MỞ BÀI
Đất là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Đối
với mỗi quốc gia, đất đai là nguồn tài nguyên, nguồn lực, và là yếu tố hàng đầu
rất quan trọng không thể thiếu. Do vậy việc quản lý và sử dụng đất là một vấn đề
hết sức quan trọng. Nhà nước ta đã có ban hành những chính sách, quy định về
việc quản lý và sử dụng đất nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định còn tồn
đọng, đặc biệt là trong vấn đề đất ở. Do đó em đã chọn đề tài: “Nêu những hạn
chế, bất cập của chính sách pháp luật hiện hành về nhà đất ở cho người dân
sinh sống ở đô thị và nông thôn? Nêu những giải pháp cơ bản nhằm khắc phục
hạn chế bất cập đó?”
NỘI DUNG
I. Khái niệm đất ở
Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam, đất là ở đất để xây dựng
nhà cửa, công trình phục vụ sinh hoạt hằng ngày, đất vườn (đất mà trên đó chưa
có nhà ở) nằm trong các khu dân cư.
Theo quy định pháp luật hiện hành, cụ thể tại điều 83 Luật đất đai năm 2003
quy định : “1. Đất ở của hộ gia đình, cá nhân tại nông thôn bao gồm đất để xây
dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ đời sống, vườn, ao trong cùng một
thửa đất thuộc khu dân cư nông thôn, phù hợp với quy hoạch xây dựng điểm dân
cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”. Cùng với đó
điều 84 Luật đất đai năm 2003 cũng quy định về đất ở tại đô thị: “1. Đất ở
tại đô thị bao gồm đất để xây dựng nhà ở, xây dựng các công trình phục vụ đời
sống trong cùng một thửa đất thuộc khu dân cư đô thị, phù hợp với quy hoạch
xây dựng đô thị đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”.
1
Từ đó ta có thể hiểu, đất ở là đất dùng để xây dựng nhà ở, các công trình phục
vụ nhu cầu ở và riêng đối với khu vực nông thôn thì bao gồm cả vườn, ao trong
cùng một thửa đất, phù hợp với quy hoạch đã được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt.
II. Nêu những hạn chế, bất cập của chính sách pháp luật hiện hành về nhà
đất ở cho người dân sinh sống ở đô thị và nông thôn
2.1. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở là một chứng thư pháp lý xác lập mối
quan hệ giữa nhà nước và người sử dụng đất, là căn cứ pháp lý xác nhận quyền
sử dụng đất của người sử dụng đất và là cơ sở pháp lý để người sử dụng đất thực
hiện các quyền của mình.
Khoản 1 Điều 105 Luật Đất đai quy định về quyền chung của người sử dụng
đất :“1. Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Đồng thời đặt ra điều
kiện để người sử dụng đất được thực hiện các quyền của mình là phải có giấy
chứng quyền sử dụng đất. Đây là quyền của người sử dụng đất, nhưng trên thực
tế quyền này của người sử dụng đất bị xem như là nghĩa vụ. Để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, người sử dụng đất phải qua nhiều thủ tục phức
tạp, vì vậy dẫn đến tiến độ triển khai việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất nhìn chung còn chậm làm ảnh hưởng đến quyền của người sử dụng đất trong
việc thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, vay vốn... Điều đó không chỉ
đang cản trở đối với người dân thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền sử
dụng đất mà còn là cơ hội để một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước trục lợi,
nảy sinh nạn trộm cắp phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm giấy
chứng nhận giả, đặc biệt là khi đang còn thiếu các chế tài xử lý vi phạm trong
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.. Theo số liệu báo cáo của Bộ Tài
nguyên môi trường thì tính đến tháng 12 năm 2011, tỷ lệ cấp giấy chứng nhận
2
quyền sử dụng đất trên phạm vi cả nước đạt 83,8% (đất ở nông thôn) và 63,5%
(đất ở đô thị).
2.2. Chế định thu hồi đất
Điều 42 luật Đất đai năm 2003 hiện hành quy định: "Người bị thu hồi loại đất
nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu
không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất
tại thời điểm có quyết định thu hồi đất". Nội dung này chưa hợp lý. Bởi lẽ, trên
thực tế tại thời điểm có quyết định thu hồi đất, người bị thu hồi đất không thể
nhận tiền bồi thường ngay do phải hoàn thiện nhiều thủ tục liên quan. Thông
thường phải mất 1-2 năm họ mới được nhận tiền bồi thường. Luật đất đai 2003
quy định nguyên tắc xác định giá đất “sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường” (khoản 1, Điều 56) và
không có bất cứ một văn bản pháp luật nào hướng dẫn cụ thể về việc thi hành
quy định này. Trên thực tế, giá đất để tính bồi thường luôn thấp hơn rất nhiều so
với giá đất trên thị trường. Bảng giá công bố tại các địa phương chỉ bằng khoảng
30% - 60% so với giá thị trường nên khi áp dụng đã gây thất thu cho ngân sách
nhà nước, làm phát sinh khiếu kiện khi bồi thường, giải phóng mặt bằng. Những
phần diện tích đất ở của người dân thường có giá trị cao, nhưng khi thu hồi lại
không đảm bảo giá đền bù phù hợp với giá thị trường khiến cho người dân bất
mãn, dẫn đến việc biểu tình, chống đối người thi hành công vụ liên tiếp diễn ra
trong thời gian qua.
2.3. Thuế nhà đất.
Thuế nhà, đất là loại thuế thu vào chủ thể trực tiếp sử dụng hoặc việc có quyền
sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Một cách chính xác, có thể gọi loại thế
này là thuế đất vì tới nay nhà nước vẫn tạm thời chưa thu thuế nhà (theo như quy
định của pháp lệnh thuế nhà, đất 1992 và pháp lệnh sửa đổi bổ sung thuế nhà đất
năm 1994). Và đến năm 2012 Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được ban
3
hành năm 2010 có hiệu lực thì cũng chưa quy định về thu thuế đối với nhà ở.
Loại thuế này không thu vào đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy
sản và đất làm muối. Căn cứ tính thuế nhà đất là diện tích đất, hạng đất và mức
thuế trên một đơn vị diện tích.
Thuế nhà đất hiện nay còn một số bất cập ảnh hướng tới chính sách đất ở của
người dân cần phải giải quyết như quy định về miễn giảm thuế. Pháp lệnh thuế
nhà đất quy định miễn thuế đối với gia đình thương binh loại 1/4, loại 2/4, gia
đình liệt sĩ được hưởng chế độ trợ cấp của nhà nước nhưng không miễn giảm đối
với các đối tượng là người có công với cách mạng như người hoạt động cách
mạng trước ngày 19/8/1945, thương binh hạng 3/4, bệnh binh 2/3, 3/3 dẫn đến
việc chưa công bằng trong qúa trình thực hiện. Phương thức thu thuế được quy
định ghi thu bằng thóc nhưng quy đổi ra tiền theo giá thóc của UBND cấp tỉnh
quy định cho từng mùa vụ, dẫn đến thiếu công bằng trong việc động viên thuế.
Có nơi miền núi cao hơn miền xuôi vì giá thóc ở miền núi trung du có khi nào
cao hơn ở vùng đồng bằng và miền xuôi, lúc thiên tai mất mùa phải nộp thuế
nhiều hơn, giá thóc trên thị trường trong từng thời điểm là khác nhau nên cũng
gây ảnh hưởng tới lợi ích của người dân khi nộp thuế.
III. Giải pháp cơ bản nhằm hạn chế, khắc phục những bất cập về chính sách
pháp luật hiện hành về nhà đất ở cho người dân sinh sống ở đô thị và nông
thôn.
Đối với vấn đề cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) chúng ta
cần phải thực hiện 1 số giải pháp sau: Về phía các địa phương trước hết cần tiếp
tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng, hiệu quả về các chính sách, Luật Đất đai,
các quy định về cấp GCNQSDĐ... đến đông đảo người dân, nhất là ở những địa
phương có tỷ lệ đạt thấp, chủ sử dụng chưa quan tâm đến công tác này. Cần tập
trung bố trí nhân lực, kinh phí, cơ sở vật chất cho nhiệm vụ cấp GCN. Cụ thể
UBND các huyện cần xem xét tăng cường thêm cán bộ, thiết bị cho văn phòng
4
đăng ký đất đai, tổ chức tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ địa chính
làm việc tại các văn phòng, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn, đồng thời hỗ
trợ những xã thiếu cán bộ, cán bộ chưa đủ kinh nghiệm, nghiệp vụ...để thực hiện
nhiệm vụ. Đối với những địa phương còn tồn đọng nhiều, những xã khó khăn...
ngoài việc đẩy mạnh tuyên truyền bổ sung, tăng cường nhân lực, phương tiện, hỗ
trợ ngân sách...; cần có hình thức triển khai thích hợp như mở chiến dịch tập
trung, huy động nhiều thành phần tham gia, tạo thuận lợi cho người dân đến làm
thủ tục hoàn thành dứt điểm, tránh dây dưa, kéo dài. Trong hoạt động cấp GCN
cần hạn chế tình trạng thiếu năng lực, trách nhiệm, cố tình dây dưa, gây phiền
hà, sách nhiễu làm ảnh hưởng đến tiến độ. Để khắc phục tình trạng này, các địa
phương đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”,
đảm bảo công khai, minh bạch, có trách nhiệm tạo thuận lợi đúng nguyên tắc,
chính sách để người dân được giải quyết nhanh chóng, kịp thời
Đối với vấn đề thu hồi đất chúng ta không nên quy định việc Nhà nước thu hồi
đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội mà chỉ quy định Nhà nước
được thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội gắn với lợi ích công
cộng, lợi ích quốc gia nhằm tránh tình trạng thu hồi đất tràn lan, gây thiệt hại cho
người có quyền sử dụng đất, vừa bảo đảm lợi ích quốc gia và nhu cầu phát triển
đất nước. Cần tách thẩm quyền về quyết định giá đất ra khỏi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất. Khi Luật đất đai đã giao
thẩm quyền quyết định về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất cho UBND cấp tỉnh
và UBND cấp huyện thì Luật đất đai cần giao thẩm quyền quyết định về giá đất
cho một hệ thống độc lập (có thể là các cơ quan ở Trung ương được tổ chức theo
ngành dọc). Cơ quan này sẽ có thẩm quyền quyết định giá đất, quy định bảng giá
đất được áp dụng trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
giải quyết khiếu nại, tranh chấp về giá đất; quyết định các tiêu chuẩn kỹ thuật về
5
định giá đất, thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ định
giá đất.
Đối với vấn đề thuế nhà đất cần phải thay đổi đối tượng chịu thuế đối với thuế
nhà, đất là đất ở, đất sản xuất kinh doanh cho phù hợp với Luật đất đai năm
2003, cùng với đó cần phải bổ sung một số đối tượng còn thiếu trong việc miễn
giảm thuế đã được nêu ở phần trên để đảm bảo công bằng giữa các đối tượng
chính sách. Phương thức thu thuế cần phải bổ sung những quy định hợp lý hơn
đảm bảo cho lợi ích của người dân không bị ảnh hưởng khi thực hiện việc nộp
thuế.
KẾT LUẬN
Những chính sách pháp luật hiện hành về đất ở cho người dân sinh sống ở khu
vực nông thôn và độ thị vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Do đó chúng
ta cần phải tìm ra những giải pháp tối ưu để giải quyết triệt để những vấn đề này,
thông qua bài phân tích của mình em mong muốn góp một phần sức nhỏ vào
công cuộc bảo vệ lợi ích cho những người dân sinh sống trên đất ở của mình. Và
mong rằng những chính sách mới sẽ hoàn thiện và không còn những hạn chế bất
cập nêu trên.
6
MỤC LỤC
MỞ BÀI..........................................................................................................1
NỘI DUNG.....................................................................................................1
I. Khái niệm đất ở........................................................................................1
II. Nêu những hạn chế, bất cập của chính sách pháp luật hiện hành về nhà đất ở
cho người dân sinh sống ở đô thị và nông thôn...........................................2
III. Giải pháp cơ bản nhằm hạn chế, khắc phục những bất cập về chính sách
pháp luật hiện hành về nhà đất ở cho người dân sinh sống ở đô thị và nông
thôn.................................................................................................................................4
KẾT LUẬN......................................................................................................................6
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. CAND, Hà Nội,
2008;
2. Viện đại học mở Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. Tư pháp, Hà Nội,
2008;
3. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật đất đai, Nxb. Đại học
quốc gia Hà Nội;
4. Luật đất đai năm 2003;
5. Pháp lệnh thuế nhà, đất năm 1992;
6. Pháp lệnh sửa đổi bổ sung thuế nhà, đất năm 1994;
8
- Xem thêm -