TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGÔ THỊ THOA
MOTIP HÓA THÂN
TRONG TRUYỆN CỔ GRIM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học nƣớc ngoài
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Ths. ĐỖ THỊ THẠCH
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Đƣợc sự phân công của khoa Ngữ Văn Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà
Nội 2, và sự đồng ý của cô giáo hƣớng dẫn ThS. Đỗ Thị Thạch giúp tôi thực
hiện đề tài “Motip hóa thân trong truyện cổ Grim”.
Để hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo đã tận tình hƣớng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và rèn luyện ở Trƣờng Đại Học Sƣ Phạm Hà Nội 2.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo hƣớng dẫn ThS. Đỗ Thị Thạch đã tận
tình, chu đáo hƣớng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do buổi đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, cũng nhƣ
hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không thể tránh khỏi những thiếu
sót nhất định mà bản thân chƣa thấy đƣợc. Tôi rất mong đƣợc sự góp ý của
quý Thầy, Cô giáo và các bạn để khóa luận đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Ngô Thị Thoa
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Motip hóa thân trong truyện cổ Grim” là kết
quả nghiên cứu của riêng mình, đồng thời đề tài này không trùng với kết quả
của các tác giả khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 24 tháng 4 năm 2016
Sinh viên
Ngô Thị Thoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề............................................................................................... 1
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 6
5. Đối tƣợng nghiên cứu ................................................................................... 7
6. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 7
7. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 7
8. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................. 7
CHƢƠNG 1. CÁC HÌNH THỨC HÓA THÂN TRONG TRUYỆN CỔ
GRIM ............................................................................................................................................ 8
1.1. Khái niệm .................................................................................................. 8
1.1.1. Motip ...................................................................................................... 8
1.1.2. Hóa thân................................................................................................ 11
1.2. Khảo sát và phân loại .............................................................................. 14
1.2.1. Khảo sát ................................................................................................ 14
1.2.2. Phân loại ............................................................................................... 16
CHƢƠNG 2. CHỨC NĂNG CỦA MOTIP HÓA THÂN TRONG
TRUYỆN CỔ GRIM ........................................................................................................... 27
2.1. Vị trí xuất hiện của motip hóa thân trong truyện cổ Grim ...................... 27
2.2. Các chức năng của motip hóa thân trong truyện cổ Grim ....................... 29
2.2.1. Thúc đẩy hành động nhân vật ............................................................... 30
2.2.2. Trừng phạt ............................................................................................ 33
2.2.3. Ban thƣởng ........................................................................................... 36
2.2.4. Phản ánh và hóa giải bi kịch ................................................................. 40
KẾT LUẬN ................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng văn học dân gian, truyện cổ tích luôn đƣợc xem là một
trong những thể loại có sức sống lâu bền nhất. Mỗi câu chuyện nhƣ là một
viên ngọc sáng, mỗi viên ngọc một dáng vẻ, một sắc đẹp riêng, tất cả hội tụ
lại tạo nên sự đa dạng, phong phú của thể loại cổ tích trong truyện kể dân gian
các dân tộc trên thế giới. Nó tạo nên một sức hấp dẫn riêng không chỉ với
ngƣời già, trẻ con mà cả thế hệ trẻ trong đời sống hiện thực, trong quá khứ,
hiện tại và tƣơng lai.
Motip hóa thân là motip phổ biến trong truyện cổ Grim và các truyện
cổ tích trên thế giới. Đây là một motip nghệ thuật đắc dụng - một phƣơng tiện
nghệ thuật để nhân dân lao động thực hiện lí tƣởng xã hội trong mơ ƣớc của
mình một cách đầy thuyết phục.
Motip hóa thân trong truyện cổ Grim có các dạng hóa thân rất phong
phú, đa dạng làm nên sức sống lâu bền của truyện cổ tích. Truyện cổ Grim có
các loại motip hóa thân nhƣ: ngƣời hóa thành con vật, cây cối, đồ vật, đá, hồ
nƣớc, quỷ, ngƣời khác hay con vật hóa thân thành ngƣời. Đây là kết quả của
sự sáng tạo phong phú, độc đáo thông minh của dân gian. Không phải ngẫu
nhiên nhân dân lại sáng tạo ra những motip nghệ thuật hấp dẫn này, mỗi một
câu chuyện kể đều là sự gửi gắm những ƣớc muốn chính đáng của nhân dân
về thế giới tự nhiên cũng nhƣ xã hội.
Nhận thức đƣợc các nét ý nghĩa và chức năng của chúng qua motip hóa
thân, chúng tôi đã mạnh dạn lựa chọn “Motip hóa thân trong truyện cổ
Grim” làm đề tài nghiên cứu với mong muốn tìm hiểu, khám phá những giá
trị đặc sắc của motip hóa thân một cách toàn diện.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Quá trình hình thành truyện cổ Grim
Hai anh em nhà Grim bắt đầu sƣu tầm chuyện kể dân gian từ khoảng
năm 1807 khi nhu cầu tìm hiểu truyện dân gian ở Đức bắt đầu phát triển sau
1
khi Ludwing Achim Von Arnim và Clemens Brentano phát hành tuyển tập bài
hát dân gian Des Knaben Wenderhorn. Từ năm 1810 hai ngƣời bắt đầu thực
hiện bộ sƣu tập bản thảo truyện dân gian, những tác phẩm này đƣợc Jacob và
Willelm ghi lại bằng cách mời những ngƣời kể chuyện đến nhà và chép lại
những gì họ kể. Trong số những ngƣời kể chuyện này không chỉ có những
nông dân mà còn có những ngƣời thuộc tầng lớp trung lƣu và các học giả,
những ngƣời sở hữu các câu chuyện nghe đƣợc từ ngƣời hầu của họ. Jacob và
Wilhelm còn mời cả những ngƣời Haguenot gốc Pháp tới kể những chuyện
dân gian có nguồn gốc từ quê hƣơng của họ.
Năm 1812, Tacob và Wilhelm Grim cho xuất bản bộ sƣu tập 86 truyện cổ
tích Đức trong cuốn sách mang tựa đề Kinder - und Husmarchen (Truyện của trẻ
em và gia đình). Năm 1814 họ cho phát hành tập sách thứ hai với hơn 70 truyện
cổ tích, nâng số truyện trong bộ sƣu tập là 156 truyện. Lần xuất bản thứ hai của
bộ Kinder - und Husmarchen từ năm 1819 đến 1822 đƣợc tăng lên 170 truyện.
Tập sách này còn đƣợc tái bản thêm 5 lần nữa khi anh em Grim còn sống, mỗi
lần đều có thêm những truyện mới và đến lần xuất bản thứ 7 năm 1857 thì con số
đã lên đến 211 truyện. Mỗi lần in đều có hình vẽ minh họa bao quát, đầu tiên
đƣợc vẽ bởi Philipp Grot Johann, sau khi ông mất các hình vẽ minh họa đƣợc vẽ
bởi Robert Leinweber và có nhiều sự thay đổi sau các lần ấn bản. Năm 1825
anh em nhà Grim đã cho xuất bản phiên bản thu nhỏ Kleine Augabe, chọn lọc 50
truyện cổ tích dành riêng cho độc giả nhỏ tuổi.
Anh em nhà Grim không phải là ngƣời đầu tiên xuất bản những tuyển
tập truyện dân gian. Từ năm 1697, một ngƣời Pháp là Charles Peirault đã cho
ấn hành một bộ sƣu tập truyện cổ tích rất nổi tiếng, ngay ở Đức trong khoảng
thời gian từ 1782 dến 1787 Joham Karl August Musaus cũng cho ra đời một
bộ sách tƣơng tự. Tuy vậy điều khác biệt là trong khi Perrault hay Musaus
thƣờng ít khi tuân thủ nguyên gốc những gì họ đƣợc nghe kể truyện thì anh
em nhà Grim đã phát triển những truyện dân gian này theo cách kể truyện của
2
họ, trong đó viết lại gần nhƣ nguyên vẹn những chất liệu dân gian mà họ thu
thập đƣợc. Vì vậy Jacob và Wilhelm Grim đã góp phần phát triển phƣơng
pháp nghiên cứu hiện đại cho nhà dân gian học.
Hơn hai trăm truyện đƣợc sƣu tầm tập hợp từ nguồn folklore Đức, anh
em nhà Grim đã dày công sáng tạo để từ đó tạo ra đƣợc sức lôi cuốn lạ kì cho
các truyện kể. Trƣớc hết là nghệ thuật tổ chức dẫn dắt cốt truyện. Các tác giả
khi chỉnh lí không làm mất đi vẻ đẹp duyên dáng mộc mạc của các nghệ nhân
dân gian mà còn tôn tạo đƣợc bản sắc riêng phù hợp với màu sắc địa phƣơng.
Nhờ đó độc giả các thời đại có thể thấy đƣợc vẻ đẹp trực tiếp của các câu
chuyện, có thể thƣởng thức say sƣa các tác phẩm nghệ thuật không pha tạp
của cội nguồn dân gian. Cách làm khoa học đó đã tạo ra một thế đứng khác
cho tác phẩm khiến nó trở thành một sự kiện của văn học Đức thế kỷ XIX, trở
thành một biểu tƣợng của lòng yêu nƣớc và của sự tiến bộ trong văn học Đức
thế kỷ này. Điều đó càng làm nổi bật chân lý: “sức mạnh nghệ thuật của các
thời đại đều có cội rễ sâu xa trong nền văn hóa dân tộc”. Các câu chuyện nổi
tiếng thƣờng đƣợc nhắc tới là: Nàng bạch tuyết và bảy chú lùn, Cô bé lọ lem,
Chú bé tí hon, Cô bé quàng khăn đỏ… Các câu chuyện nhỏ trong truyện cổ
Grim đều giàu chất lãng mạn, thể hiện khát vọng ở hiền gặp lành của các nhân
vật chính, ca ngợi cái đẹp, sự dũng cảm, bản tính thật thà, chất phác, ngay
thẳng của con ngƣời.
“Qua các công trình nghiên cứu công phu và sƣu tầm về thơ ca Đức cổ
đại, về văn học dân gian về ngôn ngữ học, hai anh em Grim đƣợc coi là
những ngƣời sáng lập ra khoa ngữ văn Đức, và là những ngƣời đặt nền móng
cho ngành folklore Đức đầu thế kỷ XIX” - Lê Nguyên Cẩn.
Các nhân vật là một ngƣời trong thực tại đƣợc nhà văn khoác lên mình
những yếu tố thần kỳ và những lực lƣợng siêu nhiên đóng một vai trò nhất
định trong việc tạo nên nút thắt, nút mở, những mâu thuẫn giản đơn hay phức
3
tạp, nhẹ nhàng hay gay gắt. Dƣờng nhƣ mọi xung đột thực tại giữa ngƣời với
ngƣời đều bế tắc hay không thể giải quyết nổi nếu thiếu đi yếu tố thần kỳ. Các
nhân vật đƣợc tác giả xây dựng không phân loại thành các phe cơ bản mà
miêu tả phong phú và đa dạng.
Nhƣ vậy, cuốn truyện cổ Grim ra đời với những câu chuyện cổ đƣợc
viết lại trên nền chất liệu dân gian dƣới ngòi bút tài tình của anh em nhà
Grim. Tập hợp những câu chuyện chủ yếu nằm trong thể loại truyện cổ tích
thần kỳ, yếu tố thần kỳ hoang đƣờng đƣợc tác giả vận dụng để xây dựng nên
một thế giới vua chúa với những tình tiết sinh động phù hợp với tâm lí trẻ thơ.
2.2. Lịch sử nghiên cứu motip ở Việt Nam
Ở nƣớc ngoài ngƣời đầu tiên đƣa ra khái niệm motip là nhà Folklore học
ngƣời Nga ở thế kỷ XIX A.N Vexelopxki trong công trình “Thi pháp học sử”.
Năm 1910, A. Aarnes và năm 1949 S. Thompson đã làm từ điển về típ và motip.
V. Ia. Propp trong cuốn “Những gốc rễ lịch sử của truyện cổ tích thần
kì”, bằng những tri thức văn hóa học, dân tộc học ông đã lí giải sâu về những
motip (tức là các chức năng) của truyện cổ tích thần kì.
Tuy nhiên ở Việt Nam cũng có các công trình nghiên cứu đề cập đến
vấn đề motip trong đó có các công trình sau:
Lê Bá Hán trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học, đã đƣa ra một cách
khái quát về khái niệm motip.
Trần Đình Sử trong cuốn Dẫn luận thi pháp học, cũng đã giới thiệu về
motip và đƣa ra khái niệm về motip.
Nguyễn Tấn Đắc trong cuốn Truyện kể dân gian đọc bằng type và
motip đã khía quát bằng mục lục tra cứu type và motip của A.Aarnes và
S.Thompson.
Nguyễn Bích Hà khi trong cuốn Thách Sanh và kiểu truyện dũng sĩ
trong truyện cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á cũng đã nói đến khái niệm
motip và đƣa ra nhiều motip trong truyện cổ tích Thạch Sanh.
4
2.3. Lịch sử nghiên cứu motip hóa thân trong truyện cổ Grim
Truyện cổ Grim ảnh hƣởng sâu rộng tới nền văn hóa, đƣợc coi là một
trong những nền tảng của văn hóa hiện đại phƣơng Tây. Truyện cổ Grim đã
đƣợc UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới. Từng đƣợc
dịch ra 160 thứ tiếng, tác phẩm này vẫn là một nguồn cảm hứng nghệ thuật
dồi dào, mang lại cho mọi ngƣời một niềm vui vô tận, nhắc nhở mọi thế hệ
một đạo lý nhân bản. “Cho đến nay, đó là tập truyện dân gian nổi tiếng nhất
thế giới” (Pengiun Books - dẫn theo truyện cổ Grim - Hữu Ngọc dịch - Nxb
văn học - 2012). Vì có ảnh hƣởng sâu rộng nhƣ vậy nên truyện cổ Grim là đề
tài đƣợc giới khoa học quan tâm.
Anh em nhà Grim cho rằng việc trung thành ghi chép truyện cổ là một
nguyên tắc, một thái độ khoa học không thể thiếu đƣợc với ngƣời muốn
nghiên cứu văn học cổ xƣa của dân tộc khỏi sự quên lãng. Hai ông hiểu rất rõ,
dù có thận trọng đến đâu cũng khó mà ghi lại thật nguyên vẹn truyện xƣa,
cũng ví nhƣ ta “đập một quả trứng không thể tránh khỏi một chút lòng trắng
vương lại ở vỏ, nhưng lòng đỏ của nó thì nhất thiết phải giữ nguyên vẹn”.
Tính chất hóa học của phƣơng pháp sƣu tầm còn thể hiện ở chỗ anh em Grim
đã cho in song song những dị bản của từng truyện cổ, thêm những chú giải
cần thiết và có khi dẫn những truyện tƣơng tự của các dân tộc khác để ngƣời
thực hiện nghiên cứu có thể so sánh. Do phƣơng pháp khoa học ấy, tập truyện
cổ tích mà anh em nhà Grim sƣu tầm không những là kho tàng văn học dân
gian mà còn là một nguồn tƣ liệu có giá trị đối với ngành ngữ văn Đức.
Anh em nhà Grim là những đại diện lớn cho nền văn hóa Đức và là
những ngƣời đặt nền móng cho nền văn hóa ấy. Truyện cổ Grim góp phần bảo
tồn niềm tín ngƣỡng và bảo tồn các di sản văn hóa tinh thần của Đức. Thông
qua truyện cổ Grim, Robert Laffont đã nhận xét: “ít có tác phẩm nào giúp
chúng ta mất ít công phu mà cảm thông được cái thầm kín sâu sắc và huyền
5
bí của tâm hồn Đức như tập truyện cổ Grim” (dẫn theo truyện cổ Grim - Hữu
Ngọc dịch - Nxb Văn học - 2012).
Các công trình nghiên cứu về truyện cổ Grim ở Việt Nam chủ yếu đề
cập tới đó là về thế giới nhân vật. Trong đó có công trình “Thế giới nhân vật
trong truyện cổ Grim và ý nghĩa giáo dục đối với học sinh tiểu hoc” (Luận
văn thạc sĩ khoa học - Lê Bích Nguyệt - 2014).
Tóm lại từ nghiên cứu về truyện cổ Grim các tác giả đã đánh giá khẳng
định giá trị to lớn về mặt văn hóa cũng nhƣ giáo dục của tác phẩm. Tuy nhiên
các công trình nghiên cứu về truyện cổ Grim mới chỉ dừng lại ở việc nêu ra
nhận xét, phân tích một vài tác phẩm hay khai thác khía cạnh thế giới nhân vật
để nắm bắt đƣợc các loại hình nhân vật. Do vốn hiểu biết về ngoại ngữ còn hạn
chế nên chúng tôi chỉ tìm hiểu và tham khảo đƣợc những cuốn sách dịch sang
Tiếng Việt. Từ việc nghiên cứu nhƣ vậy nên chúng tôi còn nhiều thiếu sót
không đƣợc trọn vẹn. Và việc khai thác truyện cổ Grim ở khía cạnh motip hóa
thân còn đang đƣợc bỏ ngỏ, để nắm bắt đƣợc các loại motip có trong truyện và
chức năng, ý nghĩa của nó để thấy đƣợc nét đặc sắc và ý nghĩa giáo dục là việc
làm cần thiết. Tiếp nhận từ những luận điểm trên, kết hợp với những phạm trù
của thi pháp học hiện đại, trên cơ sở khảo sát các motip hóa thân có trong
Truyện cổ Grim do Lƣơng Văn Hồng dịch - Nxb Văn học - 2004, chúng tôi cố
gắng tiếp cận tác phẩm từ một góc độ mới là tìm hiểu về motip hóa thân.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận đi sâu nghiên cứu motip hóa thân trong truyện cổ Grim, chỉ rõ
các chức năng của motip hóa thân đó để thấy đƣợc sức hấp dẫn và khẳng định
giá trị của truyện cổ Grim với nhân loại nói chung và thế giới trẻ thơ nói riêng.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chỉ ra đƣợc các loại motip hóa thân và chức năng của các motip hóa
thân trong truyện cổ Grim.
6
5. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là: “ Motip hóa thân trong truyện cổ
Grim”.
6. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ khảo sát và nghiên cứu motip hóa thân trong truyện cổ
Grim. Tƣ liệu chúng tôi dùng để khảo sát là cuốn truyện cổ Grim toàn tập
[5], gồm 211 truyện trong đó có 46 truyện xuất hiện motip hóa thân.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện khóa luận, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu sau:
- Phƣơng pháp thống kê
- Phƣơng pháp phân tích
- Phƣơng pháp so sánh
- Phƣơng pháp tổng hợp, hệ thống hóa
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung khóa luận đƣợc triển khai
trong 2 chƣơng:
- Chƣơng 1: Các hình thức hóa thân trong truyện cổ Grim
- Chƣơng 2: Chức năng của motip hóa thân trong truyện cổ Grim
7
CHƢƠNG 1
CÁC HÌNH THỨC HÓA THÂN TRONG TRUYỆN CỔ GRIM
1.1. Khái niệm
1.1.1. Motip
Motip là thuật ngữ vay mƣợn tiếng Pháp (motif), thuật ngữ này đã đƣợc
nhiều nhà khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đề cập đến.
Ở nƣớc ngoài ngƣời đầu tiên đƣa ra khái niệm motip là nhà folklore học
ngƣời Nga ở thế kỷ XIX A.N.Vexeloxki. Theo ông, khái niệm motip đƣợc
hiểu là “những công thức trả lời cho con người từ thủa nguyên sơ, khắp mọi
nơi hoặc là những ấn tượng về hiện thực được đúc kết nổi bật hoặc tỏ ra quan
trọng và được lặp đi lặp lại”[7,tr133-134]. Tiếp đó là công trình nghiên cứu
type và motip thành công của S.Thompson. (Standard Dictionnary of
Folklore), A. Aarne (Verzerichnis cler Marchebtypen), Stith ThomPson viết
trong Standard Dicctionary Folklore đại ý nhƣ sau: “Trong folklore, motip là
thuật ngữ chỉ bất kì một phần nào mà ở một kết quả của folklore có thể phân
tích ra được. Trong nghệ thuật dân gian có motip của hình phác họa, là
những hình mẫu thường lặp lại hoặc kết hợp với những hình mẫu khác theo
một kiểu cách riêng biệt nào đó. Trong âm nhạc và bài hát dân gian cũng có
những khuôn nhạc giống nhau thường trở lại luôn. Lĩnh vực mà motip được
nghiên cứu nhiều nhất và phân tích cẩn thận nhất là truyện kể dân gian như
các loại truyện cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại, ballad…” [2,tr. 26]. Ở Việt
Nam có các công trình của Nguyễn Tấn Đắc (Truyện kể bằng dân gian đọc
bằng type và motip), Nguyễn Bích Hà (Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ
trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á)…
Theo định nghĩa trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học, motip “từ Hán
Việt là mẫu đề (Do người Trung Quốc phiên âm chữ motif của tiếng Pháp) có
thể chuyển thành các từ khuôn, dạng hoặc kiểu trong tiếng Việt, nhằm chỉ
8
những nhân tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình thành ổn định, bền
vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là
trong văn học nghệ thuật dân gian.”[4, tr.197].
Giáo sƣ Trần Đình Sử định nghĩa: “Motip là các đơn vị cố định thể hiện
một nội dung nào đó được sử dụng nhiều lần là một hiện tượng phổ biến
không chỉ trong văn học dân gian mà cả trong văn học viết” [7, tr.134].
Nhƣ vậy có thể hiểu motip là đơn vị tham gia cấu tạo cốt truyện đƣợc
hình thành ổn định bền vững, đƣợc sử dụng phổ biến và lặp đi lặp lại trong
các sáng tác văn học, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian nhằm thể hiện
một tƣ tƣởng một quan niệm nào đó của tác giả.
Các định nghĩa về motip tuy đƣợc diễn đạt khác nhau nhƣng đều làm
nổi bật những đặc trƣng chủ yếu của motip. Motip là đơn vị có tính bền vững,
ổn định. Motip là những hình mẫu, những công thức, những đơn vị cố định
trong tác phẩm. Motip đƣợc hình thành trong một quá trình sáng tác lâu dài,
đƣợc nhiều tác giả khác nhau, nhiều thời đại khác nhau, nhiều cộng đồng khác
nhau sử dụng trong tác phẩm của mình. Mà một yếu tố khi đã trở thành một
kiểu dạng cố định thì tất nhiên nó mang tính bền vững. Tính bền vững của
motip không chỉ đƣợc thực hiện ở mặt hình thức mà còn đƣợc thực hiện ở ý
nghĩa mà nó biểu đạt. Mỗi motip trong quá trình hình thành chứa đựng những
quan niệm văn hóa, thẩm mĩ nhất định của tác giả dân gian.
Đặc trƣng thứ hai của motip là tính lặp lại. Một yếu tố, một bộ phận
trong kết cấu của tác phẩm chỉ đƣợc gọi là motip khi nó xuất hiện lặp đi lăp
lại nhiều lần trong nhiều sáng tác. Tuy nhiên không phải bất kỳ yếu tố lặp lại
nào cũng đều trở thành motip. Một yếu tố lặp đi lặp lại để trở thành motip
phải có cái gì đó khắc sâu, gây ấn tƣợng làm cho ngƣời ta nhớ đến, nghĩa là
chúng phải có giá trị nghệ thuật nào đó, có hiệu quả thẩm mỹ nhất định nhằm
truyền tải những nội dung tƣ tƣởng mà tác giả muốn gửi gắm.
9
Sự lặp lại của motip không phải là sự lặp lại ngẫu nhiên mà là một tín
hiệu nghệ thuật, ở đó ẩn chứa quan niệm thẩm mỹ và triết lý nhân sinh. Vì thế
một đăc trƣng quan trọng của motip là tính quan niệm. Những tín hiệu nghệ
thuật ấy phải chứa đựng những quan niệm văn hóa, biểu hiện một tƣ tƣởng,
một triết lí nào đó. Do hình thành qua thời gian, không gian, những tầng quan
niệm này tích hợp trong motip, khó nắm bắt, vì thế phải giải mã các lớp văn
hóa đó. Chẳng hạn trong motip hóa thân mang quan niệm về sự biến hóa siêu
tự nhiên có nguồn gốc từ thần thoại, gửi gắm quan niệm nhân văn của nhân
dân lao động hay motip dũng sĩ diệt đại bàng nhằm gửi gắm khát vọng chinh
phục tự nhiên và chiến thắng tự nhiên.
Tính bền vững, tính lặp lại và quan niệm của motip có mối quan hệ gắn
bó với nhau. Những yếu tố đƣợc xem là khuôn mẫu, công thức thì tất nhiên
đƣợc dùng nhiều trong sáng tác sử dụng từ đời này sang đời khác. Vì vậy, nó
sẽ có tính bền vững và đƣơng nhiên những yếu tố đó phải mang quan niệm và
dụng ý nghệ thuật của tác giả đó.
Motip là khái niệm đƣợc sử dụng nhiều trong thể loại văn học dân gian
nhƣ thần thoại, truyền thuyết, ca dao… Tuy nhiên nó đƣợc sử dụng phổ biến
và là thành tố quan trọng trong kết cấu của truyện cổ tích.
Truyện cổ tích là một thể loại đặc sắc trong văn học dân gian, là một
thể loại nghệ thuật đích thực. Truyện cổ tích là truyện kể dân gian đƣợc sáng
tác dựa trên hƣ cấu nghệ thuật có chủ tâm, thƣờng có yếu tố kì ảo. Nó ra đời
cùng với quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, đặc biệt nở rộ trong
xã hội có sự phân hóa giai cấp. Thông qua những số phận khác nhau của các
nhân vật, truyện phản ánh và lí giải những mâu thuẫn và xung đột trong gia
đình và xã hội, qua đó thể hiện quan niệm đạo đức, lí tƣởng xã hội và ƣớc mơ
của nhân dân lao động. Đặc trƣng cơ bản nhất của truyện cổ tích chính là hƣ
cấu nghệ thuật, đƣa yếu tố kì diệu vào để giải thích cho số phận của nhân vật.
10
Ta thấy rằng, cốt truyện cổ tích đƣợc tạo thành từ nhiều motip mà
motip truyện cổ tích chính là những khuôn dạng có thể tháo rời, lắp ghép, nếu
thay đổi motip hoặc trật tự sắp xếp chúng sẽ tạo ra những truyện cổ tích mới
còn những truyện có một số motip cùng loại hình sẽ tạo thành một kiểu truyện
(hay type truyện).
Đầu thế kỷ XX, nhà Folklore học ngƣời Nga V.Ia.Propp trong công
trình “ Hình thái học truyện cổ tích” đã đƣa ra kết quả nghiên cứu về mặt cấu
trúc của truyện cổ tích. Dựa trên sự khảo sát 100 truyện cổ tích Nga, ông đã đi
đến kết luận, số lƣợng truyện cổ tích hết sức phong phú nhƣng tất cả chúng có
cùng một loại hình về mặt cơ cấu, dựa trên số lƣợng có hạn những chức năng
của nhân vật hành động.
Lý thuyết về hình thái học truyện cổ tích của ngƣời Nga là nghiên cứu
điển hình để các nƣớc phƣơng Đông và phƣơng Tây áp dụng vào các công
trình nghiên cứu của mình. Vì thế, nghiên cứu motip hóa thân trong truyện cổ
Grim vừa thấy đƣợc đặc điểm chung trong kết cấu truyện cổ tích, vừa nhìn từ
những nét riêng của truyện cổ tích ngƣời Đức.
1.1.2. Hóa thân
Theo từ nguyên hóa nghĩa là “thay đổi thành cái khác”, hóa thân là
“biến hóa của thần thánh thành người hay thành vật khác”, [10,tr.817,819].
Sự hóa thân theo nghĩa trên giống sự biến hóa trong thần thoại. Nhân
vật trong thần thoại có khả năng biến hóa từ dạng này sang dạng khác: Thần
biến hóa thành ngƣời trần, thành con vật, cây cối… và từ các dạng đó lại biến
hóa trở lại thành thần. Xét về cội nguồn, sự hóa thân có trong truyền thuyết
này đƣợc xuất phát từ những quan niệm của thần thoại cổ xƣa, khi con ngƣời
sống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Thiếu sự hiểu biết, họ sùng bái, tin
tƣởng tự nhiên, coi nó hoàn toàn là đấng toàn năng vĩ đại. Bằng tƣ duy thô sơ,
họ cho rằng, con ngƣời và vạn vật đều là sản phẩm của thần linh, phải chịu sự
11
chi phối, điều khiển của thần linh. Và dĩ nhiên với quyền năng mạnh mẽ đó,
các vị thần có thể dễ dàng biến hóa trở thành ngƣời thƣờng thành sự vật, hiện
tƣợng, hoặc dễ dàng biến đổi đối tƣợng này thành đối tƣợng khác, nhằm ban
thƣởng hay trừng phạt…
Sự hóa thân trong thần thoại đó là hóa thân tự thân - phép màu biến hóa
của thần linh. Khác hẳn với truyền thuyết hay truyện cổ tích nhân vật trong
thần thoại là các thần trong mối tƣơng quan giữa con ngƣời với đại tự nhiên
thần thánh. Ví nhƣ thần Zeus (vua của các vị thần) trong thần thoại Hy Lạp là
vị thần trị vì các vị thần và là thần của bầu trời cũng nhƣ sấm. Zeus đóng vai
trò thống trị, lãnh đạo tất cả các vị thần trên đỉnh Olympus của Hy Lạp cổ đại.
Trong truyền thuyết, gần nhƣ ngƣời ta không bắt gặp loại nhân vật quyền
năng mang tên thần linh. Nhân vật của truyền thuyết chủ yếu là những con
ngƣời có hoặc không mang nguồn gốc và sức mạnh kỳ lạ, nhƣng luôn lập chiến
công, luôn có tài nghệ khiến nhân dân tôn sùng, biết ơn. Những nhân vật ấy trở
nên niềm tự hào của cả dân tộc, đƣợc xã hội tôn vinh lên thành linh khí, hồn
thiêng. Bên cạnh đó nhân vật trong truyền thuyết hóa thân một cách tự thân có
mối quan hệ với lịch sử cộng đồng. Ví nhƣ truyện Thánh Gióng đã phản ánh
khá toàn diện và khái quát, sinh động và cụ thể cuộc chiến đấu hào hùng chống
giặc ngoại xâm trong thời kì Văn Lang. Thánh Gióng tập trung cho ý chí của
nhân dân, khi đất nƣớc lâm nguy đã đặt lên vai mình sứ mệnh lịch sử lớn lao.
Đó là một chân lí, một quy luật quan trọng về xây dựng, tổ chức, phát triển lực
lƣợng chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc mà cha ông ta đã sớm nhận thức
tổng kết và truyền lại cho đời sau bằng truyền thuyết sâu sắc này. Chính điều
đó đã làm nên một Thánh Gióng bất tử - một Thánh Gióng đã đi vào tâm thức
của ngƣời Việt một cách tự nhiên dẫu thời gian biến đổi vạn vật.
Tuy nhiên sự hóa thân trong thần thoại hay truyền thuyết có sự khác
biệt so với truyện cổ tích. Trong truyện cổ tích sự hóa thân của nhân vật là
12
những con ngƣời trong các mối quan hệ xã hội. Lần đầu tiên, các nhân vật bé
nhỏ tầm thƣờng trở thành những nhân vật trung tâm của văn học dân gian,
hơn nữa họ còn đại diện cho cái đẹp, cái thiện, cái cao cả, thánh thiện theo
quan điểm của nhân dân. Trong truyện cổ tích nhân vật hóa thân từ dạng này
sang dạng khác không bắt nguồn từ năng lực siêu nhiên tự thân của nhân vật
mà là kết quả nhân vật lấy từ một tác nhân bên ngoài. Trong truyện cổ tích có
hai loại biến hóa đó là: hóa thân hoàn kiếp và không hoàn kiếp. Truyện có
motip hóa thân hoàn kiếp nhƣ con ngƣời biến thành con vật rồi lại hóa thân
thành ngƣời hay ngƣợc lại. Mỗi câu chuyện gắn với những chức năng khác
nhau nhƣ ban thƣởng hay thúc đẩy hành động nhân vật. Ví dụ nhƣ trong
truyện cổ tích Việt Nam có truyện Tấm Cám: Tấm chết, linh hồn hóa thân
thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, rồi cây thị, quả thị. Đây vốn là
những vật gần gũi trong cuộc sống của ngƣời lao động nơi thôn quê dân dã.
Mỗi hình thức biến hóa mang một ý nghĩa đặc sắc riêng. Nhƣ vậy mỗi lần,
Tấm đều hóa thân trong những hình ảnh đẹp. Mỗi lần mỗi khác nhƣng tất cả
những hình ảnh đó đều có một sự thống nhất chung. Hiển hiện một linh hồn
không cam chịu khuất phục khi ý thức đƣợc nỗi oan của mình. Quá trình hóa
thân của Tấm là sự thể hiện một sức sống mãnh liệt, không thể bị tiêu diệt của
cái đẹp, cái thiện. Đó là quan niệm, đồng thời cũng là ƣớc mơ cháy bỏng của
nhân dân lao động bao đời nay trong cuộc đối mặt với cái ác, cái xấu.
Hay loại hóa thân không hoàn kiếp thƣờng gắn với chức năng ban
thƣởng hay trừng phạt. Trong truyện nhân vật là con ngƣời có thể hóa thân
thành con vật, đồ vật, cây cối, đá... nhƣng không có sự hoàn kiếp trở lại làm
ngƣời. Trong truyện cổ Grim có truyện Bà Torudo, nhân vật là một cô bé tinh
nghịch hiếu động không nghe lời bố mẹ nên đã bị mụ phù thủy biến thành
một khúc gỗ và ném vào đống lửa. Trong truyện cổ tích Việt có truyện Sự tích
con muỗi kể về nhân vật ngƣời vợ không chung thủy với chồng nên đã bị
13
trừng phạt hóa thành con muỗi chuyên đi hút máu ngƣời. Nhƣ vậy cả hai
truyện này nhân vật hóa thân không có sự hoàn kiếp và gắn với chức năng
trừng phạt.
Motip hóa thân trong truyện cổ Grim là một dạng của yếu tố kì ảo trong
truyện cổ tích. Sự biến hóa của nhân vật chính là sự tham gia của yếu tố thần
kì, kết quả của sự hƣ cấu trong truyện cổ tích và cũng là motip thể hiện đặc
trƣng nổi bật của truyện cổ. Vì thế, motip hóa thân thƣờng gắn với sự xuất
hiện của tác nhân bên ngoài, là các lực lƣợng siêu nhiên nhƣ: ngƣời tí hon,
phù thủy, ngƣời khổng lồ, bà già tốt bụng… (Bà Torudo, Anh và em gái, Ba
sợi tóc vàng, …). Bên cạnh đó có những dạng biến hóa không có các nhân vật
thần kì mà tự thân biến hóa nhƣ: Hai vợ chồng người đánh cá, Coda và
hoàng tử rắn, Chuyện đánh đố... Ở những truyện này lực lƣợng siêu nhiên
không xuất hiện nhƣng chúng ta ngầm hiểu sự hóa thân đó thuộc yếu tố kì ảo
trong truyện cổ tích.
Motip hóa thân cũng nhƣ những motip trong truyện cổ tích nói chung,
nó mang đầy đủ các đặc trƣng: tính bền vững, tính lặp lại, tính quan niệm…
Motip hóa thân xuất hiện trong truyện ở bất kì vị trí nào đều đảm nhận một
vai trò quan trọng của mình. Mỗi motip thực hiện một chức năng nào đó, quan
niệm hay cái nhìn nhân sinh về cuộc sống và con ngƣời. Những nội dung này
chúng tôi sẽ đi sâu trong chƣơng 2.
1.2. Khảo sát và phân loại
1.2.1. Khảo sát
Sau khi khảo sát truyện cổ Grim - do Lƣơng Văn Hồng dịch - Nxb văn
học, chúng tôi thống kê đƣợc 46 truyện xuất hiện motip hóa thân. Trong đó có
81 nhân vật hóa thân trong 46 truyện, mỗi một truyện có hơn một nhân vật
hóa thân (hai hay ba nhân vật ).Ví dụ nhƣ truyện Ba hạt hồ đào nhân vật
chàng trai hóa thành một giáo đƣờng, cô gái hóa thành một giáo sĩ; truyện
14
Quả cầu pha lê có nhân vật con cả hóa thành con chim địa bàng, con thứ hai
hóa thành con cá voi; hay Ngôi nhà trong rừng thì ba nhân vật hóa thành gà
mái, gà trống, bò đốm hoa…
Hay trong một số truyện một nhân vật thực hiện nhiều lần hóa thân: ví
dụ ở Việt Nam có truyện Tấm Cám nhân vật cô Tấm bốn lần thực hiện hóa
thân nhƣ hóa thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị. Còn
trong truyện cổ Grim cũng có một số truyện xuất hiện motip hóa thân ở một
nhân vật nhƣng hóa thân nhiều lần: ví dụ nhƣ truyện Anh Roland yêu dấu biến
thành hồ nƣớc, thành ngƣời chơi vĩ cầm còn cô gái lại biến mình thành bụi
hồng gai, thành con vịt, thành tảng đá và cuối cùng biến thành bông hoa.
Motip hóa thân trong truyện cổ Grim có sự phong phú về các dạng hóa
thân nhƣ hóa thân thành con vật, đồ vật, con ngƣời, hồ nƣớc, quỷ hay con vật
hóa thân thành ngƣời. Bên cạnh sự đa dạng về motip hóa thân thì gắn với các
chức năng nhƣ: chức năng thúc đẩy hành động của nhân vật, chức năng trừng
phạt, chức năng ban thƣởng, chức năng phản ánh và hóa giải bi kịch.
Sau khi khảo sát, ta thấy dạng motip ngƣời hóa thân thành con vật
chiếm tỉ lệ nhiều nhất 28/46 (60.8%), con vật hóa thân thành ngƣời 9/46
(19.5%), motip ngƣời hóa thân thành cây cối 6/46 (13.04%), ngƣời hóa thân
thành đá 4/46 (8.7%), ngƣời hóa thân thành hồ nƣớc 3/46 (6.5%), ngƣời hóa
thân thành ngƣời khác 2/46 (4.3%), ngƣời hóa thân thành đồ vật 1/46
(2.17%), ngƣời hóa thân thành quỷ 1/46 (2.17%).
Kết quả này cho thấy motip hóa thân trong truyện cổ Grim gắn liền
mối quan hệ gần gũi giữa ngƣời với con vật. Motip ngƣời hóa thân thành con
vật chiếm số lƣợng nhiều nhất 60.8%, dạng con vật hóa thân thành ngƣời
cũng khá nhiều 19.5%. Nhƣ vậy, motip hóa thân đó gắn với đặc điểm quan
niệm của đất nƣớc Đức.
Dạng motip ngƣời hóa thân thành quỷ hay thành đồ vật chiếm ít nhất
1/46 chiếm 2.17%, nó chỉ đóng vai trò làm phong phú motip hóa thân mà thôi.
15
Sự phong phú về dạng biến hóa cho thấy sự quan sát, trí tƣởng tƣợng
phong phú của tác giả dân gian, phản ánh mối quan hệ của con ngƣời với thế
giới tự nhiên nhƣ các con vật, đồ vật, cây cối... Sự phong phú này làm cho
motip trong truyện cổ Grim của ngƣời Đức vừa có yếu tố bất biến, ổn định,
vừa có yếu tố khả biến linh hoạt. Vì thế mà việc khảo sát và nghiên cứu của
đề tài này càng lí thú và hấp dẫn.
Sự đa dạng về chức năng gắn với sự khác nhau về kiểu chủ thể hóa
thân. Motip hóa thân không chỉ đóng vai trò chức năng trừng phạt đối với
nhân vật đối thủ của nhân vật chính (nhân vật gây hại hay nhân vật ác) mà đó
còn gọi là sự hóa giải bi kịch của con ngƣời trong cuộc sống. Ở trong truyện
cổ Grim đã xuất hiện những motip này phản ánh cuộc sống gần gũi hơn với
hiện thực. Do vậy mà motip hóa thân rất giàu ý nghĩa nhân sinh, gửi gắm
những cái nhìn khác nhau về cuộc sống của nhân dân lao động. Đó có thể là
giấc mơ về cái thiện luôn chiến thắng, cái ác bị trừng phạt, nhƣng cũng có thể
là nỗi khắc khoải về những mất mát, bi kịch của con ngƣời hay khát vọng đầy
nhân văn hóa giải bi kịch của con ngƣời.
1.2.2. Phân loại
Phân loại motip hóa thân là một việc rất quan trọng giúp ta có cái nhìn sáng
rõ về đối tƣợng. Ở các hình thức biểu hiện, các bộ phận, các dạng tồn tại khác
nhau của motip. Từ đó để thấy đƣợc sự phong phú của motip và tỉ lệ của chúng.
Sau khi khảo sát motip hóa thân trong truyện cổ tích của ngƣời Đức,
chúng tôi tiến hành phân loại motip. Có nhiều tiêu chí để phân loại motip hóa
thân nhƣ dựa vào các dạng hóa thân, dựa vào kiểu nhân vật là chủ thể hóa
thân, chức năng của motip. Ở đây chúng tôi chọn cách phân loại dựa vào tiêu
chí các dạng hóa thân. Vì theo tiêu chí này, các dạng tồn tại của motip thể
hiện rất rõ. Trong truyện cổ Grim tôi thấy motip hóa thân xuất hiện ở 46
truyện, có nhiều truyện motip hóa thân tồn tại hơn một dạng hóa thân. Theo
tiêu chí này, chúng tôi thấy motip hóa thân tồn tại ở 8 dạng nhƣ sau:
16
- Xem thêm -