TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
NGUYỄN VIỆT PHÚ
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
“CHỦ ĐỘNG ĐÁNH ĐỊCH TỪ XA”
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG QUÂN TỐNG
(1075 – 1077)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
HÀ NỘI 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH
NGUYỄN VIỆT PHÚ
NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ
“CHỦ ĐỘNG ĐÁNH ĐỊCH TỪ XA”
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG QUÂN TỐNG
(1075 – 1077)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục quốc phòng và an ninh
Người hướng dẫn khoa học
CN. Trần Ngọc Lâm
HÀ NỘI 2018
LỜI CẢM ƠN
Em xin trân thành cảm ơn thầy Thượng tá Trần Ngọc Lâm đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin trân thành cảm ơn các thầy trong Ban Giám đốc, các thầy
trong Trung tâm GDQP&AN Trường ĐHSP Hà Nội 2 đã giúp đỡ tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập, rèn luyện và hoàn thành
khóa luận tại trung tâm.
Em xin cảm ơn sự giúp đỡ, động viên, khích lệ của gia đình, bạn bè
trong lớp và người thân trong quá trình học tập, rèn luyện và hoàn thành khóa
luận cuối khóa.
Trong quá trình làm khóa luận do thời gian nghiên cứu có hạn, cho nên
khóa luận của em không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em rất mong
được sự đóng góp ý kiến của các thầy, các cô và các bạn để khóa luận tốt
nghiệp của em được hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Em xin trân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày 22 tháng 05 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Việt Phú
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu và sự
cố gắng nỗ lực của bản thân em dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy Thượng
tá Trần Ngọc Lâm.
Nội dung của khóa luận tốt nghiệp này không trùng với kết quả nghiên
cứu của các tác giả khác. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 22 tháng 05 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Việt Phú
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
1
LLVT
Lực lượng vũ trang
2
QP&AN
Quốc phòng và an ninh
3
QPTD
Quốc phòng toàn dân
4
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 2
4. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................. 2
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 2
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 2
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn ................................................................ 3
8. Kết cấu của khóa luận ............................................................................. 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN
SỰ “CHỦ ĐỘNG ĐÁNH ĐỊCH TỪ XA” TRONG CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG (1075 – 1077) ........................................ 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm của nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch
từ xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 4
1.1.2. Đặc điểm của nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ xa”. .... 5
1.2. Cơ sở hình thành Của nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch từ xa”
trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077) .......................... 6
1.2.1. Bối cảnh lịch sử ................................................................................ 6
1.2.2. Truyền thống đánh giặc giữ nước của ông, cha ta ........................... 8
1.2.3. Những kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của ông cha ta từ trước
năm 1075 – 1077......................................................................................... 9
Tiểu kết chương 1 ..................................................................................... 13
CHƯƠNG 2: NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “CHỦ ĐỘNG ĐÁNH ĐỊCH
TỪ XA” TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TỐNG
(1075 – 1077) ............................................................................................ 14
2.1. Chủ trương của nhà Lý ...................................................................... 14
2.2. Cuộc dẫn binh đánh sang đất Tống của nhà Lý năm 1075 ................ 16
2.2.1. Diễn biến ......................................................................................... 16
2.2.2. Kết quả ............................................................................................ 19
2.3. Nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch từ xa” trong kháng chiến
chống quân Tống (1075 – 1077) ............................................................... 20
2.3.1. Nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ xa” –
Tiên phát chế nhân trong kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077) 20
2.3.2. Tài năng của Lý Thường Kiệt ......................................................... 23
Tiểu kết chương 2 ..................................................................................... 26
CHƯƠNG 3: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA NGHỆ THUẬT
QUÂN SỰ ................................................................................................. 27
“CHỦ ĐỘNG ĐÁNH ĐỊCH TỪ XA” TRONG CHIẾN TRANH .......... 27
BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY ............................................................. 27
3.1. Nắm vững, đánh giá đúng tình hình, tương quan lực lượng để đưa ra
phương án tác chiến táo bạo. .................................................................... 27
