Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luật Nêu quan điểm của hồ chí minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp...

Tài liệu Nêu quan điểm của hồ chí minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp

.DOC
9
159
95

Mô tả:

Lời mở đầu Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa biện chứng và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc – giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trên cơ sở ấy, Người đã vừa phát triển nhận thức, vừa xử lý mối quan hệ đó theo điểm mới phù hợp với những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói chung, Việt Nam nói riêng. Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nhóm chúng em đã chọn đề tài: Nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp làm đề tài nghiên cứu cho bài tập nhóm của mình. Bài viết đã có sự cố gắng tích cực của cả nhóm song vẫn không thể tránh khỏi sai sót. Chúng em rất mong nhận được ý kiến nhận xét của các thầy cô giáo. Chúng em xin chân thành cảm ơn! Nội dung I. Khái niệm về dân tộc và giai cấp: 1. Dân tộc: “Dân tộc” là một khối cộng đồng nhiều người; được hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung, biểu hiện trong một nền văn hóa chung cơ bản. Từ khi xuất hiện vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, xã hội trong dân tộc tiến theo xu hướng chính trị của dân tộc mình. Vì vậy, dân tộc là một phạm trù lịch sử - xã hội. Cũng không nên lẫn lộn dân tộc với chủng tộc, dân tộc với bộ lạc. 2. Giai cấp: 1 “Giai cấp” là những tập đoàn người đông đảo, khác nhau về địa vị của họ trong mối quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Giai cấp là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển của xã hội. Giai cấp sinh ra khi sự phân công trong xã hội xuất hiện và phát triển, khi quyền tư hữ tư liệu sản xuất xuất hiện. Từ đó hình thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột: giai cấp tư sản (giai cấp tư bản), giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,… II. Hồ Chí Minh đã kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp trong cách mạng vô sản. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc - giai cấp có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Để giải quyết mối quan hệ này trong cách mạng vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề này. Thứ nhất, vấn đề dân tộc ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường, quan điểm của một giai cấp nhất định. Chỉ có đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn được vấn đề dân tộc. Theo Mác – Lênin, mỗi thời đại sản sinh ra một giai cấp nhất định và giai cấp ấy luôn là lực lượng có vai trò to lớn đối với mọi vấn đề của dân tộc. Nếu giai cấp là lực lượng tiến lên, tiến bộ trong dân tộc sẽ thúc đẩy sự phát triển của dân tộc. Ngược lại, nếu giai cấp là lực lượng lạc hậu, trì trệ sẽ kìm hãm sự phát triển của dân tộc. Dĩ nhiên, lợi ích của giai cấp thống trị không phải lúc nào cũng thống nhất với lợi ích của dân tộc, nó thường trái ngược, đối lập với lợi ích dân tộc. Do vậy, theo Mác – Lênin chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc mới thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại. Ở Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước 2 được dẫn dắt bởi ý thức, hệ phong kiến hay tư sản nên chủ yếu vẫn dừng lại ở chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Thứ hai, theo Mác – Ănghen chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Các ông cũng đã chỉ rõ cần phải triệt để xóa bỏ tình trạng áp bức, bóc lột giai cấp mới có điều kiện xóa bỏ ách áp bức, bóc lột dân tộc, mới đem lại độc lập thật sự cho các dân tộc. Chỉ có giai cấp vô sản với bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của mình mới có thể thực hiện được điều này. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Thứ ba, Mác kêu gọi: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu” và “phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số mưu lợi ích cho khối đại đa số”. Cuối cùng, theo Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận quan trọng của cách mạng vô sản. Ông cho rằng, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Từ đó, Lênin đã bổ sung vào khẩu hiệu chiến lược của mình: “Cộng sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. III. Trên cơ sở những quan điểm của Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã đề xuất những quan điểm mới về mối quan hệ dân tộc – giai cấp: Nội dung của quan điểm mới bao gồm: Thứ nhất, các dân tộc thuộc địa trước hết phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc mình, sau đó mới có địa bàn để tiến lên làm cách mạng XHCN: Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quân điểm giai cấp nhưng đồng 3 thời đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì thế lợi ích giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc. Tháng 5 - 1941, Người cùng với Trung Ương Đảng khẳng định “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong, của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi lại được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lực của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng, chỉ khi nào dân tộc được giải phóng, thoát khỏi ách thống trị đưa dân tộc lên vị trí làm chủ đất nước, làm chủ xã hội thì mới có cơ sở để tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhân dân mới được “ấm no, tự do, hạnh phúc”. Sự phát triển đất nước theo con đường của CNXH là một đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Thứ hai, không được phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng chính quốc. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc. Chúng vừa tranh giành nhau trong viê ̣c xâu xé thuô ̣c địa, vừa liên kết nhau trong viê ̣c đàn áp phong chào đấu tranh tự giải phóng giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tô ̣c thuô ̣c địa có chung 1 kẻ thù. Nhâ ̣n thức được điều đó, từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, người cho rằng: Chủ nghĩa đế quốc là 1 con đỉa có 2 vòi, 1 vòi bám vào chính quốc, 1 vòi bám vào thuô ̣c địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả 2 vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tô ̣c ở thuô ̣c địa. Phải xem cách mạng ở thuô ̣c địa như là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản. Phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản. Người cho rằng cách mạng thuô ̣c địa không những không phụ thuô ̣c vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, vâ ̣n dụng nguyên tắc dân tô ̣c tự quyến, năm 1919 thay mă ̣t nhiều người Viê ̣t nam yêu nước tại Pháp, Người gửi tới hô ̣ nghị Vecxây 1 bản yêu nước của nhân dân n Nam gồm đ điều, đòi 4 quyền tự do dân chủ cho nhân dân Viê ̣t nam. Nhưng bản yêu sách không được để ý tới. Từ đó người đã rút ra bài học: muốn được giải phóng các dân tô ̣c chỉ có thể trông câ ̣y vào mình, trông câ ̣y vào lực lượng của bản thân. Chính vì vâ ̣y khi giải phóng dân tô ̣c phải tiến hành chủ đô ̣ng sáng tạo. Nêu cao tinh thần dân tô ̣c tự quyết và phải chịu trách nhiêm trước dân tô ̣c mình. Không được phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tự lực, tự quyết, làm hết khả năng của mình. muốn có được sự giúp đơ của các nước khác thì trước hết ta phải tự giúp lấy chính mình và trong khi thủ tiêu mô ̣t trong những điều kiê ̣n tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đơ những người anh em của mình ở phương Tây trong nhiê ̣m vụ giải phóng hoàn toàn. Thứ ba, phải dựa vào sức mạnh của mình là chính, biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hô ̣ của giai cấp vô sản và nhân dân lao đô ̣ng toàn thế giới. Sự bóc lô ̣t của chủ nghĩa đế quốc làm đồng bào ta hiểu rằng có cách mê ̣nh thì sống không cách mê ̣nh thì chết. Trong Đường cách mê ̣nh năm 192h Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã. Trong chiến tranh Hồ Chí Minh luôn nêu cao khẩu hiê ̣u: “Tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính. Mô ̣t dân tô ̣c không tự lực gánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tô ̣c khác giúp đơ thì không xứng đáng được đô ̣c lâ ̣p”. Tự giải phóng là tư tưởng quan điểm lớn, xuyên suốt của tư tương Hồ Chí Minh. Trong lời kêu gọi tới những người anh em ở thuô ̣c địa, Người viết “ nh em phải làm thế nào để được giải phóng, vâ ̣n dụng công thức của Mác chúng tôi xin nói với anh em rằng công cuô ̣c giải phóng anh em chỉ có thể thực hiê ̣n bằng sự nỗ lực của chính bản thân anh em”. Người luôn đánh giá cao chủ nghĩa yêu nước và tinh thần yêu nước dân tô ̣c đã đi tới luâ ̣n điểm: Cách mạng giải phóng dân tô ̣c cần được tiến hành chủ đô ̣ng sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và nêu cao tinh thần đem sức ta mà giải phóng cho ta. Mă ̣t khác muốn chiến thắng ngoài sức mạnh bên trong còn cần sự giúp đơ ủng hô ̣ từ bên ngoài lại còn phải có 5 đường lối độc lâ ̣p tự chủ đúng đắn tranh thủ được sự đoàn kết ủng hô ̣ của giai cấp vô sản và nhân dân lao đô ̣ng tiến bô ̣ toàn thế giới. Chính vì vâ ̣y Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở phải coi cuô ̣c đấu tranh của bạn cũng như cuô ̣c đấu tranh của ta.Người cùng mô ̣t hô ̣i mô ̣t thuyền phải giúp đơ lẫn nhau.Người đă ̣c biê ̣t coi rọng viê ̣c xây dựng khối đại đoàn kết Việt Nam-Lào-Campuchia bằng viê ̣c hình thành mă ̣t trâ ̣n đoàn kết Việt Nam-Lào-Campuchia. Để tranh thủ được sự đồng tình của nhân dân thế giới Đảng và Hồ Chí Minh đã kết hợp chă ̣t chẽ mục tiêu đấu tranh cho đô ̣c lâ ̣p, thống nhất của dân tô ̣c mình với mục tiêu của thời đại là hòa bình đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Thứ tư, có sự đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản thế giới. Mở rộng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, cách mạng của dân tộc nước thuộc địa không chỉ liên minh với giai cấp thuộc địa ở chính quốc mà còn phải có đóng góp cho cách mạng vô sản trên toàn thế giới. Như quan điểm nêu trên, chúng ta cần tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ cuả giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới để cuộc cách mạng của chúng ta diễn ra thuận lợi, vì vậy, nó phải có sự đóng góp thiết thực để thấy được sự đúng đắn trong cuộc đấu tranh giành lại quyền cơ bản cho dân tộc: Độc lập, tự do. Sự đóng góp đó sẽ là chất keo gắn kết ta với giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Mặt khác, với tư cách là một thành viên của Quốc tế thứ ba, Hồ Chí Minh phải hòa hợp được mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp thể hiện qua hình ảnh hai chiếc ghế mà Bác đã chọn. Trong một cuộc họp, một đồng chí đã chỉ vào hai chiếc ghế và nói một chiếc ghế là giai cấp, một chiếc ghế là dân tộc và hỏi Hồ Chí Minh sẽ chọn chiếc ghế nào? Bác đã thể hiện thiện chí của mình bằng cách kéo hai chiếc ghế lại với nhau và ngồi vào giữa. Câu chuyện giải thích một phần nguyên nhân tại sao quan điểm của Mác – Lênin lại được Hồ Chí Minh mở rộng. IV. Dựa trên cơ sở mối quan hệ về dân tộc – giai cấp, Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường giải phóng dân tộc và sự phát triển cho dân tộc: 6 Từ việc đề xuất những quan điểm mới của Hồ Chí Minh đó là : thứ nhất, các dân tộc thuộc địa trước hết cần phải đấu tranh giành độc lập cho dân tộc mình, sau đó mới có địa bàn đề tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, không được phép ỷ lại, ngồi chờ thắng lợi của cách vô sản chính quốc. thứ ba là phải dự vào sức mình là chính, biết tranh thủ sự đoàn kết, ủng hộ của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến bộ trên thế giới. thứ tư là có sự đóng góp thiết thực vào sự nghiệp cách mạng vô sản trên thế giới. Qua đó Hồ Chí Minh đã chỉ ra sự thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ở nước ta là do còn gắn liền với hệ tư tưởng phong kiến hay hệ tư tưởng tư sản, không có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn, chưa xác định rõ nhiệm vụ của cuộc đấu tranh là giải quyết những mâu thuẫn cơ bản nào, không có khả năng tập hợp được quần chúng. Hồ Chí Minh đã khẳng định và lựa chọn con đường đó là cách mạng giải phóng dân tộc muốn thành công phải đi theo còn đường cách mạng vô sản. Có nghĩa là: Cách mạng được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng Mác – Lênin. Hồ Chí Minh khẳng định “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Cách mạng giải phóng dân tộc phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh còn khẳng định muốn giải phóng dân tộc thành công trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi. qua đó Hồ Chí Minh chỉ ra những nhân tố cơ bản để tiến hành thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc. Về động lực, động lực lớn nhất của đất nước là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, theo đó dân tộc và giai cấp quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp luôn thống nhất với nhau và phù hợp với lịch sử của xã hội Việt Nam. Vì trong lịch sử chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn nhất của dân tộc. còn ở thời Hồ Chí Minh chủ nghĩa dân tộc đã chuyển thành chủ nghĩa dân tộc bản xứ hay còn gọi là chủ nghĩa yêu nước hiện đại. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam h hiện đại vừa kế thừa tinh thần dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nó đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân pháp và mâu thuẫn giữa công, nông với tư sản, phong kiến trong nội bộ dân tộc. Đường lối cứu nước là đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, nghĩa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở ấy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: hai giai đoạn của cách mạng ở Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản và mục tiêu giải phóng dân tộc, giai cấp, con người của cuộc cách mạng ấy. Như vậy, sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một bảo đảm vững chắc cho nên độc lập dân tộc. Mục đích của đấu tranh không chỉ cho độc lập dân tộc mình mà còn cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Với mục đích đó, ở Người chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn thông nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng sức mạnh dân tộc luôn thống nhất với sức mạnh thời đại. Lời kết Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề dân chủ để giải quyết vấn đề xã hội. Từ cơ sở tư tưởng này, Người đã tìm thấy vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng về giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người cũng xuất phát từ tưởng của sự kết hợp giữa vấn đề dân tộc vầ vấn đề giai cấp. Mưu cầu cuộc sống ấm no, tụ do, hanh phúc, dân chủ, bình đẳng, chống mọi áp bức, bất công xã hội đã mang nặng trong trái tim và khối óc của Người ngay từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. đ Danh mục tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Mạnh Tường (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh – Một số nhận thức cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009. 2. Hội đồng chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003. 3. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2005, 2009. 4. Nguyễn Bá Linh, Tư tưởng Hồ Chí Minh - Một số nội dung cơ bản, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995. 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan