A. MỞ ĐẦU
Việc lập di chúc chung của vợ, chồng được thừa nhận ở nước ta từ rất
lâu. Vấn đề này tưởng chừng như đơn giản bởi nó không chỉ được bênh vực
bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý. Tuy nhiên, nếu nghiên
cứu sâu hơn sẽ thấy di chúc chung của vợ, chồng thực chất là một vấn đề phức
tạp, chưa được pháp luật hiện hành quy định một cách cụ thể, rõ ràng; xung
quanh vấn đề này còn nhiều bất cập, thiếu sót, đòi hỏi phải có những biện
pháp khắc phục. Bàn về vấn đề này, em quyết định chon đề tài: “Một số vấn
đề về di chúc chung của vợ, chồng” cho bài tiểu luận của mình.
B. NỘI DUNG
I. Sơ lược lịch sử di chúc chung của vợ, chồng
Ở Việt Nam thời trung đại, Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long không
quy định về di chúc chung của vợ, chồng. Trên thế giới, Luật La Mã cũng như
Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp cũng không thừa nhận quyền lập di chúc
chung của vợ, chồng
Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ, chồng lại được thừa nhận trong
tục lệ của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam
trong các xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức
di chúc thông dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện
tượng phổ biến thời bấy giờ. Nó phù hợp với quan niệm truyền thống của
người Việt Nam là coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng.
Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính
luân lý đó. Bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di
chúc chung của vợ, chồng. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ,
chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
1
Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có
quyền lập di chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/7/1981 đã từng nhắc
đến di chúc chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990 tuy không trực tiếp
qui định về di chúc chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu
lực của di chúc chung. Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng cũng được quy
định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005.
II. Một số vấn đề liên quan đến những quy định về di chúc chung của vợ,
chồng.
1. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân
trong việc lập di chúc chung.
Điều 646 Bộ luật dân sự quy định : “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá
nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo
đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi
chủ thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề
pháp lý liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được
tiến hành sau khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 Bộ luật dân sự quy định di
chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với Điều 646 nói trên.
Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn đến các vấn đề
pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví dụ như xác
định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế,
huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung...
Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết
trong gia đình, thì việc quy định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần
thiết. Cũng cần phải nói thêm là, trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của
2
các chế độ trước, việc thừa nhận quyền lập di chúc chung không chỉ để củng
cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình, mà việc lập di chúc chung, trước
hết, là nhằm tạo ra giải pháp phòng ngừa, tạo ra sự chế ước đối với người chủ
gia đình, theo quan điểm phụ hệ, để bảo vệ quyền thừa kế của những người
thân thích khác trong gia đình.
2. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng
2.1. Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Điều 663 Bộ luật dân sự quy định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung
để định đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc
chung là để định đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Sẽ đơn giản, nếu vợ, chồng
chỉ có tài sản chung. Nhưng sẽ phức tạp, nếu vợ, chồng vừa có tài sản chung,
vừa có tài sản riêng, mà họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong
cùng một di chúc. Trong trường hợp đó, sẽ có nhiều vấn đề pháp lý đặt ra rất
khó xử lý, như: vấn đề hiệu lực của di chúc chung sẽ được xác định như thế
nào; phần di chúc định đoạt tài sản riêng có phải là một di chúc riêng; sau khi
một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc liên quan tới tài sản riêng của họ
có hiệu lực hay chưa... Đây là những vấn đề pháp lý phức tạp mà Bộ luật dân
sự chưa tiên liệu được.
Như vậy, nếu quy định trên được thực hiện đúng, thì vợ, chồng không
thể dùng di chúc chung để định đoạt tài sản riêng của mình. Điều này sẽ dẫn
tới hai hệ quả là:
- Khi vợ, chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó chỉ được định đoạt tài
sản chung. Nếu vợ, chồng muốn định đoạt phần tài sản riêng, thì họ phải lập
một tờ di chúc khác. Điều này sẽ gây ra trở ngại tâm lý không nhỏ khi người
ta muốn lập di chúc chung, vì như thế sẽ tạo ra thêm nhiều khó khăn cho các
3
bên liên quan, như phải lập nhiều tờ di chúc khác nhau, thay vì chỉ cần duy
nhất một tờ di chúc.
- Nếu trong di chúc chung vợ - chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản
riêng thì di chúc đó sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Điều
này dẫn tới việc, chỉ dựa vào một tờ di chúc, người ta phải chia thừa kế nhiều
lần trên cùng sản nghiệp của một người. Từ đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác,
như việc xác định người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị; sự ra đời của
những người mới nằm trong hàng thừa kế, sau khi một bên vợ hoặc chồng
chết mà di chúc chung vẫn chưa phát sinh hiệu lực; cơ sở để xác định giá trị
một suất di sản bắt buộc... là những vấn đề pháp lý không dễ dàng giải quyết.
2.2. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng
Bộ luật dân sự không quy định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi
lập di chúc chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử,
như việc hai bên lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực
hay không? Di chúc vốn là một loại giao dịch pháp lý đơn phương và không
mang tính chất đền bù. Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa
kế lẫn nhau, đã biến loại giao dịch này thành giao dịch pháp lý song phương
và mang tính chất có đền bù, làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Việc
pháp luật không cấm đoán vợ, chồng lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau,
chẳng những sẽ không đạt được mục đích tăng cường tình thương yêu, đoàn
kết trong gia đình, mà có thể còn gây nên nhiều hệ luỵ không thể lường trước
được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc giả tạo để che đậy những
hành vi trái pháp luật; hoặc làm gia tăng nguy cơ khiến các bên phản bội, lừa
dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các bên thực hiện âm mưu
xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau.
4
2.3. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được quy định rõ tại
Điều 699 Bộ luật dân sự. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc
(cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không
có khả năng lao động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp
luật, nếu họ không được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một
suất thừa kế theo pháp luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa
kế cho một số người mà không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt
buộc kể trên và cũng không dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì
những người đó có được chia thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng quy
định tại Điều 699 để xin được hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào.
3. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng
Di chúc cá nhân được lập theo 1 trong 2 hình thức là di miệng và di
chúc viết, theo những thủ tục rất chặt chẽ. Dường như ý chí của nhà làm luật
muốn di chúc chung sẽ được lập theo những hình thức tương tự như di chúc
cá nhân. Nhưng thực tiễn cho thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá
nhân không phải lúc nào cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung của
vợ, chồng.
- Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng?
Theo Điều 651 Bộ luật hình sự, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá
nhân: “Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật
hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể
di chúc miệng”. Do đó, vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc chung bằng
miệng, vì các lý do:
5
Một là, muốn lập di chúc chung, vợ - chồng phải có sự bàn bạc và thống
nhất ý chí chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết
đe dọa thì điều này là hãn hữu. Khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng,
thì việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá
nhân của mỗi người.
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng,
không cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người
phát biểu. Vậy, sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu
từng người trình bày riêng ý nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá
nhân; còn nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp
nhận toàn bộ, thì cũng giống như đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại
vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt
do cái chết đe dọa cả hai, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia
nghe và hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.
Ba là, sau 3 tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một
người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên
quan tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì theo khoản
1 Điều 651 Bộ luật dân sự thì: “Sau 3 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà
người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị
huỷ bỏ”. Trong khi đó, di chúc chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã
chết.
Bốn là, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, chết của cả 2 người,
việc tiếp nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ,
không chính xác. Ý nguyện của người chết lại không được thể hiện ra thành
một dạng vật chất định hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa
đổi mà lại không có chứng cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận của vợ, chồng.
6
Việc chứng minh được tính chất đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng
trong trường hợp này sẽ không bảo đảm được tối đa tính trung thực, khách
quan.
Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ
trở nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính
đáng của chính người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
- Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc viết tay mà không có người làm
chứng?
Điều 655 Bộ luật dân sự quy định về lập di chúc viết tay của cá nhân:
“Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Về mặt lôgic, hai
người không thể cùng một lúc viết cùng một nội dung trên cùng một tờ di
chúc. Vậy phải từng người viết xong, rồi sau đó, từng người ký tên vào bản di
chúc đó. Vấn đề đặt ra là di chúc do một người viết và người kia chỉ ký tên
hoặc điểm chỉ thì có hiệu lực pháp luật không? Hoặc mỗi người viết một đoạn
để nói về những quyết định của mình về từng vấn đề khác nhau, rồi sau đó,
cùng ký tên vào di chúc thì có được không?
Tóm lại, pháp luật cần phải quy định hình thức riêng cho di chúc chung
của vợ chồng, chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. Bộ luật
dân sự chưa quy định cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục.
Nên chăng, chỉ nên thừa nhận vợ, chồng được lập di chúc bằng hình thức văn
bản có người làm chứng hoặc văn bản có công chứng, chứng thực.
4. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung
Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng
phải dựa trên nguyên tắc nhất trí. Khoản 2 Điều 664 Bộ luật dân sự quy định:
“Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì
7
phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ
có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Điều
này tạo ra sự thống nhất cao cho việc lập di chúc chung cũng như việc sửa
đổi, bổ sung... di chúc chung. Tuy vậy, nếu một bên muốn thay đổi quyết định
trong di chúc chung mà bên kia không đồng ý, thì các bên cũng không được
quyền thay đổi. Quy định này tạo ra những vấn đề bất cập sau:
Thứ nhất, quy định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá
nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cũng như vi phạm nguyên
tắc tự nguyện trong việc lập di chúc.
Thứ hai, quy định này cũng tỏ ra thiếu nhất quán vì không cho phép
một bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ - chồng còn sống, nhưng
lại cho phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên
quan đến phần tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Sự thiếu
nhất quán trong quy định trên không thể giải thích được, vì thực chất, cả hai
trường hợp này đều giống nhau là khi một bên sửa đổi, bổ sung di chúc chung
đều không có sự đồng thuận của người kia. Trong khi việc sửa đổi, bổ sung di
chúc chung của vợ, chồng cần phải bảo đảm nguyên tắc nhất trí giữa vợ,
chồng với tư cách là các đồng sở hữu chủ của tài sản chung. Do đó, nếu đã
cho phép một bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã
chết, thì cũng cần phải công nhận quyền của một bên được tự mình sửa đổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan đến tài sản của mình,
khi không tìm thấy sự đồng thuận của bên kia.
Thứ ba, quy định trên cũng chưa dự liệu các khả năng khác khiến di
chúc phải bị sửa đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ,
chồng do vợ, chồng đã mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ
hoặc chồng còn sống, nhưng đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực
8
hành vi dân sự, bị mất trí, bị bệnh lú lẫn tuổi già... khiến cho họ không còn thể
hiện được ý chí cá nhân được nữa.
Suy cho cùng, lập di chúc chung là sự thể hiện tập trung của nguyên tắc
củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình. Nhưng việc níu kéo các bên
vợ chồng, buộc họ phải nhất trí với nhau, trong hoàn cảnh mâu thuẫn giữa họ
không thể dung hoà được nữa, thì việc lập di chúc chung hay cố giữ lại di
chúc chung cũng không phải là cách hữu hiệu khiến cho họ trở nên thương
yêu, đoàn kết với nhau hơn.
5. Hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng luôn là vấn
đề gây ra rất nhiều tranh cãi. Sở dĩ có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu
lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế.
Điều 668 Bộ luật dân sự quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có
hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng
chết”. Tuy nhiên, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại thời
điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp sau đây:
- Thứ nhất: Việc phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay
chồng chết trước, sẽ gây khó khăn cho các bên liên quan và cho cả các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài
sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể
họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc
chung chỉ có hiệu lực dựa vào thời điểm “bên sau cùng” chết, thì có thể phải
tiến hành chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay người chồng
9
chết trước. Việc chia thừa kế lần đầu được tiến hành đối với phần di sản là tài
sản riêng của người chết trước hoặc những tài sản chung khác không định
đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế của người đó. Các lần
chia thừa kế sau được áp dụng đối với phần di sản định đoạt trong di chúc
chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực (vào thời điểm bên sau
cùng chết). Trường hợp một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vừa có di sản
định đoạt bằng di chúc chung, vừa có tài sản riêng không lập di chúc hoặc có
những tài sản chung không được đưa vào di chúc chung,hoặc một phần tài sản
liên quan đến phần di chúc chung bị vô hiệu… thì có thể dẫn đến hậu quả là
khối di sản của người đó được chia thừa kế làm nhiều lần. Điều này dẫn đến
hệ quả là người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước sẽ phải kiện xin
chia thừa kế nhiều lần, toà án sẽ phải ít nhất hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ
tranh chấp khác nhau trên cùng một khối tài sản của người chết trước. Từ đó
không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp
thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng
trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế, thậm chí có thể dẫn đến vi phạm
nguyên tắc không thụ lý, xét xử nhiều lần cho cùng một vụ việc (nhất sự bất
tái cứu) theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Thứ hai: Quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như luật hiện
hành sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của
những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước.
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời
điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực,
những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di
sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên
quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường
10
hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của
những người thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người
chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có
tiền để chữa bệnh…), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Ví
dụ: ông A, bà B lập di chúc chung để lại di sản cho các con chung của ông A,
bà B và cha, mẹ của ông A. Sau đó, ông A chết. Vấn đề phức tạp phát sinh là
cha mẹ của ông A cần khoản tiền để chữa bệnh, nên muốn được chia thừa kế
di sản của ông A. Nhưng do bà B vẫn còn sống, di chúc chung của A và B
chưa có hiệu lực, nên cha mẹ của ông A không thể xin chia di sản của ông A
theo di chúc chung nói trên. Vì thế, quyền được hưởng thừa kế của cha mẹ
ông A không được bảo đảm.
Ngoài ra còn có các trường hợp di chúc chung có thể bị vô hiệu toàn bộ
hay một phần, nhưng mãi đến hàng chục năm sau mới phát hiện, thì quyền
khởi kiện đòi chia thừa kế của những người thừa kế hợp pháp của người vợ
hay chồng chết trước đã bị bỏ lỡ mà không còn cơ hội để khắc phục được, nếu
người thừa kế đó đã chết. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp
– một quyền hiến định cơ bản của công dân, được Hiến pháp và pháp luật bảo
hộ.
- Thứ ba: Gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư
cách của người được thừa hưởng di sản.
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã chết hoặc những người
được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết
trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa
không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những
người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống),
11
nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu
lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ
có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc
chung hay không. Ngoài ra, việc xác định tư cách người thừa kế cũng gặp khó
khăn ngay cả đối với người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc chung,
nếu họ chết sau người vợ hoặc chồng quá cố, nhưng lại chết trước khi di chúc
chung có hiệu lực…
- Thứ tư: Sự mâu thuẫn giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc
chung của vợ, chồng với các quy định khác có liên quan trong hệ thống pháp
luật.
Theo các quy định liên quan, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế
có các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Người thừa kế chỉ có
thể từ chối hưởng di sản thừa kế trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày mở thừa
kế. Nếu không từ chối đúng thủ tục và trong thời hạn luật định thì được coi là
đã nhận di sản. Theo đó, giữa thời điểm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của
người thừa kế so với thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là khác nhau,
dẫn tới sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực hiện các quyền này. Mặt
khác, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung rõ ràng cũng không nhất quán
với quyền từ chối hưởng di sản, vì vào thời điểm di chúc chung có hiệu lực,
người thừa kế (nếu còn sống) cũng không thể thực hiện quyền từ chối thừa kế
được.
Ngoài ra, Bộ luật dân sự quy định di chúc chung có hiệu từ khi người
sau cùng chết hoặc vợ, chồng cùng chết, nhưng theo quy định của Luật Nhà ở
2005 thì người thừa kế có quyền sở hữu đối với di sản thừa kế là nhà ở, kể từ
thời điểm mở thừa kế. Như vậy, thời điểm có quyền sở hữu nhà phát sinh
12
trước thời điểm di chúc chung có hiệu lực. Xét trên phương diện quyền sở hữu
và quyền thừa kế, có thể thấy, khi người chủ tài sản chết sẽ làm chấm dứt tư
cách sở hữu chủ của người đó đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình,
đồng thời làm phát sinh quyền thừa kế của những người thừa kế. Thế nên, quy
định của Bộ luật dân sự về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung như trên là
một vướng mắc rất khó giải quyết, nên cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung cho thống nhất với các quy định khác.
- Thứ năm: Việc xác định di chúc chung có hiệu lực vào thời điểm bên sau
cùng chết sẽ làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của
người chết trước.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu
hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia
thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do
nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa
dối, giả mạo… mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc
chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi
kiện không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng
như những người thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ hay
không. Điều này cũng chưa được pháp luật quy định rõ.
- Thứ sáu: Ảnh hưởng đến sự bảo toàn giá trị của khối di sản là tài sản
chung.
Khi tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản
là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc
13
do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì việc xác định giá trị
của tài sản chung trong trường hợp này sẽ càng phức tạp.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung
không đơn giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ
ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước,
xác định phạm vi những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của
người chết và những biến động của nó…Qua đó sẽ làm cho việc chia thừa kế
theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm. Thực chất nguyên nhân
của những mâu thuẫn này xuất phát từ việc pháp luật quy định về thời điểm có
hiệu lực của di chúc chung là thời điểm bên sau cùng chết, trong khi quyền
thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế. Bởi vậy, cần phải cân nhắc sửa đổi
quy định về thời điểm có hiệu lực pháp luật của di chúc chung một cách chặt
chẽ, hợp lý hơn.
6. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung của vợ, chồng.
Như chúng ta đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố
quan trọng của quan hệ vợ - chồng, đó là tình cảm vợ - chồng và tài sản chung
của vợ - chồng. Nếu hai yếu tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý
nghĩa. Trên thực tế sẽ phát sinh nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố
trên bị thay đổi, như trường hợp: các bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung
trong khi hôn nhân đang tồn tại; một bên mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết
và người còn lại đã kết hôn với người khác, sau đó người bị tuyên bố chết còn
sống trở về, nhưng không thể tái hợp quan hệ vợ chồng;... Đây là những
trường hợp dẫn đến việc chấm quan hệ vợ - chồng, hoặc chấm dứt tình trạng
sở hữu chung đối với tài sản, hoặc trực tiếp làm chấm dứt di chúc chung. Tuy
vậy, những tình huống này không được dự liệu của pháp luật, nên sẽ dẫn tới
14
sự lúng túng trong việc thực thi di chúc chung, vì không ai dám chắc là di
chúc chung có đương nhiên bị mất hiệu lực, trong những tình huống đó hay
không.
III. Một số biện pháp khắc phục những thiếu sót liên quan đến di chúc
chung của vợ, chồng.
Mặc dù còn nhiều bất cập, thiếu sót nhưng quy định về di chúc chung
của vợ, chồng vẫn không thể hủy bỏ bởi đây là một thực tiễn pháp lý và tục lệ
ở nước ta. Vấn đề cần quan tâm là phải nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung các
quy định pháp luật có liên quan tới di chúc chung của vợ, chồng
1. Về những biện pháp chung
1.1. Cần tách vấn đề di chúc chung của vợ, chồng ra khỏi quy định chung về
di chúc cá nhân và thiết kế thành một mục mới trong Bộ luật dân sự.
Tuy di chúc chung của vợ, chồng cũng có những đặc điểm giống như
một di chúc thông thường do cá nhân lập ra nên phải tuân thủ các quy định
chung về điều kiện có hiệu lực của di chúc, về thời điểm phát sinh quyền thừa
kế của cá nhân, tổ chức, về thời hiệu khởi kiện thừa kế, về thực hiện việc phân
chia tài sản theo di chúc, về quyền thừa kế của những người thừa kế bắt
buộc…; nhưng di chúc chung còn có những đặc thù, như: do ý chí của hai cá
nhân là vợ, chồng cùng tham gia định đoạt, dựa trên quan hệ hôn nhân đang
còn hiệu lực của hai người đó; dùng để định đoạt khối tài sản chung của vợ,
chồng; vợ, chồng có thể thỏa thuận các nội dung của di chúc chung; chỉ được
sửa đổi khi có sự đồng của vợ chồng (nếu cả hai đều còn sống), và được sửa
đổi riêng phần di chúc trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản
chung (nếu một bên đã chết)… Bởi vậy, cần quán triệt quan điểm tách quy
15
định về di chúc chung thành một mục riêng nhằm đảm bảo tính đặc thù của
các quy định này, đồng thời dự liệu đầy đủ các nội dung khác nhau của di
chúc chung. Cụ thể, quy định về di chúc chung sẽ được thiết kế thành một
mục riêng – mục 2 của Chương thừa kế theo di chúc trong Bộ luật dân sự
2005. Theo đó, Chương thừa kế theo di chúc sẽ có hai mục là: mục 1 quy định
chung về di chúc và thừa kế theo di chúc; mục 2 quy định về di chúc chung
của vợ, chồng. Bên cạnh đó, các quy định về di chúc chung của vợ chồng phải
được quy định sao cho nhất quán với các quy định khác có liên quan.
1.2. Cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề thời điểm có hiệu lực của di
chúc chung.
Xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là một vấn đề pháp lý
quan trọng nhằm xác định thời điểm phát sinh quyền thừa kế của những người
thừa kế theo di chúc chung, cũng như có ảnh hưởng trực tiếp tới việc xác lập
quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác của mỗi bên vợ hoặc
chồng. Bởi vậy, cần thừa nhận cả hai khả năng là vợ, chồng có thỏa thuận về
thời điểm có hiệu lực của di chúc chung và trường hợp vợ, chồng không thỏa
thuận về vấn đề này trong di chúc chung. Mục đích là làm cho quy định về
thời điểm có hiệu lực của di chúc chung vừa bảo đảm tính đặc thù của việc thể
hiện ý nguyện chung của vợ, chồng, nhưng cũng đảm bảo tính thống nhất với
các quy định khác có liên quan.
Sự kết hợp mềm dẻo giữa quy định về di chúc cá nhân, quyền thừa kế
của cá nhân với việc lập di chúc chung, hiệu lực và thực thi di chúc chung có
một số đặc thù, sẽ làm cho quy định về di chúc chung không mâu thuẫn với
quy định chung về thừa kế, nhưng vẫn bảo đảm được các nội dung cần thiết
và những dấu hiệu riêng biệt của loại di chúc đặc thù này. Để đạt được yêu
16
cầu đó, nhà làm luật cần quán triệt quan điểm xem di chúc chung của vợ,
chồng như là trường hợp đặc biệt của di chúc cá nhân, là sự cộng lại của hai di
chúc cá nhân, có tính đến sự đặc thù về hiệu lực của quan hệ hôn nhân giữa
những người lập di chúc chung, cũng như đối tượng của di chúc ở đây là tài
sản chung của vợ, chồng.
1.3. Ngoài việc quy định rõ ràng về các trường hợp cụ thể đặc thù của di chúc
chung, pháp luật cần giải quyết các vấn đề bất cập phát sinh từ việc thừa
nhận các đặc thù đó.
Khi luật thừa nhận những tính chất, dấu hiệu đặc thù của di chúc chung
sẽ dẫn đến một số điểm khác biệt trong việc áp dụng pháp luật và hậu quả
pháp lý của của việc áp dụng các quy định khác biệt đó. Trong những trường
hợp như vậy, nhà làm luật cần tính đến những hệ quả kéo theo khi chấp nhận
các quy định đặc thù này. Ví dụ: khi một phần nội dung có định đoạt đến tài
sản riêng thì việc xác định thời điểm hiệu lực của phần di chúc riêng này dẫn
đến hậu quả như thế nào, nếu như vợ, chồng thỏa thuận với nhau về thời điểm
di chúc chunglà thời điểm người sau cùng chết; hoặc nếu vợ, chồng không
thỏa thuậnđược về việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung và một bên đã tự ý sửa
đổi,bổ sung di chúc chung thì phần sửa đổi, bổ sung đó có giá trị không;hoặc
nếu một người để lại nhiều tờ di chúc chung với nhiều người vợ,chồng hợp
pháp khác nhau của họ mà trong đó thỏa thuận nhiều thời điểm có hiệu lực
khác nhau, đồng thời họ còn lập cả di chúc riêng để định đoạt tài sản riêng, thì
các di chúc này được thực hiện như thế nào…cũng cần phải được dự liệu.
Việc dự liệu các tình huống trên một mặt khắc phục những bất cập của
quy định hiện hành về vấn đề hiệu lực của di chúc chung, đồng thời qua đó
17
cũng hoàn thiện việc xây dựng một mục riêng để quy định về vấn đề di chúc
chung.
2. Các biện pháp cụ thể
2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung
theo hướng dự liệu cả trường hợp có thỏa thuận và không thỏa thuận giữa vợ,
chồng về thời điểm này
Theo đó, Điều 668 Bộ luật dân sự 2005 có thể sửa đổi, bổ sung cụ thể
như sau:
“Khi có một bên vợ hoặc chồng chết trước mà vợ, chồng không có thỏa
thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung thì chỉ phần di chúc chung
có liên quan đến phần di sản của người chết trước được định đoạt trong di
chúc chung có hiệu lực pháp luật.
Trong trường hợp vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc chung về thời
điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau cùng chết, thì di
sản được định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng chỉ được phân chia từ
thời điểm đó. Việc thỏa thuận thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không
làm ảnh hưởng đến quyền thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác
của các bên vợ, chồng trong việc yêu cầu tòa án bảo vệ quyền thừa kế hợp
pháp của mình khi một bên vợ hoặc chồng chết trước”.
Nội dung điều luật được đề nghị sửa đổi nói trên vừa hóa giải sự xung
đột giữa quy định về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung với các quy định
về thời điểm mở thừa kế, thời điểm phát sinh quyền thừa kế, mốc tính thời
hiệu khởi kiện, mốc để tính thời hạn từ chối di sản, quyền yêu cầu chia thừa
18
kế, quyền được hưởng thừa kế bắt buộc…; vừa thể hiện sự mềm dẻo của luật
pháp.
2.2. Bổ sung quy định về thời điểm có hiệu lực của phần di chúc do một bên
sửa đổi, bổ sung mà không được sự đồng ý của người kia.
Như đã phân tích ở trên, việc pháp luật hiện hành không thừa nhận một
bên vợ hoặc chồng có quyền tự ý sửa đổi, hủy bỏ di chúc chung mà không
được sự đồng ý của người kia đã xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá
nhân đối với phần tài sản riêng của mình. Vì vậy, để đảm bảo quyền tự do
định đoạt của cá nhân, đảm bảo di chúc được lập phù hợp với ý chí đích thực,
tự nguyện của mỗi bên vợ, chồng, bên cạnh việc quy định vợ, chồng cùng
nhau thỏa thuận sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung, thiết nghĩ cũng cần
phải thừa nhận quyền tự do của mỗi bên vợ, chồng trong việc sửa đổi, bổ sung
di chúc chung trong phạm vi phần quyền của mình trong khối tài sản chung,
dù không được sự đồng ý của bên kia. Đồng thời với việc thừa nhận mỗi bên
vợ hoặc chồng có quyền tự do sửa đổi, bổ sung nội dung di chúc chung trong
phạm vi tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, luật cũng cần phải quy định hệ
quả pháp lý của việc này, nhất là việc xác định thời điểm có hiệu lực của từng
phần di chúc chung sau khi di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, sửa
đổi Điều 664 Bộ luật dân sự 2005 như sau:
“1. (nội dung khoản 1 giữ nguyên).
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc
chung thìphải được sự đồng ý của người kia. Một bên cũng có quyền tự mình
sửađổi, bổ sung di chúc chung trong phạm vi phần di sản của mình. Việc sửa
đổi, bổ sung di chúc chung theo ý chí của một bên chỉ có giá trị trong phạm vi
19
phần sửa đổi, bổ sung nhưng không vượt quá phần tài sản của người đó trong
khối tài sản chung.
3. (kế thừa quy định của Điều 671 Bộ luật dân sự 1995): Nếu vợ, chồng
thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực của di chúc chung là thời điểm người sau
cùng chết, mà có một bên vợ chồng đã chết, thì người vợ hay chồng còn sống
chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
4. (bổ sung quy định mới về hiệu lực của phần di chúc chung bị sửa đổi,
bổ sung và phần không bị sửa đổi bổ sung): Thời điểm có hiệu lực của phần di
chúc chung khôngbị sửa đổi, bổ sung và phần di chúc chung bị sửa đổi, bổ
sung theo thỏa thuận của vợ, chồng được xác định theo Điều 668 Bộ luật này.
Phần di chúc chung đã bị sửa đổi, bổ sung bởi quyết định đơn phương của một
bên vợ hoặc chồng có hiệu lực theo quy định tại Điều 667 Bộ luật này.”.
Quy định như trên tạo cơ hội để một bên có thể sửa chữa những quyết
định sai lầm của mình khi lập di chúc chung. Đồng thời với việc sửa đổi quy
định tại Điều 664 như vừa nêu, vấn đề thời điểm có hiệu lực của di chúc
chung trong trường hợp có sửa đổi, bổ sung cũng được quy định cụ thể theo
hướng: ổn định giá trị pháp lý của phần di chúc chung không bị sửa đổi, bổ
sung; nếu việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung có sự thỏa thuận của vợ, chồng
thì thời điểm có hiệu lực của nó được xác định theo nguyên tắc chung (Điều
668); đồng thời tách riêng phần di chúc được sửa đổi, bổ sung bởi quyết định
đơn phương của một bên vợ, chồng để xem xét như một di chúc cá nhân.
C. KẾT LUẬN
Di chúc chung của vợ, chồng hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản
Luật thực định chỉ dùng một hai điều luật ngắn để điều chỉnh vấn đề này, rõ
20
- Xem thêm -