3.2. Vận dụng linh hoạt các hình thức tác chiến đảm bảo bí mật, bất ngờ.
................................................................................................................... 30
3.3. Xây dựng ý chí quyết tâm cho chiến sĩ và tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế và các nước trên thế giới. ............................................................. 31
3.4. Kết hợp đấu tranh trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự, kinh tế
và ngoại giao. ............................................................................................ 33
3.5. Giữ nước ngay từ thời bình................................................................ 35
3.6. Xây dựng được tư tưởng tích cực, chủ động tiến công. .................... 36
Tiểu kết chương 3 ..................................................................................... 39
KẾT LUẬN ............................................................................................... 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 42
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vào thế kỉ XI, nhà Tống gặp phải khó khăn về kinh tế, chính trị đã
quyết định xâm lược Đại Việt để giải quyết tình hình khó khăn trong nước.
Quân và dân nhà Lý đã chủ động tiến hành các biện pháp để đối phó.
Từ thực tiễn các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược trong quá khứ
đã giành những thắng lợi vẻ vang, quân và dân nhà Lý đã kế thừa có chọn lọc
những tinh hoa về nghệ thuật quân sự của dân tộc trong lịch sử, đồng thời đã
biết vận dụng linh hoạt, phối hợp các nghệ thuật đó để hình thành nên nghệ
thuật quân sự đặc sắc, phù hợp với sức mạnh của quân và dân ta cũng như
khắc chế sức mạnh của kẻ thù, một trong những nghệ thuật quân sự đó là
“Chủ động đánh địch từ xa” – Tiên phát chế nhân.
Nhà Lý đã cử Lý Thường Kiệt làm tổng chỉ huy tổ chức kháng chiến,
Lý Thường Kiệt chủ trương tấn công trước để phòng vệ, ông đã đề ra sách
lược “Chủ động đánh địch từ xa”, tấn công trước để phòng vệ, nhằm đánh tan
ý đồ tấn công của nhà Tống.
Trong giai đoạn hiện nay, trước tình hình thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng
ta cần phải nghiên cứu những giá trị nghệ thuật quân sự mà ông cha ta đã đúc
kết nói chung, nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch từ xa” nói riêng. Từ
đó giúp chúng ta tìm ra những kinh nghiệm có giá trị sâu sắc để góp phần xây
dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài Nghệ thuật quân sự “chủ động
đánh địch từ xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
1
2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích làm rõ thêm về nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch từ
xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077).
Vận dụng một cách sáng tạo những bài học kinh nghiệm quý báu có thể
kế thừa và phát huy trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát nghệ thuật “Chủ động đánh địch từ xa” và làm rõ cơ sở hình
thành nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ xa” của quân và dân Nhà Lí
năm (1075 - 1077).
Phân tích những nét đặc sắc, kết quả việc vận dụng nghệ thuật quân sự
“Chủ động đánh địch từ xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 –
1077).
Rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu trong cuộc kháng chiến
chống quân Tống (1075 – 1077).
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ xa” trong cuộc kháng
chiến chống quân Tống (1075 – 1077).
5. Phạm vi nghiên cứu
Nghệ thuật quân sự của quân và dân nhà Lí trong cuộc kháng chiến
chống quân Tống (1075 – 1077).
6. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các biện pháp nghiên cứu
so sánh, logic, thống kê, phân tích; các phương pháp lịch sử, phương pháp
chuyên gia.
2
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa khoa học
Sau khi nghiên cứu đề tài nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ
xa” của quân và dân nhà Lý, đặc biệt là Lý Thường Kiệt chống lại quân xâm
lược nhà Tống (1075 – 1077), ta thấy được những nét đặc sắc của nghệ thuật
quân sự “Chủ động đánh địch từ xa” – Tiên phát chế nhân của quân và dân
nhà Lý, đồng thời thấy được tài cầm quân và tài năng của Lý Thường Kiệt
trong kháng chiến chống quân xâm lược Tống.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài giúp nâng cao nghệ thuật “Chủ động đánh địch từ xa” phá thế
tiến công của địch trong chiến tranh nhân dân bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các đối tượng sinh viên.
8. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận gồm phần mở đầu, 3 chương, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo:
Chương 1: Những vấn đề chung về nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch
từ xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
Chương 2: Nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch từ xa” trong cuộc kháng
chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
Chương 3: Những bài học kinh nghiệm của nghệ thuật quân sự “chủ động
đánh địch từ xa” trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc hiện nay.
3
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ “CHỦ
ĐỘNG ĐÁNH ĐỊCH TỪ XA” TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG QUÂN TỐNG (1075 – 1077)
1.1. Khái niệm và đặc điểm của nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch
từ xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm về nghệ thuật quân sự
Trong lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc từ xa xưa,
nước ta luôn phải chống lại những kẻ thù xâm lăng lớn mạnh hơn ta rất nhiều
lần. Tuy tương quan lực lượng và phương tiện là rất lớn nhưng dân tộc ta lại
có truyền thống yêu nước, tình đoàn kết keo sơn và ý chí độc lập tự do sâu
sắc. Chính trong những cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy nên dân tộc ta đã
hình thành rất nhiều những nghệ thuật quân sự độc đáo. Trải qua những bước
phát triển từ thấp đến cao, từ sơ khai đến hoàn thiện, ông cha ta đã đúc kết
được những kinh nghiệm quý báu trong kháng chiến để tạo nên những nghệ
thuật quân sự vô cùng quý giá và phù hợp với thực tiễn chiến đấu của từng
thời kì.
Theo Từ điển Bách Khoa quân sự Việt Nam “Nghệ thuật quân sự là lý
luận và thực tiễn chuẩn bị, tổ chức và tiến hành đấu trranh vũ trang. Nó
nghiên cứu các quy luật của chiến tranh và đấu tranh vũ trang, xác định những
nguyên tắc và phương pháp tiến hành các hoạt động quân sự trong chiến
tranh. Nghệ thuật quân sự được hình thành từ ba bộ phận: Chiến lược quân
sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận nghệ thuật quân sự là
một thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, trong đó chiến lược quân
sự đóng vai trò chủ đạo”.
4
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “Nghệ thuật quân sự là cách đánh, cách
dùng binh đã trở thành thông thạo, điêu luyện trong một trận chiến đấu, một
chiến dịch hay trên toàn bộ chiến trường. Nghệ thuật quân sự không có một
khuôn mẫu cụ thể nào, nó có thể biến hóa khôn lường muôn hình muôn vẻ”.
(Trích Tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự)
Như vậy có thể thấy được bản chất của nghệ thuật quân sự là hệ thống
các quan điểm về nghệ thuật về nghệ thuật quân sự và các vấn đề có liên quan
đến chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trong hoạt động quân sự của một tổ
chức, tập đoàn quân. Trong nghệ thuật quân sự bao gồm rất nhiều nghệ thuật
chiến đấu khác nhau trong phạm vi từng trận đánh hay toàn bộ cục diện của
cuộc chiến tranh. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nổi bật là nghệ thuật
quân sự chủ động đánh địch từ xa.
1.1.1.2. Khái niệm về “Chủ động đánh địch từ xa”.
Đây là một nghệ thuật quân sự độc đáo và chưa từng có tiền lệ trong
lịch sử kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nghệ thuật “Chủ
động đánh địch từ xa” – Tiên phát chế nhân là ra tay trước để giành chiếm ưu
thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng, chủ động tiến công trước để triệt
phá cơ sở chuẩn bị, làm giảm thiểu sức mạnh, ý chí và hành động xâm lược
của quân địch, tạo tiền đề cho việc giành thắng lợi trong chiến tranh. Kế "Tiên
phát chế nhân" là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần
nhất. Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn "chớp nhoáng" không cho địch kịp trở
tay, không cho dư luận phản ứng kịp. Vẫn có câu "Tiên hạ thủ vi cường" là
vậy.
1.1.2. Đặc điểm của nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ xa”.
Đây là một nghệ thuật quân sự độc đáo và cũng rất hiệu quả. Đề cao
tinh thần cảnh giác, chớp thời cơ nhưng cũng không kém phần mạo hiểm, đòi
hỏi trên dưới một lòng, nếu không sẽ khó thành công. Tuy là dẫn quân sang
5
đất Tống để đánh chặn thế mạnh của giặc, nhưng về bản chất lại không phải
là cuộc xâm lược, không có mục địch nào khác là phòng ngự chủ động, không
chiếm đất đai, không bành chướng lãnh thổ mà chỉ là đánh vào các thành trì,
kho lương thảo của địch để hạn chế phần nào thế mạnh của chúng. Cuộc Bắc
phạt này của Lý Thường Kiệt mang tính chính nghĩa, lại thu phục được lòng
dân ta, cả dân chúng nước Tống nên giành được chiến thắng rất nhanh chóng
và không gặp nhiều khó khăn cũng như không bị chống trả quyết liệt.
1.2. Cơ sở hình thành Của nghệ thuật quân sự “chủ động đánh địch từ
xa” trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1075 – 1077)
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
Sau thất bại trong lần xâm lược năm 981, nhưng nhà Tống vẫn chưa từ
bỏ âm mưu và tham vọng xâm lược nước ta để mở rộng bờ cõi. Đến khoảng
giữa thế kỉ XI, nhà Tống quyết định xâm lược Đại Việt lần nữa. Vừa nhằm
biến nước ta thành quận huyện của nhà Tống vừa nhằm giành lấy những
thắng lợi quân sự ở Đại Việt để tạo thế uy hiếp các nước Liêu và Hạ ở phía
Bắc. Một mặt, nhà Tống thực hiện chính sách hòa hoãn với hai nước Liêu, Hạ
ở phía Bắc và Tây Bắc để ổn định tình hình trong nước. Mặt khác, huy động
lực lượng từ phương Bắc với hàng vạn kỵ binh, bộ binh tinh nhuệ và quân địa
phương ở các tỉnh Nam Trường Giang; đồng thời, xuất chi một lượng lớn
công khố bảo đảm cho huấn luyện, xây dựng các căn cứ quân sự, hậu cần giáp
biên giới để tập kết lực lượng, tích trữ lương thảo, phục vụ trực tiếp cuộc
chiến tranh xâm lược Đại Việt. Lúc này số quân Tống đang tập hợp ở các căn
cứ Ung, Khâm, Liêm khoảng 10 vạn đang huấn luyện, song chưa thể đánh
ngay được vì số quân này là tân binh Hoa Nam vừa mới tuyển. Nhà Tống sẽ
rút 45 ngàn cấm binh thiện chiến ở phương Bắc đưa xuống chiến trường phía
Nam để lập đạo quân chủ lực, thì việc đó làm chưa xong.
6
Trong nước, quân và dân nhà Lý đang ra sức củng cố, ổn định đất
nước. Năm 1072 vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức mới 7 tuổi lên
thay, tức là vua Lý Nhân Tông. Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, được sự phò
tá của các đại thần Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành nên tình hình quốc gia vẫn
khá ổn định. Nắm được tình hình nhà Tống sắp sửa đem quân sang xâm lược
nước ta, Thấy được mưu đồ của giặc thôn tính nước ta ngày càng lộ rõ, triều
đình nhà Lý đã chủ động tăng cường phòng bị, củng cố lực lượng, nắm chắc
mọi động thái của địch ở phương Bắc; mở cuộc tiến công đánh bại lực lượng
quân sự, đập tan mối uy hiếp xâm phạm lãnh thổ từ phía Nam (năm 1069). Sử
sách còn ghi lại, thời nhà Lí đã chủ động đánh bại kẻ thù ở phía Nam (quân
Chiêm Thành), phá tan âm mưu liên kết của nhà Tống với Chiêm Thành.
Trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, Lí Thường Kiệt đã sử dụng biện pháp
"tiên phát chế nhân" chủ động đánh địch từ xa, tiến công trước để đẩy kẻ thù
vào thế bị động. Từ đó tạo ra thế chủ động trên chiến trường, đẩy địch vào thế
bị động chống trả, chủ quan, bắt chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Từ
đó khai thác triệt để các thế mạnh vốn có của ta, khoét sâu chỗ hiểm yếu của
địch để từ đó đi đến chiến thắng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình
trước thế địch mạnh, Lý Thường Kiệt cho rằng: “Ngồi yên đợi giặc không
bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng”. Chủ trương thực hiện
một chiến lược đánh đòn phủ đầu - Tiên phát chế nhân. Ông quyết định mở
trận tiến công quy mô sang đất Tống. Mục tiêu cụ thể của cuộc tấn công này
chính là ba thành Ung Châu , Khâm Châu, Liêm Châu (thuộc Quảng Tây
ngày nay). Đó là những điểm tập kết lương thảo, khí giới, nhân lực của quân
Tống dành cho cuộc xâm lược Đại Việt, cũng là những đầu mối giao thông
quan trọng trên tuyến đường vận chuyển của nước Tống về phía Nam. Chính
Thái úy Lý Thường Kiệt là người được giao quyền tổng chỉ huy trong chiến
dịch sống còn này.
7
1.2.2. Truyền thống đánh giặc giữ nước của ông, cha ta
Lịch sử đã đặt ra cho dân tộc ta biết bao thử thách ngặt nghèo trong quá
trình dựng nước và giữ nước. Nhưng với tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự
cường, với truyền thống đoàn kết vươn lên trong đấu tranh và xây dựng, với
tài thao lược kiệt xuất của cha ông, nhân dân ta đã vượt qua tất cả mọi trở
ngại, chiến thắng mọi kẻ thù, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Từ trong
thực tiễn chống giặc ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành nghệ thuật chiến
tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc, nghệ thuật lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch
nhiều, lấy chất lượng cao thắng số lượng đông. Trong quá trình đó, nghệ thuật
quân sự Việt Nam từng bước phát triển và được thể hiện rất sinh động trong
khởi nghĩa vũ trang, chiến tranh giải phóng, trên các phương diện tư tưởng chỉ
đạo tác chiến, mưu kế đánh giặc. Một trong những đỉnh cao nghệ thuật quân
sự đó là nghệ thuật chủ động đánh địch từ xa mà Lý Thường Kiệt đã sử dụng
để đương đầu với quân xâm lược Tống.
Giải phóng, bảo vệ đất nước là nhiệm vụ quan trọng, là mục tiêu cao
nhất của các triều đại phong kiến trong chiến tranh giữ nước. Do đó, cha ông
ta luôn nắm vững tư tưởng tiến công, coi đó như một quy luật để giành thắng
lợi trong suốt quá trình chiến tranh. Thực hiện tiến công liên tục mọi lúc, mọi
nơi, từ cục bộ đến toàn bộ, để quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi. Tư tưởng
tiến công được xem như sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị và
thực hành chiến tranh giữ nước. Tư tưởng đó thể hiện rất rõ trong đánh giá
đúng kẻ thù, chủ động đề ra kế sách đánh, phòng, khẩn trương chuẩn bị lực
lượng kháng chiến, tìm mọi biện pháp làm cho địch suy yếu, tạo ra thế và thời
cơ có lợi để tiến hành phản công, tiến công.
8
1.2.3. Những kinh nghiệm đánh giặc giữ nước của ông cha ta từ trước
năm 1075
Trong giai đoạn dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương - An Dương
Vương, nhiều truyền thống dân tộc đã được hình thành, tư duy, tư tưởng quân
sự Việt Nam xuất hiện và phát triển bước đầu. Nhân dân Văn Lang - Âu Lạc
phải liên tục chống nhiều thứ giặc, tiêu biểu là hai cuộc kháng chiến chống
Tần (thế kỷ III Tr. CN) và chống Triệu (thế kỷ II Tr. CN). Vừa dựng nước, tổ
tiên ta đã phải nghĩ đến đánh giặc, giữ nước. Qua đấu tranh với thiên tai và
địch họa, ý thức cộng đồng, ý chí chống ngoại xâm phát sinh và phát triển.
Người Việt đã rút ra được nhiều bài học, trong đó có bài học chiến thắng quân
thù xâm lược và bài học mất cảnh giác thời An Dương Vương.
Thất bại của An Dương Vương đã dẫn đến thảm họa nước ta liên tục bị
phong kiến phương Bắc từ Triệu, Hán đến Tùy, Đường đô hộ. Thời Bắc thuộc
kéo dài hơn một nghìn năm với âm mưu đồng hóa thâm độc của ngoại bang là
một thử thách hết sức nghiêm trọng đối với sự mất còn của dân tộc ta. Tư
duy, tư tưởng quân sự của ông cha ta giai đoạn này chứng tỏ người Việt từ
sớm đã có ý thức dân tộc, ý chí quật cường và tinh thần bền bỉ bảo vệ giống
nòi, tổ tiên, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa lâu đời, quyết tâm giành lại
tự do, độc lập. Tinh thần và ý chí đó được biểu hiện qua bao cuộc khởi nghĩa
và chiến tranh chống ách đô hộ, chống sự đồng hóa tàn bạo, thâm hiểm của kẻ
thù.
Sau chiến thắng Bạch Đằng (938), khi nước Đại Việt độc lập đang vươn
lên mạnh mẽ để xây dựng một quốc gia văn minh, thịnh vượng, thì ở phương
Bắc cũng xuất hiện những thế lực bành trướng, xâm lược và nạn ngoại xâm
vẫn không ngừng đe dọa. Nhân dân ta lại phải tiếp tục đánh giặc, giữ nước.
Hai nhiệm vụ dựng nước và giữ nước luôn gắn bó khăng khít với nhau. Gần
năm thế kỷ phục hưng đất nước cũng là một giai đoạn huy hoàng của lịch sử
9
dân tộc với bao thành tựu rạng rỡ của nền văn hóa Thăng Long và nhiều chiến
công hiển hách trong sự nghiệp giữ nước. Tư tưởng quân sự của ông cha ta
giai đoạn này phát triển mạnh mẽ, thể hiện nguyện vọng hòa bình, ý chí thống
nhất quốc gia, tinh thần độc lập, tự cường dân tộc và quyết tâm chiến đấu
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ non sông đất nước. Chiến công của Đinh Tiên
Hoàng dẹp yên "loạn mười hai sứ quân" chứng tỏ tư tưởng quyết không để
đất nước bị chia cắt, không để thế nước suy giảm vì sự sẻ chia. Chiến thắng
của Lê Đại Hành (981) khẳng định ý chí bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia,
tạo điều kiện cho đất nước bước vào kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Giai đoạn
Lý - Trần thể hiện tư duy, tư tưởng quân sự của ông cha ta trong việc xây
dựng và phát triển một nền binh chế và kế sách giữ nước tiến bộ của Nhà
nước Đại Việt. Biết bao quan điểm, tư tưởng quân sự độc đáo, tiến bộ xuất
hiện. Và từ đó một tổ chức quân sự với nhiều thứ quân ra đời bao gồm cấm
quân (quân triều đình), quân các đạo, lộ (quân địa phương) và dân binh,
hương binh các làng bản. Vũ khí quân sự giai đoạn này cũng vì thế có những
bước phát triển mới, từ bạch khí chuyển sang hỏa khí. Tư tưởng và nghệ thuật
quân sự đã đạt đến một đỉnh cao chói lọi, thể hiện trí tuệ, tài năng quân sự của
dân tộc ta.
Mưu là để lừa địch, đánh vào chỗ yếu, chỗ sơ hở, chỗ ít phòng bị, làm
cho chúng bị động, lúng túng đối phó. Kế là để điều địch theo ý định của ta,
giành quyền chủ động, buộc chúng phải đánh theo cách đánh của ta. Trong
các cuộc chiến tranh giải phóng, với ý chí kiên cường của dân tộc, triều đại
nhà Đinh, Tiền Lê... đã tạo được thế trận chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn
dân đánh giặc, kết hợp các cách đánh, các lực lượng cùng đánh. Trong chống
giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước, cha ông ta đã kết hợp chặt chẽ giữa quân
triều đình, quân địa phương và dân binh, thổ binh các làng xã cùng đánh địch,
làm cho lực lượng địch luôn bị phân tán, không thực hiện được hợp quân. Để
10
bảo vệ kinh thành, triều đình các thời kì đã xây dựng nhiều công trình phòng
ngự, các tuyến phòng ngự để chặn giặc, cản bước tiến của quân địch. Khi
quân địch tiến công không thành công phải chuyển vào phòng ngự, ông cha ta
đã dùng quân địa phương và dân binh liên tục quấy rối, làm cho địch mệt mỏi,
căng thẳng, tạo thời cơ cho quân đội chuyển sang phản công giành thắng lợi
hoàn toàn.
Kế sách đánh giặc của ông cha ta không những sáng tạo, mà còn hết sức
mềm dẻo, khôn khéo đó là "biết tiến, biết thoái, biết công, biết thủ". Biết kết
hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với binh vận, ngoại giao, tạo thế mạnh
cho ta, biết phá thế mạnh của giặc, trong đó tiến công quân sự luôn giữ vai trò
quyết định. Ông cha ta không những giỏi trong bày mưu, lập kế để đánh thắng
giặc trên chiến trường, mà còn thực hiện "mưu phạt tâm công", đánh vào lòng
người.
Ông cha ta đã phát triển mưu, kế đánh giặc, biến cả nước thành một
chiến trường, tạo ra một "thiên la, địa võng" để diệt địch. Làm cho "địch đông
mà hoá ít, địch mạnh mà hoá yếu", đi đến đâu cũng bị đánh, luôn bị tập kích,
phục kích, lực lượng bị tiêu hao, tiêu diệt, rơi vào trạng thái "tiến thoái lưỡng
nan". Trong tác chiến, ông cha ta đã triệt để khoét sâu điểm yếu của địch là
tác chiến ở chiến trường xa, tiếp tế khó khăn, nên đã tập trung triệt phá lương
thảo, hậu cần của địch.
Thời tiền Lê: Năm 995, hơn 100 chiến thuyền của Đại Cồ Việt đã tiến
sang bờ biển nước Tống, đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu. Đến
mùa hè năm 995, đội hương binh 5.000 người ở châu Tô Mậu (Lạng Sơn) của
Đại Cồ Việt đã tấn công vào Ung Châu rồi lui binh.
Thời nhà Lý: Năm 1022 vua Lý Thái Tổ đã sai Dực Thánh Vương đem
quân đi đánh giặc Đại Nguyên Lịch. Năm 1052 thủ lĩnh người dân tộc Tày,
Nùng là Nùng Trí Cao đưa quân vượt biên giới đánh Tống chiếm lại được
11
nhiều châu, quận. Năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho quân đánh Khâm Châu
nước Tống. Năm 1060, châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đánh vào
đất Tống nhằm cứu dân Việt bị bắt trở về.
Năm 1069, vua Lí Thánh Tông đêm quân sang đánh chiếm Chiêm
Thành, chiếm được kinh đô Vijaya, đòi là được 3 châu là Bố Chính, Ma Linh,
Địa Lý (thuộc Quảng Bình,, Quảng Trị ngày nay). Ba châu này vốn dĩ là của
nước Văn Lang thời xưa, đã trở thành lãnh thổ của Chiêm Thành trong thời kì
Bắc thuộc.
Mùa thu năm 1075, Lý Thường Kiệt đem quân vào Nam đánh Chiêm
Thành, đẩy lui được sự phá hoại của Chiêm Thành ở biên giới phía Nam,
chiếm lại những phần đất đai đã bị mất từ các thời vua trước.
12
Tiểu kết chương 1
Sự hình thành của nghệ thuật quân sự “Chủ động đánh địch từ xa” là
một tất yếu lịch sử. Nếu cứ ở yên không hành động, chờ giặc đánh sang mới
hành động thì sẽ tự đưa mình vào thế bị động. Trước sức mạnh của quân
Tống, Lý Thường Kiệt đã rất quyết đoán đưa ra kế sách đánh sang đất Tống
trước khi địch tràn vào bờ cõi. Lý Thường Kiệt đã biết tiếp thu, phát huy
những kinh nghiệm, truyền thống quý báu của các thế hệ ông cha đi trước
trong đánh giặc ngoại xâm. Từ đó đúc kết, chắt lọc những tinh hoa của nghệ
thuật quân sự để đưa ra kế sách tiến công để phòng ngự một cách chủ động,
gây bất ngờ cho triều đình Tống. Lịch sử đã cho thấy sự thành công tuyệt vời
của kế sách này. Kế sách tiên phát chế nhân này được xem như là nghệ thuật
quân sự “chủ động đánh địch từ xa”, một trong những nghệ thuật quân sự mới
mẻ và chưa có tiền lệ thời bấy giờ.
13
- Xem thêm -