1. Nhận xét về việc trả lương và đóng BHXH cho người lao động của công
ty K ( 3 điểm)?
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 3 Điều 144 BLLĐ 2012 thì người bị
tai nạn lao động sẽ được nhận bồi thường từ phía người sử dụng lao động,
mức bồi thường cụ thể được quy định tại Điều 145. Theo đó người lao động
bị tai nạn lao động mà không do lỗi của người lao động (mà cụ thể ở đây là do
sự cố bất khả kháng) và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được
công ty K bồi thường với mức như sau:
- Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy
giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động, có nghĩa là trong trường hợp này
mỗi người sẽ được trợ cấp 30 triệu (vì tiền lương theo hợp đồng là 20 triệu);
sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo hợp đồng lao
động tức 8 triệu nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;
- Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu người lao
động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người
lao động bị chết do tai nạn lao động. Như vậy, nếu người lao động trở về và bị
suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên do vụ chìm tàu thì được trợ cấp:
20 triệu x 30 = 600 triệu.
Thứ hai, bên cạnh những quyền lợi được hưởng từ phía người sử dụng
lao động, người bị tai nạn lao động trở về còn được nhận trợ cấp theo quy
định của Luật BHXH sau khi giám định mức suy giảm khả năng lao động.
- Nếu người lao động tai nạn trở về bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến
30% thì được hưởng trợ cấp một lần (khoản 1 Điều 42 Luật BHXH). Và mức
trợ cấp một lần người đó được hưởng như sau: suy giảm 5% khả năng lao
động thì được hưởng năm tháng lương tối thiểu chung, tức là = 1.050.000
đồng x 5 = 5.250.000 đồng, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng
thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung tức là 0,5 x 1.050.000 đồng = 525.000
đồng (điểm a khoản 2 Điều 42 Luật BHXH).
1
Ngoài ra họ còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã
đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng tiền
lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc
để điều trị tức là 0,5 x 2.000.000 đồng = 1.000.000 đồng, sau đó cứ thêm mỗi
năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công
đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị tức là =
0,3 x 2.000.000 đồng = 600.000 đồng (điểm b khoản 2 Điều 42 Luật BHXH).
- Nếu các thủy thủ trở về sau vụ chìm tàu bị suy giảm khả năng lao
động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng (khoản 1 Điều 43
Luật BHXH). Mức trợ cấp hằng tháng họ sẽ được hưởng như sau:
Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối
thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức
lương tối thiểu chung. Như vậy mỗi tháng họ được hưởng 30% x 1.050.00
đồng = 315.000 đồng, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì hưởng thêm 2% x
1.050.000 đồng = 21.000đ/tháng (điểm a khoản 2 Điều 43 Luật BHXH).
Ngoài khoản trợ cấp trên, hằng tháng họ còn được hưởng thêm một
khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng bảo hiểm xã hội, từ một năm trở
xuống được tính bằng 0,5% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội
của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị, tức là = 0,5% x 2.000.000
đồng = 10.000 đồng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội được
tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng
liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị, tức là = 0,3% x 2.000.000 đồng = 6.000
đồng (điểm b khoản 2 Điều 43 Luật BHXH).
2. Việc giải quyết tạm hoãn HĐLĐ của công ty K với 13 thủy thủ có hợp
pháp không? Tại sao? ( 3 điểm)
Theo Điều 35 Bô ̣ luâ ̣t lao đô ̣ng 1994 sửa đổi, bổ sung thì: Hợp đồng lao
động được tạm hoãn thực hiện trong những trường hợp sau đây:
- Người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự hoặc các nghĩa vụ công dân
khác do pháp luật quy định;
2
- Người lao động bị tạm giữ, tạm giam;
- Các trường hợp khác do hai bên thoả thuận
Bộ luật lao động 2012 đã bổ sung thêm các trường hợp tạm hoãn hợp
đồng lao động, cụ thể là:
- Người lao động phải chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt
buộc.
- Lao động nữ mang thai theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật lao
động 2012.
Theo tình huống đưa ra, có thể thấy việc Công ty K tạm hoãn thực hiện
hợp đồng lao động với 13 thủy thủ bị mất tích không thuộc trường hợp nào
theo quy định của pháp luật. Lưu ý, trong trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp
đồng lao động do thỏa thuận của hai bên phải là sự thống nhất ý chí của hai
bên tham gia quan hệ lao động cá nhân tức là người lao động và người sử
dụng lao động. Trong trường hợp này, thân nhân của 13 người lao động bị
mất tích không thể tự thỏa thuận với người sử dụng lao động về việc tạm hoãn
thực hiện hợp đồng lao động của người lao động. Như vậy, việc ngày 5 tháng
8 năm 2013 Công ty K gửi đến thân nhân của 13 người thủy thủ đang bị mất
tích “quyết định tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động”, và yêu cầu thân
nhân của 13 thủy thủ chưa có tin tức ký vào quyết định tạm hoãn là không
phù hợp với các quy định pháp luật.
Có thể bàn thêm: việc không thể thực hiện công việc theo hợp đồng lao
động của 13 thủy thủ kể trên không thuộc trường hợp ngừng việc theo quy
định tại Điều 98 Bộ luật lao động 2012 hay Điều 62 Bộ luật lao động 1994
sửa đổi, bổ sung. Tuy pháp luật không có quy định cụ thể về khái niệm ngừng
việc nhưng căn cứ vào các quy định hiện hành có thể hiểu ngừng việc là tình
trạng công việc của người lao động không thể thực hiện được do các nguyên
nhân xuất phát từ phía người sử dụng lao động hay người lao động, hoặc
nguyên nhân khách quan (sự cố điện, nước, thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, lí
3
do kinh tế… tức là những sự cố khách quan bất khả kháng) trong khi người
lao động hoàn toàn có khả năng tiếp tục thực hiện được công việc của mình.
Việc 13 thủy thủ mất tích do sự cố đắm tàu khiến công việc theo hợp đồng lao
động không thể tiếp tục được thực hiện tuy được xác định “nguyên nhân đắm
tầu là do sự cố bất khả kháng” nhưng không thuộc trường hợp ngừng việc quy
định tại Điều 98 Bộ luật lao động 2012.
Cũng cần xác định thêm, trong nhiều trường hợp do doanh nghiệp
không có đủ việc làm cho người lao động khiến người lao động phải dừng
việc tạm thời, căn cứ vào các quy định của pháp luật có thể xác định đây là
trường hợp ngừng việc và người lao động phải được trả lương. Tuy nhiên
trong tình huống này cần phân biệt:
-
Thứ nhất, nguyên nhân của việc người lao động phải ngừng việc
được xác định là do lỗi của người sử dụng lao động hay vì lí do kinh tế bởi
những nguyên nhân ngừng việc khác nhau sẽ ảnh hưởng tới tiền lương mà
người lao động được nhận trong thời gian ngừng việc. Theo ý kiến của nhóm,
trường hợp này có thể được xác định là nguyên nhân vì lí do kinh tế, bởi tình
trạng thiếu việc làm cho người lao động xảy ra ngoài mong muốn của người
sử dụng lao động và thường xuất phát từ tình hình kinh tế khó khăn, nó cũng
sẽ làm ảnh hưởng tới doanh thu của chính doanh nghiệp. Như vậy, nếu xác
định ngừng việc trong tình huống này là do lỗi của người sử dụng lao động thì
sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của người sử dụng lao động và cũng có nhiều
điểm chưa phù hợp với thực tế.
-
Thứ hai, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp không có đủ việc
làm cho người lao động thì người sử dụng lao động thường đề nghị người lao
động thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng lao động. Pháp luật không có quy định về
tiền lương trong thời gian tạm hoãn hợp đồng lao động, như vậy người sử
dụng lao động có thể không phải trả lương cho người lao động hoặc thỏa
thuận trả lương người lao động và mức lương này có thể sẽ thấp hơn mức
lương nếu người lao động phải ngừng việc vì lí do kinh tế. Do pháp luật hiện
4
nay có quy định những trường hợp tạm hoãn hợp đồng lao động theo thỏa
thuận của hai bên nên thỏa thuận tạm hoãn hợp đồng này có thể xem là không
vi phạm pháp luật, nhưng nó sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động.
3. Hãy giải quyết chế độ cho 2 người chết theo quy định của pháp luật lao
động hiện hành? (4 điểm)
5
- Xem thêm -