Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuô...

Tài liệu Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo luật hôn nhân và gia đình 2

.DOC
11
73
148

Mô tả:

A. ĐẶT VẤN ĐỀ Nuôi con nuôi trong xã hội ngày nay không phải vần đề mới mẻ mà đã tồn tại từ lâu như một tất yếu của cuộc sống. Với nhiều lý do và mục đích khác nhau mà quan hệ nuôi con nuôi đã được hình thành. Pháp luật nước ta cũng đã có những văn bản ra đời để điều chỉnh quan hệ con nuôi, trong đó không thể không kể đến Luật Hôn nhân và gia đình 2000 (Luật HNGĐ) với chương VIII qui định về con nuôi và Luật Nuôi con nuôi 2010 điều chỉnh riêng về quan hệ nuôi con nuôi này. Vậy trong hai Luật kể trên qui định như thế nào và có sự khác biệt ra sao về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi? Bài tập của em với đề tài “Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo Luật Hôn nhân và gia đình 2000 và Luật Nuôi con nuôi 2010” sẽ làm rõ hơn về vấn đề này. Bài làm của em khó tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế, do đó em luôn mong muốn được lắng nghe những góp ý quý báu từ phía các thày, cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Khái quát chung về nuôi con nuôi 1. Khái niệm nuôi con nuôi Dưới góc độ xã hội: Nuôi con nuôi là việc hoàn thành quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi trên thực tế, mà không dựa trên quan hệ huyết thống và không phải bao giờ cũng có sự thừa nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Dưới góc độ pháp lý: Luật hôn nhân và gia đình 2000 dành nguyên 1 chế định về nuôi con nuôi. Theo Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình thì: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con và con nuôi, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội”. Ngoài ra còn có Luật nuôi con nuôi 2010 qui định tại khoản 1 Điều 3 như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Ngoài việc định nghĩa về nuôi con nuôi thì Luật HNGĐ 2000 cũng như Luật nuôi con 1 nuôi 2010 còn có các qui định khác nhằm điều chỉnh những vấn đề về nuôi con nuôi như điều kiện nuôi con nuôi, thực hiện, chấm dứt việc nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan trong quan hệ nuôi con nuôi, bao gồm cả các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Như vậy, quan hệ nuôi con nuôi được sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật. Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật. QHPL nuôi con nuôi là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi, được các qui phạm pháp luật điều chỉnh. 2. Mục đích của việc nuôi con nuôi Nuôi con nuôi là một hiện tượng xã hội phổ biến và nó thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, tình yêu thương , tinh thần trách nhiệm và mối quan hệ tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con người, là biện pháp tích cực giúp đỡ trẻ em không nơi nương tựa có được mái ấm gia đình, được chăm sóc, phát triển trong điều kiện tốt nhất. Mục đích của nuôi con nuôi: Xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, đặc biệt cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. II. Nêu và lý giải những điểm khác nhau về điều kiện và hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi trong chương nuôi con nuôi theo Luật hôn nhân và gia đình 2000 và Luật nuôi con nuôi 2010. 1. Về điều kiện nuôi con nuôi Điều kiện nuôi con nuôi là những qui định cần phải có để xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi theo qui định của pháp luật a. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. a.1 Về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi: 2 - Luật HNGĐ 2000 qui định về tuổi của người được nhận làm con nuôi tại Điều 68: “Người được nhận làm con nuôi phải là người từ 15 tuổi trở xuống. Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn”. - Luật Nuôi con nuôi 2010 có sự thay đổi về tuổi của người được nhận làm con nuôi. Điều 8 luật này qui định: “Người được nhận làm con nuôi: 1.Trẻ em dưới 16 tuổi 2.Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a.Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi. b.Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi”. Luật nuôi con nuôi 2010 tăng độ tuổi của người được nhận nuôi lên mức là 16 tuổi đã phù hợp với độ tuổi của trẻ em được qui định trong luật chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em năm 2005 (theo Điều 1 của luật này, trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi). Qui định này tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn có cơ hội được nhận làm con nuôi, được sống trong môi trường gia đình với sự bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ. Với trẻ dưới 16 tuổi sẽ chưa có năng lực hành vi đầy đủ, cũng chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của mình. Việc thiết lập quan hệ nuôi con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Người trên 16 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nên ý nghĩa của việc nuôi con nuôi với người trên 16 tuổi không còn nguyên giá trị. Như vậy, trừ trường hợp qui định tại khoản 2 thì đối tượng chủ yếu của luật này là trẻ em (phù hợp mục đích của việc nuôi con nuôi, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời đảm bảo nghiêm chỉnh cam kết quốc tế.) Trường hợp ngoại lệ đối trẻ 16 đến dưới 18 nếu “được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi”, “được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi” thì vẫn thỏa mãn độ tuổi của người được nhận làm con nuôi. Điều này tạo điều kiện cho trẻ em 3 được sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống hoặc gia đình có quan hệ họ hàng. a.2 Qui định không được phép làm con nuôi hai lần. Trong khoản 2 Điều 68 Luật HNGĐ 2000 qui định: “Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng”. Cũng qui định về vấn đề này, Khoản 3 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi 2010 qui định “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ và chồng”. Cả 2 Luật trên đều qui định không được phép làm con nuôi 2 lần (A là con nuôi của B sau đó B lại cho đứa trẻ làm con nuôi của người khác). Điều đó sẽ tránh lạm dụng việc nuôi con nuôi để mua bán trẻ em và những mục đích xấu khác không kiểm soát được. Hơn nữa, mỗi đứa trẻ chỉ được nhận làm con nuôi của một người độc thân hoặc một cặp vợ chồng. Có thể thấy điều này sẽ giúp đảm bảo cho đứa trẻ về nơi ăn, chốn ở, sự hòa hợp và sự ổn định thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc, giáo dục. Nếu không sẽ khó có sự ổn định thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc, giáo dục thì sẽ khó có sự ổn định cho người con nuôi. Ngoài ra, không cho phép người đang có vợ hoặc có chồng nhận con nuôi riêng (cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng). Điều này đảm bảo cho trẻ em được cho làm con nuôi có môi trường gia đình trọn vẹn, có được sự yêu thương của tất cả các thành viên trong gia đình. b. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi. Trong Luật HNGĐ 2000, điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được qui định tại Điều 69 “Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: 1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; 2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên; 3. Có tư cách đạo đức tốt; 4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; 4 5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.” Còn Luật Nuôi con nuôi qui định về điều kiện của người nhận nuôi con nuôi tại điều 14 như sau “Điều kiện đối với người nhận con nuôi 1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; d) Có tư cách đạo đức tốt. 2. Những người sau đây không được nhận con nuôi: a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; c) Đang chấp hành hình phạt tù; d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. 3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này”. Điều kiện yêu cầu “có năng lực hành vi dân sự”, “có tư cách đạo đức tốt” đối với người nhận nuôi con nuôi hơn “hơn con nuôi 20 tuổi” trong cả hai Luật trên đã đảm bảo thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi cũng như khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi của cha mẹ nuôi. Nếu không họ sẽ không nhận thức được trách nhiệm làm cha, mẹ của họ, trong quá trình nuôi dưỡng không thể 5 đảm bảo cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích nuôi con nuôi không đạt được. Hơn thế nữa, cha mẹ có tư cách đạo đức tốt sẽ ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của đứa trẻ. Ngoài ra, cha mẹ hơn con nuôi 20 tuổi sẽ là điều kiện cần thiết cho cha mẹ nuôi có thể đảm đương các nghĩa vụ với con: đảm bảo sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng con cái và tránh lạm dụng tình dục. Khoản 4 Điều 69 Luật HNGĐ cho biết người nhận nuôi con nuôi phải “có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”, tiếp tục kế thừa điều kiện này, Luật Nuôi con nuôi 2010 qui định tại điểm c Khoản 1 Điều 14 như sau: “Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”. Như vậy, theo Luật nuôi con nuôi 2010 thì vấn đề điều kiện thực tế được qui định cụ thể hơn. Cụ thể như Luật nuôi con nuôi 2000 còn đề cập tới điều kiện về sức khỏe của người nhận nuôi con nuôi: giả dụ, nếu không có sức khỏe thì bản thân mình cũng không thể chăm sóc được thì cũng không thể chăm sóc tốt cho con nuôi được. Điều này trái với mục đích của nuôi con nuôi... Sự kế thừa Khoản 5 Điều 69 Luật HNGĐ của Luật Nuôi con nuôi còn được thể hiện thể hiện trong điểm d Khoản 2 Điều 14. Tuy nhiên, Điều 14 Luật Nuôi con nuôi đã bổ sung vấn đề mà Luật HNGĐ không có tại Khoản 3 “Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này”. Điều này hoàn toàn hợp lý bởi như vậy sẽ tạo cơ hội để đứa trẻ có một mái ấm gia đình trọn vẹn. c. Sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan Điều 71 Luật HNGĐ qui định: “Sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận làm con nuôi 1. Việc nhận người chưa thành niên, người đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự làm con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người 6 đó; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ. 2.Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó.” Liên quan tới vấn đề này, Điều 21 Luật Nuôi con nuôi qui định: “Sự đồng ý cho làm con nuôi 1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. 2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi. 3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. 4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày.” Luật Nuôi con nuôi đã kế thừa Luật HNGĐ về sự thể hiện ý chí của các bên có liên quan. Không chỉ dừng lại ở đó, Luật Nuôi con nuôi đã có những bổ sung trong khoản 2;3;4 Điều 21. Điều này mang ý nghĩa tích cực. Nếu chỉ dừng lại với sự đồng ý của cha mẹ; người giám hộ hay chính đứa trẻ đó (Trong trường hợp đứa trẻ đủ 09 tuổi trở lên) thì chưa hoàn thiện: - Khi Luật nuôi con nuôi đề cập tới vai trò của Ủy ban Nhân dân trong việc tư vấn đối với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ theo qui định tại Khoản 2 Điều 21thì từ đó giúp cha mẹ, người giám hộ của trẻ hiểu rõ các vấn đề về nuôi 7 con nuôi, những hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và có được sự suy nghĩ kĩ lưỡng về việc có nên cho trẻ làm con nuôi hay không. - Khoản 3 Điều 21 cho thấy: sự tự nguyện là cần thiết. Việc đồng ý cho con làm con nuôi sau khi sinh 15 ngày là thời gian để đứa trẻ ổn định về sức khỏe và cũng là thời gian để cha mẹ đẻ suy nghĩ kĩ hơn về việc có nên cho con làm con nuôi người khác hay không. Nhận xét: Luật Nuôi con nuôi qui định một cách cụ thể, chi tiết và rõ ràng hơn luật hôn nhân và gia đình 2000 về điều kiện nuôi con nuôi. 2. Về hậu quả pháp lý Hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi là sự phát sinh quyền và nghĩa vụ của các các bên kể từ thời điểm đăng kí nhận nuôi con nuôi. Theo qui định tại điều 74 Luật HNGĐ năm 2000, kể từ thời điểm đăng ký nuôi con nuôi, quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con nuôi được xác lập, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ cha mẹ và con theo qui định tại Luật HNGĐ. “Điều 74. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi Giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định tại Luật này, kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi. Con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng được người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt sĩ, con thương binh, con của người có công với cách mạng.” Trường hợp một người khi làm con nuôi người khác thì cha, mẹ nuôi có quyền yêu cầu thay đổi họ, tên, xác định lại dân tộc cho con nuôi: “Điều 75. Thay đổi họ, tên, xác định dân tộc của con nuôi 1. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. 8 Việc thay đổi họ, tên của con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch. 3. Việc xác định dân tộc của con nuôi được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Bộ luật dân sự.” Điều 24 Luật Nuôi con nuôi 2010 qui định về hậu quả pháp lý của việc nuôi con nuôi như sau: “1. Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc thay đổi họ, tên của con nuôi. Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ 09 tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó. 3. Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi. 4. Trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã cho làm con nuôi.” Chế định nuôi con nuôi trong Luật HNGĐ 2000 mới chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, còn quan hệ giữa cha mẹ đẻ với con nuôi thì không có qui định cụ thể; hay không qui định rõ quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và người được nhận làm con nuôi nên sẽ không xác định được rõ ràng quyền và nghĩa vụ giữa 2 bên khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập. Vì thế khi xảy ra tranh chấp sẽ không có cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết. Ví dụ: Luật không qui định rõ về quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con nuôi nên khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập sẽ không xác định được cha mẹ đẻ có quyền chăm sóc con nuôi hay không, hoặc cha mẹ đẻ có quyền quản lý tài sản của 9 con nuôi hay không và có thể xảy ra tranh chấp về tài sản của con nuôi giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi. Trong khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi đã công nhận thêm hệ quả phát sinh từ sự thỏa thuận giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, qui định cụ thể mối quan hệ giữa các chủ thể trong quan hệ giữa các bên mà trong Luật HNGĐ 2000 không có. Điều này sẽ tạo điều kiện cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi còn qui định thêm về mối quan hệ pháp lý giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi. Khi trở thành thành viên trong gia đình cha mẹ nuôi, con nuôi sẽ có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, có quyền, nghĩa vụ với thành viên khác trong gia đình cha mẹ nuôi như con đẻ. Luật nuôi con nuôi 2010 đã qui định rõ ràng hơn, tạo cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi. Ngoài ra Luật này con qui định về mối quan hệ pháp lý giữa con nuôi và các thành viên khác trong gia đình của cha mẹ nuôi về quyền và nghĩa vụ nhân thân... Nhận xét: Luật Nuôi con nuôi 2010 đã loại bỏ những hạn chế trong Luật HNGĐ 2000 về việc nuôi con nuôi. Không những vậy, Luật Nuôi con nuôi 2010 còn qui định một cách cụ thể, chi tiết và rõ ràng hơn luật hôn nhân và gia đình 2000 về điều kiện thực tế cũng như hậu quả pháp lý, tạo ra các qui phạm hoàn thiện, hợp lý hơn, đảm bảo lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi. C. KẾT LUẬN Luật Nuôi con nuôi 2000 đã qui định cụ thể, rõ ràng hơn so với chương VIII của Luật HNGĐ 2010 về vấn đề này. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số điểm mà pháp luật chưa dự liệu hết được, ví dụ như trong trường hợp người độc thân nhận nuôi con nuôi sau đó lại kết hôn thì vợ/chồng của người đó có được nhận con nuôi của chồng/vợ làm con nuôi hay không (vì Luật qui định “Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ và chồng”)... Hy vọng rằng pháp luật của nước ta về nuôi con nuôi sẽ được hoàn thiện hơn trong thời gian tới để thực tiễn áp dụng được hiệu quả và thống nhất, đáp ứng được mục đích, ý nghĩa của việc nuôi con nuôi. 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009; 2. Luật hôn nhân và gia đình Viêt Nam năm 2000; 3. Luật Nuôi con nuôi 2010; 4. Đỗ Thị Liên, Điều kiện nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam, Hà Nội, 2012; 5. Nguyễn Thị Ngọc, Một số vấn đề về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi 2010, Hà Nội, 2012; 6. Nguyễn Thị Hải, Bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ nuôi con nuôi theo pháp luật hiện hành, Hà Nội,2011; 7. Một số tài liệu tham khảo khác. 11
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan