy
NSG
Ngày sau gieo
TT
Thứ tự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii
DANH MỤC BẢNG
Số bảng
Tên bảng
Trang
1.1
Tốc độ sử dụng máy cấy lúa ở Nhật Bản
5
1.2
Mức độ cơ giới hóa khâu cấy lúa ở Nhật Bản
5
1.3
Sản lượng máy cấy qua các năm của Nhật Bản
6
1.4
Số lượng máy cấy và diện tích lúa cấy máy của Hàn Quốc
7
1.5
Số lượng máy cấy được sử dụng hàng năm của Đài Loan
8
1.6
Tốc độ phát triển các Trung tâm sản xuất mạ khay tại Đài Loan
17
3.1
Một số đặc điểm nông hóa thổ nhưỡng đất làm thí nghiệm
39
3.2
Điều kiện thời tiết khí hậu thí nghiệm
40
3.3
Diện tích một số loại cây trồng chính
42
3.4
Diện tích, năng suất, sản lượng lúa huyện Thường Tín
43
3.5
Hiện trạng áp dụng cơ giới hóa khâu sản xuất lúa huyện Thường Tín
44
3.6
Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến chiều cao cây mạ
47
3.7
Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến sinh trưởng của rễ
48
3.8
Ảnh hưởng của các mức bón đạm đến TGHT lá mạ
50
3.9
Ảnh hưởng của các mức bón lân đến chiều cao cây mạ
51
3.10 Ảnh hưởng của các mức bón lân đến sinh trưởng của rễ
53
3.11 Ảnh hưởng của các mức bón lân đến TGHT lá mạ
54
3.12a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm, lân đến chiều cao mạ khay
55
3.12b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến chiều cao mạ khay
57
3.13a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm, lân đến số lượng rễ mạ khay
58
3.13b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến số lượng rễ mạ
59
3.14a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm, lân đến chiều dài rễ mạ khay
60
3.14b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến chiều dài rễ
61
3.15a Ảnh hưởng riêng rẽ của đạm đến TGHT lá mạ khay
63
3.15b Ảnh hưởng tương tác của đạm và lân đến TGHT lá mạ khay
64
3.16 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến chiều cao cây
65
3.17 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến số lượng rễ mạ
66
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii
3.18 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến chiều dài rễ mạ
68
3.19 Ảnh hưởng của tro bếp, lân, kali đến TGHT lá
69
3.20a Ảnh hưởng của nơi thí nghiệm đến khả năng đẻ nhánh
70
3.20b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến khả năng đẻ nhánh
71
3.21a Ảnh hưởng của nơi làm thí nghiệm đến chỉ số diện tích lá
73
3.21b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến chỉ số diện tích lá
73
3.22a Ảnh hưởng của nơi làm thí nghiệm đến khối lượng chất khô
75
3.22b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến khối lượng chất khô
77
3.23a Ảnh hưởng của nơi làm thí nghiệm đến các yếu tố cấu thành năng
suất và năng suất
79
3.23b Ảnh hưởng của số dảnh cấy/ khóm đến các yếu tốcấu thành năng
suất và năng suất
3.24 Hoạch toán hiệu quả kinh tế
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
80
85
Page ix
DANH MỤC HÌNH
Số hình
Tên hình
Trang
1.1
Máy cấy Nhật Bản
6
1.2
Máy cấy Hàn Quốc
7
1.3
Máy cấy lúa Trung Quốc
9
1.4
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng máy cấy lúa (tháng 7/1960)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
10
Page x
MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề:
Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của nước
ta và nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước Châu Á, nó có vai trò rất quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp, khoảng 40% dân số trên thế giới sống bằng lúa
gạo, sử dụng lúa gạo làm nguồn lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2
khẩu phần thức ăn hàng ngày. Lúa gạo có ảnh hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới
tập trung tại các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, do vậy chúng có vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh lương thực và ổn định xã hội.
So với nghề trồng lúa ở các nước châu Á, nghề trồng lúa ở Việt Nam có lịch
sử lâu đời nhất. Theo các tài liệu khảo cổ ở Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... cây
lúa đã có mặt từ 3000 - 2000 năm trước công nguyên, cùng với sự phát triển của
khoa học kỹ thuật cũng như những chính sách đổi mới trong quản lý nông nghiệp,
nghề trồng lúa nước ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Từ một nước thiếu lương
thực trầm trọng trong những năm chiến tranh, đến nay nền nông nghiệp của nước ta
đã không chỉ sản xuất đủ lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn
xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới, đưa Việt Nam trở thành nước xuất
khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới sau Thái Lan.
Tuy nhiên, do dân số tăng nhanh, quá trình đô thị hoá phát triển mạnh, thêm
vào đó là sự biến đổi khí hậu, diện tích đất bị sa mạc hóa, đất nhiễm mặn tăng…
làm diện tích đất trồng lúa ngày càng thu hẹp nên vấn đề lương thực vẫn là yêu cầu
cấp bách phải quan tâm trong những năm trước mắt và lâu dài. Để đảm bảo nhu cầu
lương thực trong nước và xuất khẩu cần nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật như:
giống, mật độ, bón phân, thuốc bảo vệ thực vật… nhằm tăng năng suất, hiệu quả
trồng lúa trên đơn vị diện tích.
“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa” là câu nói được nhân dân ta truyền lại từ
đời này qua đời khác, nó không chỉ áp dụng trong trồng lúa mà còn được áp dụng
cho nhiều loại cây trồng nông nghiệp khác.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1
Sản xuất lúa nước là một nghề đã có từ lâu đời ở Việt Nam, xong kỹ thuật
sản xuất vẫn mang nặng theo tập quán của vùng miền. Miền Bắc thì gieo mạ rồi nhổ
cấy, Miền Nam thì gieo thẳng. Cả hai phương pháp đều có những thuận lợi, khó
khăn nhất định; lúa cấy phải nhổ mạ, khi đó cây mạ bị đứt rễ, dập thân, chậm bén rễ
hồi xanh; gieo thẳng chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố thời tiết và chế độ nước, dẫn
đến tốn giống nhưng hiệu quả thấp.
Để dần khắc phục những ảnh hưởng hạn chế trên, công nghệ mạ khay máy cấy
ra đời và đang được nhân rộng trong ngành sản xuất lúa ở Việt Nam cũng như trên
Thế Giới. Bước đầu cho thấy, áp dụng sản xuất mạ khay có nhiều ưu điểm rõ rệt: mạ
phát triển đồng đều, dễ chăm sóc, ít chịu tác động của thời tiết bất thuận, giảm nước
tưới, giảm sâu bệnh, giảm công nhổ mạ, cây mạ khi cấy không bị đứt rễ, dập thân, lúa
nhanh bén rễ hồi xanh, có thể sản xuất tập trung và mang tính công nghiệp, giá thành
thấp hơn so với làm mạ dược. Mặt khác, trên thị trường có nhiều loại máy cấy sử
dụng mạ khay, ít loại máy sử dụng mạ dược, đồng thời mạ khay máy cấy giải phóng
được sức lao động, đẩy nhanh được tiến độ cấy lúa trong khung thời vụ tốt nhất, góp
phần đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp. Xong mạ khay cần được sản xuất đại
trà với quy mô lớn và trong điều kiện nhà có mái che, cây mạ sinh trưởng trong điều
kiện thiếu ánh sáng nên mạ mềm, yếu, dễ bị gẫy, nát khi có va chạm, không đảm bảo
khi gặp điều kiện bất thuận ngoài đồng ruộng. Không những thế mạ khay còn là khái
niệm mới với nhiều người nông dân, do vậy việc bổ sung dinh dưỡng là rất cần thiết
giúp mạ sinh trưởng tốt, góp phần hoàn thiện quy trình sản xuất mạ khay trong khâu
cơ giới hóa nghề trồng lúa. Bên cạnh đó việc xác định mật độ (số dảnh) cấy lúa
bằng máy hợp lý cũng là một biện pháp kỹ thuật quan trọng; mật độ cấy hợp lý sẽ
tạo nên cấu trúc quần thể tốt, góp phần nâng cao hiệu suất quang hợp, khai thác tối
ưu lượng bức xạ mặt trời và dinh dưỡng trong đất nhằm phát huy tối đa tiềm năng
sinh trưởng quần thể ruộng lúa, nâng cao năng suất trên đơn vị diện tích.
Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng
bổ sung dinh dưỡng tới sinh trưởng mạ khay và mật độ cấy lúa bằng máy đến
sinh trưởng, năng suất lúa xuân tại Thường Tín, Hà Nội” .
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Xác định loại phân, lượng phân bón bổ sung phù hợp cho mạ khay và số dảnh/
khóm cấy bằng máy phù hợp cho sảnxuất lúa xuân tại huyện Thường Tín, góp phần
hoàn thiện qui trình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa.
2.2. Yêu cầu
- Đánh giá được thực trạng áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất lúa tại huyện
Thường Tín.
- Đánh giá ảnh hưởng bổ sung phân bón đến sinh trưởng của mạ khay.
-Đánh giá ảnh hưởng số dảnh/ khóm của phương thức sử dụng mạ khay cấy
máy đến sinh trưởng, năng suất lúa xuân tại huyện Thường Tín.
2.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu tiếp theo về công nghệ sản xuất mạ khay và mật độ cấy
lúa bằng máy ở nước ta.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở để phổ biến quy
trình kỹ thuật sản xuất mạ khay công nghiệp, góp phần đưa cơ giới hóa vào sản suất
lúa nhằm giảm chi phí, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong và ngoài nước
1.1.1 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở Ngoài nước
Trên thế giới, một số nơi có nền sản xuất lúa nước phát triển như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan, quá trình sản xuất lúa được cơ giới hóa hoàn
toàn, từ khâu làm đất, cấy đến thu hoạch, mang tính đồng bộ cao. Để có thể ứng
dụng khâu thu hoạch bằng máy tuốt trên cây lúa, khâu cấy phải đảm bảo khoảng
cách hàng tiêu chuẩn, ruộng đất phải quy hoạch tốt, hệ thống thủy lợi đầu tư đầy đủ,
kế hoạch sản xuất phải được thiết lập đảm bảo cho việc ứng dụng máy móc một
cách đồng bộ và triệt để.
Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới nghiên cứu và phát minh ra máy cấy.
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XVIII Nhật Bản đã nghiên cứu và chế tạo thành
công những chiếc máy cấy đầu tiên, đến năm 1960 số lượng máy cấy lên đến hơn 300
chiếc (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Trước đây do phương thức canh tác lúa cổ truyền là mạ dược nên Nhật Bản
đã mất nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, phát triển cơ giới hoá việc nhổ và cấy
mạ dược. Máy cấy mạ dược đầu tiên xuất hiện năm 1964, tiếp sau đó là máy nhổ mạ
và máy rửa sạch rễ mạ. Nhưng máy cấy mạ dược không nâng cao năng suất lao
động, đến năm 1970 Nhật Bản đã ngừng sản xuất loại máy này và chuyển sang ứng
dụng máy cấy kiểu mới.
Từ năm 1960 Nhật Bản đã có hướng nghiên cứu mới là sản xuất mạ thảm và
nghiên cứu thiết kế máy cấy mạ thảm. Năm 1968 máy cấy mạ thảm đầu tiên của
Nhật ra đời. Nguyên tắc của máy cấy mạ thảm là gắp xén thảm mạ ra từng miếng
nhỏ rồi rúi xuống bùn ruộng. Do mật độ gieo mống được đều trên khay, cây mạ
mọc thẳng đứng, cứng cây, đanh rảnh nên chất lượng cấy đều, mạ không bị tổn
thương và năng suất máy cao. Năm 1971 Nhật Bản sản xuất hàng loạt máy cấy cung
cấp cho thị trường (có 2 loại là máy cấy người lái lội ruộng và máy cấy người ngồi
lái). Năm 1972 đã có 11 loại máy cấy được thông qua Sở nghiên cứu máy nông
nghiệp giám định công nhận.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4
Trong quá trình phát triển cơ giới hoá đồng bộ sản xuất lúa ở Nhật Bản.
khâu cấy lúa là khâu phát triển sau cùng nhưng lại là khâu có tốc độ phát triển
nhanh nhất.
Bảng 1.1: Tốc độ sử dụng máy cấy lúa ở Nhật Bản
Năm
Số lượng máy cấy sử
dụng (chiếc)
Năm
Số lượng máy cấy sử
dụng (chiếc)
1970
33.000
1976
1.046.000
1971
46.000
1977
1.478.000
1972
128.000
1978
1.730.000
1973
248.000
1979
2.001.000
1974
435.000
1980
1.983.000
1975
740.000
1981
1.865.000
(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Máy cấy lúa mạ thảm có nhiều loại: 2 hàng, 4 hàng người lái lội ruộng; máy
4 hàng , 6 hàng, 8 hàng người ngồi lái. Xu hướng máy cấy 2 hàng ngày càng giảm
và máy cấy 6, 8 hàng ngày càng tăng; máy cấy mạ non và máy cấy mạ trung. Máy
cấy mạ thảm bắt đầu nghiên cứu từ năm 1960, sau 8 năm nghiên cứu đến năm 1968
chiếc máy đầu tiên ra đời, sau 18 năm chuyển giao ứng dụng đến năm 1986 đã được
nông dân chấp nhận rộng rãi, với hơn một triệu chiếc cơ giới hoá làm mạ và cấy
máy đạt 80% tổng diện tích lúa. Sau đó số lượng máy cấy tiếp tục tăng để hoàn
thành cơ giới hóa làm mạ non và cấy lúa vào năm 1990(Lê Sỹ Hùng, 2005)
Bảng 1.2: Mức độ cơ giới hóa khâu cấy lúa ở Nhật Bản
Năm
Tỷ lệ cấy lúa bằng máy (%)
Chi phí cấy lúa (giờ/ha)
1970
1980
1990
1995
3
91
86
99
118
64
44
38
(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5
Hình 1.1 : Máy cấy Nhật Bản
Việc cơ giới hoá sản xuất mạ thảm và cấy lúa ở Nhật Bản luôn đi song song,
hiện nay ở Nhật Bản có khoảng 16 hãng chế tạo máy cấy, trong đó có những hãng
lớn như ISeiki, Kubuta, Yamara, Honda, Misubishi với gần 60 kiểu loại khác nhau.
Sản lượng máy cấy hàng năm hiện nay gần 100 nghìn chiếc, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Bảng 1.3: Sản lượng máy cấy qua các năm của Nhật Bản
Năm
Sản lượng
máy cấy
1990
1991
1992
1993
1994
91.000
87.000
81.000
85.000
86.000
(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Tại Hàn Quốc, lúa nước chiếm tỉ lệ diện tích lớn trong các loại cây trồng.
Hàn Quốc có 1,16 triệu ha trồng lúa (chiếm 60% diện tích đất nông nghiệp) các
trang trại của Hàn Quốc thuộc loại trang trại nhỏ, các trạng trại có diện tích trên
dưới 1 ha chiếm 60 đến 70%. Lao động nông nghiệp là 2,2 triệu người (chiếm
10,5%) và 1,44 triệu hộ nông nghiệp, trong đó 89% lao động thuần tuý và 41% bán
nông nghiệp, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Học tập Nhật Bản, Hàn Quốc cũng hoàn thành cơ giới hoá sản xuất mạ và
cấy lúa vào những năm 80. Năm 1998 Hàn Quốc có 375 nghìn máy cấy lúa, cơ giới
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6
hoá 98% diện tích. Đến nay, Hàn Quốc cũng đang áp dụng công nghệ cao trong sản
xuất mạ và cấy lúa nhằm tăng năng suất lao động, tăng năng suất lúa. Hiện nay có
5 Công ty chế tạo máy cấy, hàng năm chế tạo 40.000 máy cấy các loại, (Lê Sỹ
Hùng, 2005).
Bảng 1.4: Số lượng máy cấy và diện tích lúa cấy máy của Hàn Quốc
Năm
1977
1980
1985
1990
1996
Số lượng máy cấy
121
11.061
42.138
138.405
271.051
Diện tích cấy máy
218
66.334
270.000
1.041.000
922.000
Tỷ lệ DT cấy máy (%)
0,2
5,4
21,9
87
97
(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Hình 1.2: Máy cấy Hàn Quốc
Tại Đài Loan, cũng như Hàn Quốc là hai nước đi đầu áp dụng công nghệ
máy cấy của Nhật Bản, là nước có tiềm năng sản suất lúa nước, nền công nghiệp rất
phát triển, lao động nông nghiệp ít và ngày càng giảm nhanh, tiềm năng lao động
nông nghiệp tăng nhanh nên cơ giới hoá sản xuất mạ khay, cấy lúa được nông dân
chấp nhận và phát triển với tốc độ nhanh.
Máy cấy mạ khay của Đài Loan chủ yếu là loại máy cấy 4 hàng lội ruộng và
6 hàng người ngồi lái. Máy cấy đã được phổ biến rộng rãi trong những năm 80.
Năm 1994 Đai Loan có 80.830 máy cấy và đã cơ giới hoá hầu hết 98% diện tích cấy
lúa. Đài Loan chủ yếu nhập máy cấy của Nhật Bản và một số sản xuất trong nước.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7
Mức độ phát triển máy cấy tăng hàng năm từ 2 - 5 nghìn chiếc, (Lê Sỹ Hùng, 2005)
Bảng 1.5: Số lượng máy cấy được sử dụng hàng năm của Đài Loan
Năm
Lượng máy cấy tăng hàng năm
S lượng máy
Sản suất tại
cấy được sử
Nhập khẩu
Đài Loan
Tổng
dụng
1982
1472
4100
5572
45605
1983
25
847
4872
50477
1984
171
3746
3917
54394
1985
143
3446
3583
57977
1986
375
3058
3433
61410
1987
567
2233
2800
64210
1988
382
1894
2276
66486
1989
1040
1650
2290
69176
1990
1237
1803
3040
72216
1991
791
726
1523
73739
1992
2286
825
2678
79048
1993
1345
437
1782
80830
(Theo: Lê Sỹ Hùng, Báo cáo tổng kết đề tài cấp nhà nước, 2005)
Tại Trung Quốc, lúa được coi là cây lương thực chính. Năm 2004 tổng diện
tích trồng lúa của Trung Quốc là 29,4 triệu ha (đứng hàng thứ 2 thế giới) và sản
lượng lúa là hơn 200 triệu tấn (đứng đầu thế giới) được trồng hầu hết ở các tỉnh từ
phía Bắc xuống phía Nam. Đến nay Trung Quốc đã cơ giới hoá được hơn 1 triệu
ha, chiếm hơn 3% tổng diện tích trồng lúa và có trên 900.000 máy cấy lúa (Lê Sỹ
Hùng, 2005).
Các tỉnh phía bắc chỉ cấy một vụ lúa một năm do rét đậm về mùa đông, ở đây
ruộng rộng, người ít, bình quân 1,5- 4,5 ha/ hộ nên rất thuận tiện cho việc cơ giới hoá cấy
lúa. Tuy các tỉnh phía Bắc chỉ chiếm 10% tổng diện tích trồng lúa của Trung Quốc
nhưng tỉ lệ cơ giới hoá cấy lúa lại rất cao như tỉnh Cát Lâm tỉ lệ cấy máy là: 32,8% , tỉnh
Nội Mông tỉ lệ cấy máy là 34,8%. Các tỉnh ở phía Nam là vựa lúa chính của Trung Quốc
có thể trồng lúa được 2 vụ do mùa đông ít rét hơn nhưng ruộng đất ở đây ít và manh mún
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8
hơn phía Bắc, bình quân 0,5- 1 ha/ 1 hộ, mật độ dân cư ở đây đông cơ giới hoá cấy lúa
còn thấp, bình quân diện tích như tỉnh Giang Tô tỉ lệ cấy máy là 0,65%, tỉnh Triết Giang
0,18%, tỉnh An Khánh 0,73%, tỉnh Hồ Nam 0,36 %, tỉnh Quảng Tây 0,1 %. Còn nhiều
tỉnh có diện tích lớn nhưng vẫn chưa áp dụng cơ giới hoá khâu cấy lúa như tỉnh Quảng
Đông, Tứ Xuyên, Hà Nam, Trùng Khánh, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Trung Quốc là nước nghiên cứu máy cấy rất sớm, từ những năm 50 nhưng
chỉ nghiên cứu chế tạo máy cấy mạ dược, điển hình là máy cấy mạ dược Đông Fong
10 hàng trong những năm 60, 70 nhưng chất lượng cấy chưa tốt, năng suất cấy thấp
và vẫn phải tốn công nhổ mạ. Sau đó Trung Quốc chuyển sang nghiên cứu và chế
tạo máy cấy mạ thảm theo công nghệ của Nhật Bản, đến năm 1982 Trung Quốc đã
chọn được mẫu máy cấy mạ thảm riêng cho mình . Máy cấy lúa 6 hàng 2TZ- 9356
và máy cấy lúa 8 hàng 2 ZT-7358 của Trung Quốc là loại máy cấy lúa đơn giản hơn
nhiều so với máy cấy của Nhật Bản. Hai kiểu máy này liên tục được cải tiến và
hoàn thiện cho đến nay. Hiện nay Trung Quốc cũng đã liên doanh với một số hãng
chế tạo máy cấy của Nhật Bản như hãng Kobota, Yamaha, để chế tạo máy cấy lúa 4
hàng, 6 hàng, 8 hàng theo công nghệ chế tạo Nhật Bản ở tỉnh Giang Tô và Triết
Giang, nhưng số lượng phát triển còn hạn chế.
Hình 1.3: Máy cấy lúa Trung Quốc
1.1.2 Tình hình áp dụng máy cấy trong sản xuất lúa ở trong nước.
Năm 1960, Chiếc máy cấy Nam Ninh (Trung Quốc) được Viện Công cụ cơ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9
giới nông nghiệp thử nghiệm,
nghi
năng suất cấy bằng 15 người. Bác Hồ đã chỉ thị Viện
Công cụ cơ giớii nông nghiệp
nghi biên soạn sách, phổ biến rộng
ng rãi cho thanh niên và
nông dân miền Bắc họcc tập,
t làm theo(Nguyễn Đức Bản, 2014).
Hình 1.4: Chủ tịch
ch Hồ
H Chí Minh sử dụng máy cấy lúa (tháng 7/1960)
Viện Cơ điệnn nông nghiệp
nghi và công nghệ sau thu hoạch
ch là cơ quan đầu tiên
nghiên cứu các loạii công cụ
c cấy và máy cấy mạ dược từ đầu những
ng nă
năm 1970. Máy
cấy có động cơ cấy mạ dược
dư Đông Fong- 2S của Trung Quốc, đượ
ợc thử nghiệm ở
nhiều nơi ở miền Bắcc nhưng
như cũng không phát triển được do năng suấất cấy thấp, chất
lượng cấy chưa đảm bảo,
o, m
mạ tổn thương và bỏ nhiều khóm cấy.
Tiếpp thu công nghệ
ngh mới của Nhật Bản về máy cấy, Việnn đã
đ khảo nghiệm
máy cấy mạ khay 4 hàng người
ng
lái lội ruộng YP- 40 củaa hãng YANMAR được
nhập về từ Nhật Bản.
Năm 1979 Việnn đã
đ thiết kế cải tiến một mẫu máy cấyy lúa 8 hàng MC
MC- 8 trên
cơ sở ghép phần di động
ng đơn
đơ giản của máy cấy mạ dược Đông Fong- 2S Trung Quốc
với bộ phận của máy cấyy mạ
m thảm, máy cấy 4 hàng YP- 40 của Nhậật Bản, máy này
có kết cấu đơn giản hơn
ơn máy Nhật
Nh Bản, chất lượng cấy tốt và tăng
ng đư
được mật độ cấy
lúa tới 40 khóm/m2, phù hợp
h với mật độ cấy của nước ta. Máy cấyy MC
MC- 8 đã được
thử nghiệm và cấy thử nhiều
nhi vụ, mỗi vụ vài ha ở Viện cây lương thựcc và th
thực phẩmtỉnh Hải Dương. Đây cũng
ũng là
l đề tài mang tính chất thăm dò ban đầuu để tạo ra mẫu
máy mới và xem xét khảả năng ứng dụng của phương pháp cấy mạ bbằng công nghệ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10
sản xuất mạ thảm.
Với mục tiêu nhằm phổ biến cơ giới hoá đồng bộ các khâu sản xuất lúa nước
của Nhật Bản ở Việt Nam. Phối hợp với Bộ nông nghiệp & PTNT, Viện Cơ điện
nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch, ba Công ty sản xuất máy nông nghiệp của
Nhật Bản KUBOTA, MEIWA, MTTSHUBIHI, xây dựng mô hình trình diễn cơ giới
hoá sản xuất lúa từ năm 1991 - 1993 tại Mỹ Văn- Hải Dương. áp dụng cơ giới hoá
100% các khâu từ làm đất, thu hoạch đến làm sạch trên cánh đồng với quy mô 04 ha,
trong đó có một hệ thống thiết bị đồng bộ sản xuất mạ khay và chống rét cho mạ
khay, máy cấy lúa. Hầu hết các máy móc thiết bị vật tư, kỹ thuật phục vụ cho mô
hình này như phân bón, giống, thuốc bảo vệ thực vật được đưa từ Nhật Bản sang. Kết
quả 3 năm thí nghiệm trình diễn cho thấy: Hệ thống máy móc và thiết bị phát huy
được hiệu quả, chất lượng làm việc tốt, năng suất máy cao, năng suất lúa các vụ đều
tăng so với các khu ruộng của dân xung quanh từ 30- 40%. Nhưng sau đó hệ thống
thiết bị này không phát triển được do giá thành thiết bị máy của Nhật Bản quá đắt so
với thu nhập của người nông dân, quy trình còn tương đối phức tạp so với trình độ và
quy hoạch đồng ruộng ở nông thôn nước ta, (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Năm 1998 Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch đã tiến
hành nghiên cứu hệ thống thiết bị, quy trình công nghệ sản xuất mạ thảm và cơ giới
hoá cấy lúa thích hợp với điều kiện nước ta.
Trên cơ sở máy cấy mạ thảm 6 hàng PL- 620 của Nhật Bản, Viện đã phục
hồi và cải tiến để thu hẹp khoảng cách hàng cấy từ 30 cm xuống 25 cm và tăng mật
độ cấy lên 40 khóm/m2, mô hình được tiến hành thử nghiệm tại xã Đồng Nguyên,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Kết quả cho thấy: năng suất lúa cấy máy đều tăng
hơn cấy mạ dược từ 10- 18% (Lê Sỹ Hùng, 2005).
Ở Việt Nam máy cấy mới được áp dụng nhiều trong những năm gần đây. Mô
hình mạ khay, máy cấy mới được đưa về ứng dụng trên địa bàn nước ta một thời
gian ngắn đã cho hiệu quả rõ rệt so với phương pháp cấy tay truyền thống. Hiện
nay, tại các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ, công nghệ sản xuất mạ khay, sử dụng
máy cấy đã áp dụng như: Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Hải
Phòng, Thanh Hóa.Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2013 tổng diện tích cấy
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11
lúa của cả nước là 7.899,4 nghìn ha, tuy nhiên việc áp dụng máy cấy trong sản xuất
lúa còn hạn chế như Tuyên Quang gieo cấy được 2.346 ha, đạt 3,28% diện tích đất
gieo trồng diện tích gieo trồng của tỉnh (Tuấn Hưng, 2015)..
Cấy lúa bằng máy đã xuất hiện ở An Giang, Long An và một số tỉnh thành
khác. Khi áp dụng cấy lúa bằng máy sẽ rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây lúa ngoài
đồng khoảng 15 ngày (thời gian gieo mạ trong khay), giảm sâu bệnh và không bị lúa
lẫn. Do đó, việc cấy lúa bằng máy rất phù hợp cho các khu vực ven biển khi phải phụ
thuộc vào nguồn nước mưa (Tuấn Hưng, 2015).
Theo ông Pham Huy Thông- Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
cho biết: Đồng bằng sông Hồng là 1 trong 2 vùng trọng điểm sản xuất lúa, cũng là
cái nôi của nền văn minh lúa nước, đã được hình thành từ hàng nghìn năm. Tính
đến hết năm 2011, toàn bộ khu vực có 607.900 ha đất lúa với khoảng 1,8 triệu hộ
làm nông nghiệp, chiếm 45,4%. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình đồng ruộng không
bằng phẳng, cơ sở hạ tầng về thủy lợi chưa hoàn toàn chủ động nên quá trình sản
xuất cũng gặp nhiều khó khăn, chưa thể áp dụng cơ giới hóa đồng bộ. Thực hiện
chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, xây
dựng nông thôn mới với trọng tâm là nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã được Bộ NN&PTNT phê duyệt hỗ trợ xây
dựng mô hình cơ giới hóa trong sản xuất lúa bao gồm các mô hình cơ giới hóa từ
khâu làm đấtm gieo cấy, thu hoạch và chế biến bảo quản. Vụ xuân 2011 một số mẫu
máy cấy đã được đưa vào thử nghiệm ở khu vực Đồng bằng sông Hồng và miền
Trung, áp dụng kỹ thuật này cho hiệu quả rõ rệt, năng suất lúa tăng, giảm chi phí sản
xuất và sức lao động của nông dân. Đồng thời góp phần thúc đẩy chuyên nghiệp hóa
khâu làm mạ, xuất hiện tổ chức dịch vụ chuyên nghiệp làm mạ cung cấp cho nông
dân.Ông Phan Huy Thông, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho biết, giai
đoạn 2014 - 2016, Trung tâm sẽ đề xuất với Bộ NN&PTNT cho triển khai các mô
hình máy cấy lúa trên diện rộng. Bên cạnh đó, Trung tâm kiến nghị thành phố Hà Nội
tiếp tục có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để nông dân có thể tiếp cận vay vốn. Đề
nghị Sở NN&PTNT, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội hỗ trợ chương trình gieo mạ
khay, cấy lúa bằng máy, đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp trong những năm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12
tiếp theo.Năm 2012, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã xây dựng mô hình trình diễn
mạ khay, máy cấy với diện tích 20 ha tại 4 HTX ở 4 huyện của Hà Nội với loại máy
Kubota 1,5 mã lực, cấy 4 hàng. Năng suất cấy lúa đạt 0,8 - 1 ha/máy/ngày, tương
đương với 25 - 30 lao động. Ngoài ra, phương pháp này giúp tăng năng suất 10% so
với phương pháp truyền thống. Từ kết quả của mùa vụ năm 2011, năm 2012. Vụ
xuân 2013 Trung tâm Khuyến nông Hà Nội tiếp tục hỗ trợ mở rộng thêm 70 ha tại xã
Tân Ước (huyện Thanh Oai), xã Hồng Phong (huyện Chương Mỹ), nâng diện tích lúa
được cấy bằng máy tăng lên 1.500 ha (Hải Hà và Việt Hà, 2013)
Tại thủ đô Hà Nội, cơ giới hoá nông nghiệp đang diễn ra khá sôi động trên
tất cả các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản. Theo số liệu của Sở Nông nghiệp
Thành phố Hà Nội, năm 2013, thành phố đã đầu tư 460 máy làm đất 15 mã lực và
195 máy làm đất 24 mã lực, nâng tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu làm đất từ 69,22% lên
85,1%; 78 máy gặt đập liên hợp, đưa tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu thu hoạch lúa từ
7,8% lên 10,1%; 167 máy cấy, nâng tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu cấy lúa từ 0,04%
lên 1,64%… Thành phố phấn đấu đến năm 2016, mục tiêu đưa tỷ lệ cơ giới hóa
trong khâu làm đất của Hà Nội đạt 90%, gieo cấy đạt 20%, gặt đập 30%, phun thuốc
trừ sâu đạt 40%,... với nguồn kinh phí hơn 1.100 tỷ đồng (Tuấn Hưng, 2015).
Thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn,
ngành nông nghiệp đặt ra mục tiêu: Đến năm 2020, mức độ cơ giới hóa khâu làm
đất bình quân cả nước đạt trên 90%, riêng ở đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL đạt
100%; khâu gieo cấy 70%; chăm sóc 70% - 80%; thu hoạch lúa bằng máy đạt 70%,
riêng ĐBSCL 90%. Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các loại
máy sấy, phù hợp với quy mô, trình độ sản xuất, đảm bảo từ năm 2015 trở đi năng
lực sấy lúa cả nước đạt trên 12 triệu tấn/năm; chuyển giao các mẫu hình kho bảo
quản lúa, bắp quy mô thích hợp. Cơ giới hóa các khâu đạt 80%, với 20% được tự
động hóa, nâng cao năng suất lao động và kiểm soát các thông số kỹ thuật trong quá
trình bảo quản (Tuấn Hưng, 2015).
1.2 Kết quả nghiên cứu về sản xuất mạ khay trong và ngoài nước.
1.2.1 Các phương pháp gieo, cấy lúa ở Việt Nam
- Gieo vãi (gieo sạ): Gieo sạ là hạt giống được sạ trên mặt ruộng bùn nhuyễn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13
- Xem thêm -