Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết ký ức gã ăn mày của tôn ái nhân...

Tài liệu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết ký ức gã ăn mày của tôn ái nhân

.PDF
118
127
145

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 ====== PHẠM THỊ BÍCH NGỌC NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT KÝ ỨC GÃ ĂN MÀY CỦA TÔN ÁI NHÂN Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến T.S Nguyễn Thị Kiều Anh, Giảng viên, Trƣởng khoa Ngữ Văn Trƣờng ĐHSP Hà Nội 2, ngƣời đã luôn động viên, giúp đỡ chỉ bảo tận tình cho em trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Kính chúc cô luôn mạnh khỏe để có nhiều cống hiến cho nhà trƣờng và xã hội nhiều hơn nữa trong công tác giảng dạy và hƣớng dẫn các học viên cao học. Nhân dịp này em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong trƣờng và nhất là các thầy cô trong Tổ Lý luận văn học trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện cho chúng em hoàn thành khóa học. Em xin chân thành cảm ơn nhà văn Tôn Ái Nhân, ngƣời giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm những tài liệu và cung cấp cho em những hiểu biết về tác phẩm và quan điểm sáng tác của nhà văn để em thêm thuận lợi trong quá trình hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thành viên trong gia đình, các đồng nghiệp đang công tác tại trƣờng THPT Võ Thị Sáu, bạn bè đã luôn động viên khích lệ, giúp đỡ em trong suốt quá trình viết luận văn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2017 Học viên Phạm Thị Bích Ngọc LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân là nghiên cứu khoa học nghiêm túc, trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã đƣợc ghi rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 08 tháng 07 năm 2017 Học viên Phạm Thị Bích Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5 4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu ............................................................... 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 6 6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA TÔN ÁI NHÂN ........................................ 8 1.1. Khái lƣợc về nghệ thuật tự sự .................................................................... 8 1.1.1. Giới thuyết về nghệ thuật tự sự ............................................................ 8 1.1.2. Một số phƣơng diện của nghệ thuật tự sự .......................................... 10 1.1.2.1. Cốt truyện..................................................................................... 10 1.1.2.2. Nhân vật ....................................................................................... 13 1.1.2.3. Trần thuật ..................................................................................... 17 1.2. Hành trình sáng tác của Tôn Ái Nhân. ..................................................... 24 1.2.1 Những chặng đƣờng chính trong cuộc đời cầm bút............................ 24 1.2.2. Quan niệm của Tôn Ái Nhân về sáng tác nghệ thuật ........................ 27 CHƢƠNG 2. CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT KÝ ỨC GÃ ĂN MÀY CỦA TÔN ÁI NHÂN ................................. 32 2.1. Cốt truyện ................................................................................................. 32 2.1.1. Quá trình hình thành và hoàn thiện tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày ..... 32 2.1.2. Cốt truyện trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày................................... 34 2.2. Nhân vật trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày ........................................... 42 2.2.1. Khái quát về đặc điểm các nhân vật trong tiểu thuyết thời kỳ sau 1975 và tiểu thuyết của Tôn Ái Nhân trong sự biến động của lịch sử văn học ......................................................................................................... 42 2.2.2. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân ............................................................................................................. 46 2.2.2.1. Nhân vật bi kịch ........................................................................... 46 2.2.2.2. Nhân vật tha hóa .......................................................................... 63 2.2.2.3. Nhân vật tự sám hối ..................................................................... 67 2.2.2.4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Tôn Ái Nhân .............. 69 2.2.2.4.1. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua các chi tiết ngoại hình............................................................................................................ 69 2.2.2.4.2. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua nội tâm nhân vật ........ 77 CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT KÝ ỨC GÃ ĂN MÀY CỦA TÔN ÁI NHÂN ................................................... 83 3.1. Điểm nhìn trần thuật................................................................................. 83 3.1.1. Điểm nhìn bên ngoài ......................................................................... 84 3.1.2. Điểm nhìn bên trong .......................................................................... 86 3.2. Giọng điệu trần thuật ................................................................................ 89 3.2.1. Giọng điệu trân trọng, ngợi ca ........................................................... 90 3.2.2. Giọng triết lý, suy ngẫm..................................................................... 93 3.3. Ngôn ngữ .................................................................................................. 98 3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại ............................................................................ 98 3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại .......................................................................... 103 KẾT LUẬN ................................................................................................... 108 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 111 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong hàng thế kỷ qua, văn học viết về đề tài “Ngƣời lính” luôn là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều tác giả và cũng nhận đƣợc sự quan tâm của bạn đọc các thế hệ. Bởi đây là những tác phẩm nói về số phận con ngƣời trong chiến tranh, đồng thời nói lên ý chí của con ngƣời trong thời kỳ đất nƣớc có chiến tranh. Dòng văn học viết về đề tài này đã hình thành và phát triển trong lòng nền văn học cách mạng Việt Nam, từng bƣớc để lại những dấu ấn đậm nét, tạo lập đƣợc vị trí xứng đáng và đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền văn học nƣớc nhà. Không ít nhà văn đã tạo đƣợc dấu ấn với những tác phẩm ở đề tài này nhƣ: Hữu Mai, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Quang Sáng, Hồ Phƣơng, Nguyễn Thị Ngọc Hải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Xuân Thủy, Chu Thanh Hƣơng, Di Li, Phạm Thanh Khƣơng, Bạch Vân Lê Nguyên vv… Nhiều nhà văn cũng đã thành danh từ dòng văn học này: Lê Tri Kỷ, Văn Phan, Ngôn Vĩnh, Nguyễn Nhƣ Phong, Trần Diễn, trong đó có nhà văn Tôn Ái Nhân . Là nhà văn đã có gần 40 năm gắn bó với cây bút và nghiệp văn, Tôn Ái Nhân có hàng loạt bài viết chống tiêu cực sắc sảo, nhiều tác phẩm viết về số phận con ngƣời để lại những day dứt, băn khoăn trăn trong lòng ngƣời đọc. Ông đã sáng tác thành công ở nhiều thể loại nhƣ: truyện ngắn, kịch và đặc biệt là thể loại tiểu thuyết, một số tiểu thuyết của ông đã dành đƣợc những giải thƣởng cao do Hội nhà văn tổ chức. Tiêu biểu nhƣ: Trinh sát Hà Nội (1976) - Giải thưởng văn học Hồ Gươm 5 năm (1981 - 1986), Tìm em trong hoàng hôn(1990) - Giải thưởng Bộ nội vụ và Hội nhà văn tổ chức về đề tài “Phụ nữ Việt Nam trên mặt trận bảo vệ an ninh Tổ quốc”, Oan trái (1998) Giải thưởng văn học tuyển chọn 10 năm 1984 - 1995 về đề tài “ Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” do Bộ Nội vụ và Hội nhà văn Việt Nam tặng 2 năm 1995… Tất cả đều khẳng định tài năng, tâm huyết của nhà văn khi viết về con ngƣời. Nhà văn đã viết các tác phẩm để thể hiện sự trân trọng đối với những con ngƣời đã có những đóng góp lặng thầm cho cuộc kháng chiến dành Độc lập cho dân tộc - họ là những con ngƣời rất dũng cảm kiên cƣờng trong chiến đấu, nhƣng lại rất ngƣời trong cuộc sống hàng ngày. Gần đây nhà văn Tôn Ái Nhân có viết cuốn tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày. Phải nói rằng, đây là một cuốn tiểu thuyết đƣợc viết dƣới ánh sáng của tƣ tƣởng chính thống. Tôn Ái Nhân đã tƣớc bỏ những cái cũ, tìm tòi cái mới để trở thành một nhà văn hoàn toàn khác. Bản tụng ca ngƣời lính đƣợc viết ra ở thế kỷ 21, nghĩa là đã gần 40 năm sau khi chiến tranh đã trôi qua, mà vẫn y nguyên chất hùng ca của nó, tuy chất bi tráng cũng không phải là ít. Trong tác phẩm nhà văn không chỉ đặt ra vấn đề mang ý nghĩa dân tộc mà ở đó còn có những vấn đề mang tính nhân văn sâu sắc. Đó là vấn đề về tình yêu, hôn nhân, gia đình, những quan niệm về đạo đức xã hội. Tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày là một thành công của Tôn Ái Nhân. Tác phẩm là một cửa sổ riêng của Tôn Ái Nhân mở ra để cho ngƣời đọc nhận biết thêm một giai điệu về ngƣời lính, về những phần còn khuất lấp của chiến tranh. Tất cả những nhân vật trong truyện đều rất đáng thƣơng. Tuy hình hài đã biến dạng đi nhƣng tình yêu quê hƣơng, yêu con ngƣời, yêu đồng đội vẫn luôn bỏng cháy. Đây cũng là một thành công của Tôn Ái Nhân. Chính điều này cũng đã thu hút sự chú ý của bạn đọc. Điều này đƣợc thể hiện qua việc khi tác phẩm ra mắt độc giả, các cuốn sách đã đƣợc đón nhận rất nồng nhiệt. Một số nhà nghiên cứu đã viết và đƣa ra những ý kiến đánh giá về thuyết này, nhƣng chƣa có công trình nào mang tính chuyên biệt. Tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày là một tiểu thuyết có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật, trong đó nổi bật là“nghệ thuật tự sự”. Với mong muốn góp phần vào việc khẳng định những giá trị nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nhà văn Tôn Ái Nhân, chúng tôi chọn đề tài “Nghệ thuật tự 3 sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân” làm đối tƣợng nghiên cứu của luận văn. Nghiên cứu đề tài này, luận văn của chúng tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc khẳng định vị trí, tài năng, bản lĩnh và những cống hiến của nhà văn Tôn Ái Nhân trong sự nghiệp văn học nói chung và văn học của ngành Công an nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề Nói đến nghệ thuật tự sự là bàn đến vấn đề tài năng của các nhà văn về nhiều phƣơng diện nghệ thuật nhƣ: Ngƣời kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật, ngôn ngữ tự sự. Mỗi nhà văn sẽ có những cách thể hiện riêng biệt, đặc sắc về nghệ thuật tự sự và xem đó nhƣ phong cách nghệ thuật của mỗi ngƣời. Ở giai đoạn văn học đƣơng đại (văn học giai đoạn đổi mới sau 1986), nghệ thuật tự sự đƣợc xem nhƣ là nét đặc sắc, sự chấm phá hay đổi mới về hình thức sáng tác văn chƣơng. Để đánh giá về thành công của mỗi nhà văn trong lĩnh vực sáng tác thì việc tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật tự sự là một trong những hoạt động rất có ý nghĩa. Và đã có một số công trình nghiên cứu thành công, tạo nên giá trị cho tác phẩm đồng thời khẳng định tầm vóc của nhà văn trong nền văn học nƣớc nhà. Theo sự khảo sát của chúng tôi khi nghiên cứu về cuốn tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Nhà văn Tôn Ái Nhân, chúng tôi nhận thấy khi tác phẩm ra mắt độc giả, đã có một số tiếng nói đánh giá về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Tiêu biểu phải kể đến Mai Vũ – ngƣời đã có những đánh giá rất chặt chẽ về giá trị của tác phẩm. Mặc dù bài viết của Mai Vũ đã nêu ra những thành công về việc xây dựng nhân vật, thành công trong việc tạo dựng không khí sử thi về chiến tranh, về con ngƣời trong cuộc chiến đấu khốc liệt với kẻ thù, tạo nên giọng 4 điệu ngợi ca về ngƣời lính, đồng thời Mai Vũ cũng nêu rõ những hạn chế trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày, nhƣng khi đọc tác phẩm chúng tôi nhận thấy đó mới chỉ là những nét khởi thảo, chƣa hoàn chỉnh vì vậy trong luận văn này chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu sâu hơn về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết. Bên cạnh bài viết của Mai Vũ trên tranghttp://trannhuong.net/tin-tuc, còn có những ý kiến đánh giá mang tính chất cá nhân của nhà văn Ma Văn Kháng. Khi đƣợc gặp trực tiếp nhà văn Ma Văn Kháng ông đã có những chia sẻ rất tích cực về tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của nhà văn Tôn Ái Nhân. Ma Văn Kháng cho rằng: Tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày không chỉ có ý nghĩa về mặt tư tưởng mà cũng có những giá trị nhất định về mặt nghệ thuật. Nó thể hiện được sự đổi mới của nhà văn Tôn Ái Nhân trong hành trình sáng tác của ông. Từ những tác phẩm có quy mô vừa phải và bàn đến những vấn đề trong cuộc sống đời thường sau chiến tranh như Oan trái…đến những vấn đề của người chiến sỹ điệp báo trong Tìm em trong hoàng hôn. Tôn Ái Nhân đã nói đến những vẫn đề lớn lao trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Đã có biết bao chàng trai cô gái đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho quê hương đất nước, thậm chí họ đã nằm lại nơi chiến trường xưa không một ai biết đến. Và còn biết bao vấn đề có tính chất thời đại chiến tranh đã được nhà văn phản ánh trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày. Về mặt nghệ thuật, nhà văn Ma Văn Kháng cũng khẳng định: Tôn Ái Nhân đã sử dụng thành công nghệ thuật tự sự. Từ cách xây dựng cốt truyện, đến tổ chức các tình tiết diễn biến con đường đời của nhân vật để thể hiện triết lý nhân sinh quan của tác giả về chiến tranh, về cuộc sống con người trong chiến tranh. Ông cũng cho rằng cái độc đáo và đặc sắc trong tác phẩm này chính là cách xây dựng cốt truyện và cách xây dựng hệ thống nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm. Không giống như những nhà văn khác, Tôn Ái Nhân không tạo ra những nhân 5 vật tư tưởng, trầm tư, nhiều triết lý mà các nhân vật của ông là các nhân vật có thật ngoài đời đi vào tác phẩm rồi tạo nên tính khái quát cao. Ở đâu đó ta đều bắt gặp những con người ấy. Rất giản dị đời thường nhưng vô cùng dũng cảm, làm nên lịch sử. Nhƣ vậy, hầu hết các đánh giá đều thống nhất rằng tác phẩm của Tôn Ái Nhân nói chung và tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày nói riêng đều có những đóng góp cho thể loại tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở những đánh giá trên luận văn của chúng tôi tiếp tục đi sâu tìm hiểu về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày để có một cái nhìn toàn diện hơn về tiểu thuyết của Tôn Ái Nhân nói chung và tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày nói riêng trong dòng chảy văn học Việt Nam thời kỳ này. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân nhằm những mục đích sau: Chỉ ra đƣợc những nét đặc sắc về phƣơng diện nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày. Thấy đƣợc những đóng góp và những nỗ lực của Tôn Ái Nhân trong sáng tạo nghệ thuật nói chung và tiểu thuyết nói riêng. 4. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chủ yếu đi sâu vào khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân trong góc độ nghệ thuật tự sự. Bên cạnh đó chúng tôi sẽ có những so sánh sơ lƣợc về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân với một số tiểu thuyết khác của ông để khẳng định những thành công về nghệ thuật tự sự của Tôn Ái Nhân trong cuốn tiểu 6 thuyết này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ khoa học của đề tài, luận văn vận dụng tổng hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu sau: Phƣơng pháp hệ thống, cấu trúc: Luận văn sử dụng phƣơng pháp này nhằm mục đích tạo sự liên kết chặt chẽ, logic khoa học. Phƣơng pháp so sánh – đối chiếu: Phƣơng pháp này chúng tôi sử dụng nhằm mục đích so sánh, đối chiếu các luận điểm trong vấn đề nghiên cứu hay giữa vấn đề nghiên cứu trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày với các tác phẩm khác cùng thể loại. Qua đó sẽ khẳng định đƣợc nét đặc sắc về nghệ thuật tự sự của nhà văn Tôn Ái Nhân nói chung và cụ thể là tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày. Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp: Sử dụng phƣơng phân phân tích – tổng hợp chủ yếu là để đi sâu khám phá từng yếu tố, khía cạnh cấu thành nghệ thuật tự sự của nhà văn Tôn Ái Nhân trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày, nhƣng đồng thời cũng có cái nhìn tổng quát về nghệ thuật tự sự của nhà văn. Phƣơng pháp tiểu sử: Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng phƣơng pháp tiểu sử để tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn chƣơng của nhà văn Tôn Ái Nhân. Qua đó khẳng định vị thế của nhà văn trong lịch sử phát triển văn học của thời đại mới. Phƣơng pháp loại hình: Vận dụng những nguyên tắc loại hình học vào nghiên cứu tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân để hiểu rõ hơn các khái niệm liên quan đến nghệ thuật tự sự . Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi còn sử dụng các thao tác tƣ duy bổ trợ cần thiết cho các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phân tích, tổng hợp, chứng minh, giải thích, hệ thống… nhằm mục đích làm sáng tỏ vấn đề một cách rõ ràng, thuyết phục. 7 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng Chƣơng 1. Khái lƣợc chung về nghệ thuật tự sự và hành trinh sáng tác của Tôn Ái Nhân Chƣơng 2. Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân Chƣơng 3. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Ký ức gã ăn mày của Tôn Ái Nhân. 8 CHƢƠNG 1 KHÁI LƢỢC CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT TỰ SỰ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA TÔN ÁI NHÂN 1.1. Khái lƣợc về nghệ thuật tự sự 1.1.1. Giới thuyết về nghệ thuật tự sự Khi đề cập về sự xuất hiện của thể loại tự sự, Roland Bathes cho rằng khi lịch sử đƣợc ý thức thì đã có tự sự hay tự sự xuất hiện cùng bản thân lịch sử loài ngƣời. Tuy nhiên, tự sự chỉ thực sự trở thành một ngành khoa học nghiên cứu độc lập vào những thập niên 60 dƣới sự ảnh hƣởng trực tiếp của trƣờng phái Cấu trúc luận Pháp. Từ đó, cách gọi Tự sự học cấu trúc luận ra đời. Và mãi cho đến 1969, công trình nghiên cứu Ngữ pháp Chuyện mười ngàn ngày của nhà nghiên cứu Pháp T. Todorov (ngƣời gốc Bungari, một trong những đại diện lớn của Cấu trúc luận Pháp) ra đời. Công trình này đã mang ý nghĩa khai sinh tên gọi Tự sự học trong giới nghiên cứu. Tự sự giai đoạn những thập niên 60 đến những thập niên 80 của thế kỉ trƣớc đƣợc xem là Tự sự học kinh điển. Và Tự sự học kinh điển đã trở thành một trào lƣu nghiên cứu rộng rãi, trong đó các học giả Pháp đƣợc xem là những ngƣời giữ vai trò tiên phong. Bởi vì có nhiều khái niệm nền tảng, một số mô thức lí thuyết của tự sự học kinh điển bắt nguồn từ Cấu trúc luận Pháp. Ở Mỹ những thập niên từ 70 đến 80, là giai đoạn bƣớc đầu thịnh hành của tự sự học và cũng chỉ là sự kế thừa về Cấu trúc luận của Pháp. Đến thập niên 90, Mỹ đã trở thành trung tâm của nghiên cứu tự sự học quốc tế, bƣớc sang giai đoạn hậu kinh điển. Năm 2000, Brain Richardson, một nhà tự sự học đã dự đoán trên tạp chí Văn thể (Style) của Mỹ: “Lí luận tự sự đang đạt tới một tầm cao mới toàn diện hơn”. Lí luận tự sự rất có khả năng sẽ chiếm địa vị trung tâm trong nghiên cứu văn học khi mà những hệ hình phê bình vốn từng có vị trí chủ đạo bắt đầu suy yếu đi cùng lúc mô thức phê bình mới đang thịnh hành dần lên. So với Mỹ, tự 9 sự học Anh vẫn đƣợc coi là còn “chậm tiến”. Dẫu rằng, Tự sự Anh cũng có hai ấn phẩm: Bách khoa toàn thƣ lí luận tự sự học (Routledge xuất bản) và Chỉ nam lí luận tự sự học (Blackwell xuất bản) nhƣng trên thực tế chủ yếu là các nhà tự sự học đƣợc mời từ Mỹ thực hiện. Ở Trung Quốc thì lí thuyết về tự sự học bắt đầu đƣợc giới thiệu về những thập niên 80 của thế kỉ trƣớc, và cuối thập niên 80 thì đã đạt tới đỉnh cao. Ở Việt Nam, ngay từ những buổi đầu giới thiệu, tiếp nhận, cũng nhƣ dịch thuật tự sự học thì việc xác định thuật ngữ hay chọn cách dùng khái niệm tƣơng đƣơng nhƣ thế nào, là một cố gắng nhất định của giới nghiên cứu. Trong tình hình một số thuật ngữ quan trọng trong quá trình nghiên cứu nhƣ: tự sự, tự sự học, trần thuật, diễn ngôn, văn bản, thoại ngữ,... mà chúng ta đang sử dụng hiện tại đều là từ Hán Việt. Vì vậy, việc tham khảo các học giả Trung Quốc có lẽ là một cách có ích. Trong Tự sự học, GS Trần Đình Sử có nói: “Chúng ta hãy xây dựng cho mình một hệ thống thuật ngữ tiếng Việt về tự sự học” [27; tr.21]. Bên cạnh đó, Ông còn nói thêm: “Ngay thuật ngữ Narratology người Trung Quốc hiện nay vẫn có hai cách dịch. Tự sự học và Tự thuật học (tự = kể, thuật = kể). Khái niệm “tự thuật học” tương đương với “tự sự học”, nhưng trọng tâm có lúc có phần khác nhau. “Tự thuật học” nghiêng về nghiên cứu phương diện hành vi kể, lời kể, còn “tự sự học” nghiên cứu cả hai mặt: hành vi lời kể và cấu trúc tự sự” [27; tr.21]. Và GS Trần Đình Sử đã chọn tên gọi lĩnh vực nghiên cứu Narratology là Tự sự học chức không phải là Trần thuật học nhƣ các nhà nghiên cứu khác cùng đồng tình. Ngƣợc lại, các nhà nghiên cứu khác cho rằng có thể gọi tự thuật học củaTrung Quốc là trần thuật học bởi thuật ngữ tự thuật trong tiếng Trung Quốc, cụ thể là trong ngữ cảnh nhất định của lý luận văn học có nội dung hàm nghĩa tƣơng đƣơng với thuật ngữ trần thuật trong tiếng Việt Nam. Có những lí do khác nhau để giải thích cho quan niệm về cách gọi tự sự học hay trần thuật 10 học, nhƣng chúng tôi thống nhất với cách gọi lĩnh vực nghiên cứu Narratology là Tự sự học. Nhƣ vậy, Tự sự học chính là lĩnh vực khoa học nghiên cứu về nghệ thuật của các tác phẩm thuộc thể loại tự sự. Nó là hệ thống lý thuyết có nội hàm nghiên cứu sâu rộng, bao gồm nhiều thành phần của nghệ thuật tự sự. 1.1.2. Một số phương diện của nghệ thuật tự sự 1.1.2.1. Cốt truyện Vấn đề cốt truyện từ lâu đã là đối tƣợng nghiên cứu của tự sự học trong việc tìm ra cấu trúc đích thực của tác phẩm văn xuôi. Bàn về vấn đề này đã có nhiều công trình nghiên cứu đi sâu tìm hiểu nhƣ: Vấn đề cốt truyện in trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật của IU.M.Lotman, Cốt truyện (Những yếu tố của lối viết hư cấu) của A.Dibell, Sự giải thích về cốt truyện: cách sắp xếp và mục đích kể chuyện của P.Brooks… Nhìn chung, cốt truyện luôn là một yếu tố cơ bản thuộc về hình thức, là một mắt xích quan trọng tạo nên một tác phẩm tự sự. Cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu của mọi loại tác phẩm văn học. Trong các loại tác phẩm trữ tình, cốt truyện không tồn tại vì ở đây tác giả biểu hiện trực tiếp diễn biến của tình cảm, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thuật ngữ cốt truyện có nội hàm chính là "hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu của tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức vận động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch" [29]. Trong Lý luận văn học( Hà Minh Đức chủ biên), cốt truyện là hệ thống các sự kiện phản ánh những diễn biến của cuộc sống nhất là những xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó tính cách nhân vật đƣợc hình thành và phát triển trong mối quan hệ qua lại giữa chúng nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tƣ tƣởng của tác phẩm.Theo 150 thuật ngữ văn học thì Cốt truyện (tiếng Pháp: Sujet) là một phƣơng diện của lĩnh vực hình thức nghệ thuật, nó chỉ lớp 11 biến cố của hình thức tác phẩm. Chính hệ thống biến cố (tức cốt truyện) đã tạo nên sự vận động của nội dung cuộc sống đƣợc miêu tả trong tác phẩm. Nhƣ vậy, trong tác phẩm tự sự, cốt truyện có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện chủ đề, tƣ tƣởng và tạo nên sức cuốn hút của tác phẩm. Cốt truyện tạo ra một trƣờng hành động cho các nhân vật và cho phép tác giả thể hiện lý giải tính cách của chúng. Vì vậy, một tác phẩm nghệ thuật có cuốn hút ngƣời đọc hay không phụ thuộc không nhỏ vào việc xây dựng cốt truyện của nhà văn. Chất liệu cơ bản để xây dựng nên cốt truyện là các sự kiện. Các sự kiện đời sống đƣợc nhà văn tổ chức, sắp xếp lại để phản ánh diễn biến của đời sống và những xung đột xã hội một cách có nghệ thuật theo ý đồ sáng tạo của mình. Cốt truyện không chỉ là những sự kiện, biến cố xảy ra trong truyện mà cốt truyện còn dùng để chỉ tình huống truyện. Mà tình huống chính là những sự kiện có ý nghĩa quan trọng, mang tính thử thách với số phận nhân vật, đối với những đặc điểm mang tính bản chất của tính cách, ở đó buộc tính cách phải hành động, phải phơi bày diễn biến tâm lý của nó, phải bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm của nó với những tính cách khác. Nhƣ vậy, thông qua các sự kiện, biến cố, tình huống xảy ra trong truyện, nhà văn đã xây dựng đƣợc những tính cách điển hình. Do vậy, khi nghiên cứu cách tổ chức cốt truyện chính là nghiên cứu cách tổ chức, sắp xếp các tình huống, chi tiết, sự kiện để qua đó nhằm bộc lộ tính cách, khẳng định chủ đề, tƣ tƣởng của tác phẩm. Cốt truyện là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Các thành phần của cốt truyện thƣờng đƣợc nêu theo tiến trình phát triển của các sự kiện từ lúc hình thành cho đến khi kết thúc. Cốt truyện truyền thống nói chung bao gồm năm thành phần: trình bày (khai đoạn), thắt nút, phát triển, đỉnh điểm (cao trào), mở nút và kết thúc. Phần trình bày nhằm giới thiệu một cách khái quát hoàn cảnh nảy sinh xung đột chính của tác phẩm, đồng thời giới thiệu sơ lƣợc lai lịch các nhân 12 vật về lứa tuổi, nghề nghiệp… Phần thắt nút là sự xuất hiện các sự kiện đánh dấu điểm khởi đầu của một quan hệ tất yếu sẽ phát triển. Phần phát triển là toàn bộ các sự kiện thể hiện sự vận động của các quan hệ và mâu thuẫn đã xảy ra. Các sự kiện xảy ra theo trình tự tăng dần nhằm thể hiện xung đột phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. Trong phần cao trào, sự kiện đƣợc đẩy lên cao nhất, tột cùng đối với nhân vật, là sự kiện dẫn đến bƣớc ngoặt lớn lao nhất của sự phát triển của truyện. Ở giai đoạn này, các xung đột, mâu thuẫn đƣợc đẩy lên căng thẳng nhất của cốt truyện. Mở nút là sự kiện quyết định kề ngay sau cao trào. Trong phần này, nhà văn đƣa ra hƣớng giải quyết của mình trƣớc những xung đột, mâu thuẫn xuất hiện trƣớc đó. Phần kết thúc cho chúng ta thấy kết quả của xung đột đã đƣợc giải quyết. Tuy nhiên không phải bất cứ cốt truyện nào cũng bao gồm đầy đủ năm thành phần cơ bản của cốt truyện. Tuy nhiên cùng với sự đổi mới về quan niệm nghệ thuật khiến cho sự thể hiện hình thức tác phẩm cũng có nét khác biệt. Nhiều tác phẩm do xuất phát từ ý muốn chủ quan, sáng tạo của nhà văn mà tác phẩm có thể không có kết thúc bởi vì ý nghĩa của nó chính là ở chỗ không có kết thúc, không cần nói ra tất cả, đó là một bí quyết trong tình yêu cũng nhƣ trong nghệ thuật. Đặc biệt các sáng tác thời kì đổi mới thƣờng phá vỡ kiểu cốt truyện truyền thống mà sắp xếp các thành phần của cốt truyện phụ thuộc vào khả năng khái quát hiện thực cuộc sống và cách biểu hiện nó của mỗi nhà văn. Vì vậy, đi tìm hiểu yếu tố cốt truyện, chúng ta cần tránh thái độ máy móc khi phân tích. Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Do đặc trƣng về thể loại nên tiểu thuyết có thể chứa đựng trong nó sự phong phú về hiện thực cuộc sống, tái hiện trong đó nhiều tính cách đa dạng. Hiện thực trong tiểu thuyết là một thực tại cùng thời, đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản 13 thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời. Chính vì vậy, cốt truyện của tiểu thuyết không bị bó hẹp trong khuôn khổ mà có thể chứa đựng trong nó những yếu tố "thừa" so với truyện ngắn. Xuất phát từ những đặc trƣng có tính ƣu việt nên tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác. Nhƣ vậy cốt truyện trong tiểu thuyết không phải chỉ có hệ thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách mà còn thể hiện sự suy tƣ của nhân vật về thế giới, về đời ngƣời, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm… Nghiên cứu sự vận động của cốt truyện sẽ góp phần lí giải sự chuyển đổi của tiểu thuyết trong thời kì đổi mới. 1.1.2.2. Nhân vật Một trong những thành phần quan trọng của tiểu thuyết là nhân vật. Nói đến tiểu thuyết là nói đến việc xây dựng nhân vật. Vai trò, vị trí và phƣơng thức tồn tại của nhân vật trong tiểu thuyết nhƣ thế nào, luôn là vấn đề lí thuyết mà mọi nền lý luận văn học đều quan tâm lý giải. Nhân vật trong tiểu thuyết khác với nhân vật trong các thể loại khác, nhân vật của tiểu thuyết có những đặc điểm riêng mà nhân vật thuộc các thể loại khác không có đƣợc. Truyện ngắn chỉ có thể nói về nhân vật trong quỹ thời gian ngắn có những biến động lớn mà ngƣời đọc không thể hiểu từ tiểu sử, sự phát triển cụ thể của cuộc đời họ. Còn tiểu thuyết với khuôn khổ rộng lớn, vô tận về thời gian và không gian, nhà văn có thể khai thác nhân vật , miêu tả nhân vật một cách tỉ mỉ, toàn diện theo từng bƣớc của cuộc đời. Nếu ký chỉ từ một con ngƣời thực, một bối cảnh thực để xây dựng nên hình tƣợng điển hình thì tiểu thuyết lại có khả năng cùng một lúc tạo dựng đƣợc hình tƣợng điển hình từ nhiều con ngƣời, tính cách, bối cảnh khác nhau. Theo nhà nghiên cứu Trần Thanh Hiệp [14, tr.93-94] , trong tiểu thuyết vấn đề quan trọng “phải là vấn đề nhân vật”. “Ngƣời ta sẽ tìm thấy bộ mặt 14 của con ngƣời trong các nhân vật của tiểu thuyết. Trong tiểu thuyết, ngoài nhân vật còn có gì khác nữa, thời nhân vật cũng vừa là cá thể, vừa là linh hồn”. Nhân vật là linh hồn, là yếu tố không thể thiếu trong tiểu thuyết, ở nhân vật có thể là chiếc cầu nối giữa “cuộc đời thực” và “cuộc đời có vẻ thực” trong tiểu thuyết. Qua thế giới nhân vật, ngƣời đọc sẽ tìm thấy những vấn đề nhân sinh mà tác giả muốn gửi gắm, muốn chia sẻ. Trong tiểu thuyết, con ngƣời là một chủ thể trải nghiệm, đƣợc giao cho tính chủ động về tƣ tƣởng và ngôn ngữ. Tính chủ động này sẽ làm biến đổi tính chất và hình thái con ngƣời. Trong công trình Bàn về tiểu thuyết, Phạm Quỳnh có cái nhìn bao quát về tiểu thuyết truyền thống. N h â n vật trong tiểu thuyết theo tác giả “Không nhất thiết phải là người siêu bạt quần chúng, lại thường thường là những người bình thường như mọi người” [26,tr.101]. Giữa nhân vật và hoàn cảnh luôn có một quan hệ tác động lẫn nhau. Nhân vật chịu sự chi phối mạnh mẽ của hoàn cảnh, lệ thuộc vào hoàn cảnh. Đôi khi nhân vật cũng có thể làm thay đổi hoàn cảnh trong phạm vi nhất định, nhƣng hoàn cảnh vẫn giữ một vai trò quyết định trong tiểu thuyết. Hoàn cảnh ở đây đƣợc nhận thức là “vận mệnh” tác động trực tiếp đến nhân vật, quyết định số phận nhân vật. Cũng giống nhƣ phƣơng thức miêu tả của một số thể loại văn học khác, nhân vật trong tiểu thuyết đƣợc nhà văn miêu tả qua những chi tiết, những xung đột, tình tiết biến cố, những mâu thuẫn bên trong. Vì vậy nhân vật trong tiểu thuyết phải tƣơng tự với con ngƣời trong cuộc sống, nó phải là con ngƣời mang bản chất xã hội một cách chân thực khách quan, song nó lại phải có cá tính, có cuộc đời, số phận riêng, độc lập. Nhân vật trong tiểu thuyết hiện lên trọn vẹn, đầy đủ từ góc độ ngoại hình đến nội tâm, từ tình cảm đến lý trí. Ngƣời viết có thể khai thác nhân vật một cách toàn diện, tỉ mỉ, theo từng bƣớc thăng trầm của số phận. Nhân vật trong tiểu thuyết đa dạng, phong phú phát triển có quá trình, tham gia vào tình huống với nhiều hành động khác nhau nên có khả năng có 15 sức sống nội tại, tự nó tìm thấy con đƣờng đi của nó trong tác phẩm. Khi sáng tác, mỗi nhà văn thƣờng chọn cho mình một thế giới nhân vật phù hợp với sở thích, cá tính của mình để miêu tả, thể hiện. Trong tiểu thuyết, nhân vật là nơi duy nhất để tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác. Để khẳng định vấn đề này Nguyễn Đình Thi đã viết: “Vấn đề trung tâm của nghệ thuật tiểu thuyết theo tôi, là miêu tả những con ngƣời và đƣờng đi của họ trong xã hội . Ngƣời viết tiểu thuyết nghĩ mọi vấn đề đều phải thông qua các nhân vật, xuất phát từ nhân vật hơn là từ sự việc”. Một đặc điểm rất quan trọng trong tiểu thuyết hiện đại là nhân vật dƣờng nhƣ mang tính tự thân. Nhiều lúc nó vƣợt ra khỏi sự kiểm soát, sự định hƣớng ban đầu của nhà văn để đi theo qui luật của cuộc đời , số phận. Nói nhƣ Đỗ Đức Hiểu: “Nhân vật trong tiểu thuyết hiện đại không có tính cách, nói cách khác có nhiều tính cách, tức là nó luôn luôn biến động, mà bản thân nó không thể nhận biết. Nhân vật tự bộc lộ mình, tự xây dựng trong mình quá trình viết của ngƣời kể chuyện. Và chính nhà soạn văn cũng dần dần, lần mò tự khám phá ra bản thân mình qua từng trang viết”[13,tr 383]. Nhà văn chỉ có thể xây dựng nhân vật tiểu thuyết bằng chính vốn sống và sự hiểu biết về nhân vật. Và nhƣ thế, một vấn đề đặt ra trong phƣơng thức xây dựng nhân vật tiểu thuyết, là giải quyết nhƣ thế nào mối quan hệ giữa nhân vật và tác giả. Có ý kiến cho rằng nhân vật trong tác phẩm là hình ảnh của tác giả. Nhƣng cũng có ý kiến ngƣợc lại. Vấn đề này theo chúng tôi cần phải hiểu một cách linh động hơn. Là sản phẩm do nhà văn sáng tạo, nhân vật tiểu thuyết tất nhiên phải là hình tƣợng, là hiện thân tƣ tƣởng của nhà văn, Vì bản chất tiểu thuyết không có gì đố kỵ với tƣ tƣởng, miễn là tƣ tƣởng đừng thủ tiêu, đừng hút máu tƣơi và da thịt của nhân vật để chỉ còn lại những bộ xƣơng khô. Và “ở những tác phẩm lớn của nhân loại về tiểu thuyết, tƣ tƣởng cao sâu đều có cái duyên gặp đƣợc những nhân vật sống, có cá tính, mang ra
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất