Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4 5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ...

Tài liệu Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4 5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ

.PDF
54
143
141

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC MẦM NON ====== NGUYỄN THỊ LAN MỘT SỐ BIỆN PHÁP MỞ RỘNG VỐN TỪ CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG ĐỌC THƠ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Phƣơng pháp phát triển ngôn ngữ HÀ NỘI, 2017 LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm non và các thầy cô giáo trong tổ bộ môn phương pháp phát triển ngôn ngữ đã giúp đỡ em trong quá trình học tập tại trường và tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới cô giáo - TS. Lê Thị Thùy Vinh - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong quá trình học tập, nghiên cứu và giúp em hoàn thành khóa luận này. Trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Lan LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Lê Thị Thùy Vinh. Đề tài chưa được công bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác. Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Sinh viên Nguyễn Thị Lan MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...............................................................................................................3 1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề ...................................................................................................4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................5 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................5 6. Cấu trúc của đề tài.............................................................................................6 NỘI DUNG ...........................................................................................................7 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN...........................................7 1.1. Từ và vấn đề mở rộng vốn từ ........................................................................7 1.1.1. Từ .................................................................................................................7 1.1.2. Vốn từ ..........................................................................................................7 1.1.3. Vấn đề mở rộng vốn từ ...............................................................................8 1.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non ................................................................9 1.2.1. Vốn từ xét về mặt số lượng ......................................................................10 1.2.2. Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại ..............................................................12 1.2.3. Khả năng hiểu nghĩa của từ của trẻ mầm non .........................................13 1.2.4. Đặc điểm vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi ...........................................................14 1.3. Vai trò của hoạt động đọc thơ .....................................................................15 1.3.1. Vai trò của thơ ca đối với trẻ mầm non ...................................................15 1.3.2. Vai trò của hoạt động đọc thơ đối với trẻ mầm non ...............................17 1.4. Cơ sở sinh lý và tâm lý của trẻ 4 - 5 tuổi....................................................19 1.4.1. Cơ sở sinh lý của trẻ 4 - 5 tuổi .................................................................19 1.4.2. Cơ sở tâm lý của trẻ 4 - 5 tuổi ..................................................................20 Chƣơng 2: BIỆN PHÁP MỞ RỘNG VỐN TỪ CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG ĐỌC THƠ .....................................................28 2.1. Thực trạng vốn từ của trẻ 4 - 5 tuổi tại tường mầm non Hoa Sen - Thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc ..........................................................................28 2.2. Các biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ.........................................................................................................................31 2.2.1. Đàm thoại, giảng giải để trẻ hiểu về bài thơ ...........................................31 2.2.2. Đọc diễn cảm cho trẻ nghe và dạy cho trẻ học thuộc thơ ......................34 2.2.3. Sưu tầm các bài thơ theo từng chủ đề dạy học .......................................36 2.2.4. Sử dụng đồ dùng trực quan trong hoạt động đọc thơ .............................43 2.2.5. Sử dụng từ có cùng trường nghĩa.............................................................45 KẾT LUẬN ........................................................................................................45 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................46 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc học đặt nền móng cho sự phát triển về thể chất, nhận thức, tình cảm xã hội và thẩm mỹ của trẻ. Những kỹ năng mà trẻ tiếp thu được qua chương trình giáo dục mầm non sẽ là nền tảng cho việc học tập và thành công sau này. Giáo dục mầm non sẽ chuẩn bị cho trẻ những kỹ năng như tự lập, sự kiềm chế, khả năng diễn đạt rõ ràng, đồng thời hình thành hứng thú đối với việc đến trường ở bậc học tiếp theo, tăng khả năng để sẵn sàng bước vào giai đoạn giáo dục phổ thông. Để trẻ có bước đệm tốt nhất trước khi bước vào giáo dục tiểu học cần có khả năng và sự phát triển ở năm lĩnh vực: Phát triển kỹ năng ngôn ngữ và nhận thức, kỹ năng giao tiếp và hiểu biết chung, sự hình thành tình cảm năng lực xã hội, sức khỏe và thể chất. Phát triển ngôn ngữ là một trong các lĩnh vực phát triển quan trọng của giáo dục mầm non. Trong đó mở rộng vốn từ là nền móng để phát triển ngôn ngữ. Mở rộng vốn từ được tăng cường thông qua các môn học, các hoạt động trong trường mầm non của trẻ. Đặc biệt thông qua môn học làm quen với các tác phẩm văn học, cụ thể là hoạt động dạy trẻ đọc thơ, trẻ có thể phát triển vốn từ một cách tốt nhất. Thông qua các bài thơ, trẻ có thể tiếp nhận được cái hay cái đẹp của tiếng nói dân tộc, từ đó làm giàu cảm xúc, phát triển trí tưởng tượng, khám phá những điều mới lạ trong thế giới xung quanh. Giai đoạn 4 - 5 tuổi của trẻ là giai đoạn then chốt cần trang bị và hình thành vốn từ phong phú để phát triển ngôn ngữ một cách tối đa. Dạy trẻ 4-5 tuổi đọc thơ là biện pháp hiệu quả để nâng cao mở rộng vốn từ ngữ. Với ý nghĩa ấy, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4-5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ” nhằm tìm hiểu 3 vai trò của hoạt động đọc thơ để mở rộng vốn từ cho trẻ và tìm ra một số biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động này. 2. Lịch sử vấn đề Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là công việc quan trọng và cấp thiết, tạo điều kiện để trẻ có sự tự tin trong giao tiếp. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” (2004) đã nghiên cứu rất kĩ sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở những đánh giá chung về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở lứa tuổi này, dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học với bộ môn khác ông đã đưa ra một số phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ. Nguyễn Xuân Khoa trong: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ, truyên (1979), cũng đề cập đến nội dung phương pháp nhằm hình thành và phát triển vốn từ ngữ cho trẻ. Cùng với Nguyễn Xuân Khoa, Đinh Hồng Thái trong cuốn “ Giáo trình phương pháp phát triển lời nói trẻ em” (2007) đã viết rất chi tiết về lời nói mạch lạc và các hình thức, phương pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo. Ngoài ra, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non cũng được đề cập trong những côn trình nghiên cứu của các tác giả khác như: Nghiên cứu Phạm Thị Phú và Lê Thị Ánh Tuyết: “Phương pháp làm quen với văn học ở trẻ mẫu giáo: Phương pháp và hình thức cho trẻ làm quen với các tác phẩm văn học”. Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên sâu còn có các khóa luận nghiên cứu như: Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thùy Tiên, Trường Đại học Tây Bắc, năm 2003: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua thơ Phạm Hổ. 4 Tuy nhiên các nghiên cứu trên chỉ tập trung và các hình thức, biện pháp để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chứ chưa đi sâu và việc mở rộng vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động cụ thể là hoạt động đọc thơ trong trường mầm non. Vì vậy đề tài này muốn đi sâu vào nghiên cứu một số biện pháp phát mở rộng vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở thấy được vai trò của hoạt động đọc thơ đối với việc mở rộng vốn từ ở trẻ 4 - 5 tuổi, đề tài tập trung tìm hiểu một số biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu + Nghiên cứu lí luận về vấn đề + Tiến hành thu thập và thống kê tư liệu nghiên cứu + Phân tích, miêu tả các biện pháp để mở rộng vốn từ qua hoạt động đọc thơ 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ xem xét khả năng mở rộng vốn từ ở trẻ 4 - 5 tuổi trường mầm non Hoa Sen – Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc thông qua một số bài thơ được sử dụng trong chương trình giáo dục mầm non độ tuổi 4-5 tuổi hiện nay 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê 5 - Phương pháp miêu tả - Phương pháp phân tích ngôn ngữ học 6. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc thành 2 chương Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Biện pháp mở rộng vốn từ cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động đọc thơ 6 NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.Từ và vấn đề mở rộng vốn từ 1.1.1.Từ Từ là vấn đề được nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm tìm hiểu. Cho đến nay, đã có khoảng 300 định nghĩa về từ. Ở đây chúng tôi dựa trên quan điểm về từ tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt”. “ Từ của Tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt”. 1.1.2. Vốn từ Vốn từ của một ngôn ngữ là “tổng số và hệ thống toàn bộ từ và cụm từ cố định của ngôn ngữ đó”. Mỗi một ngôn ngữ phát triển có một khối lượng từ phong phú có thể lên tới hàng chục vạn từ. Vốn từ vựng của một ngôn ngữ bao gồm nhiều lớp từ, nhiều nhóm từ không đồng nhất và có đặc trưng khác nhau. Trong vốn từ vựng của bất kỳ ngôn ngữ nào cũng tồn tại những từ mới và những từ cũ, những từ phổ biến chung và những từ địa phương, những từ chuẩn mực và những từ vay mượn, từ chuyên môn. Ví dụ: Vốn từ của ngôn ngữ Tiếng Việt có nhiều từ vay mượn từ tiếng Hán hoặc tiếng Pháp (ghi - đông, gác - ba - ga... ) Với mỗi cá nhân, vốn từ không tỷ lệ thuận với vốn từ trong ngôn ngữ chung của cả cộng đồng mà nó phụ thuộc vào sự phát triển trí tuệ, nhận thức, văn hoá của mỗi cá nhân. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học thì 7 vốn từ của những người có trình độ văn hoá cao là khoảng 6000 - 9000 từ, của một nhà thiên tài là xấp xỉ 20.000 từ. Dựa vào tần số sử dụng của các từ trong đời sống xã hội, người ta phân chia vốn từ thành hai loại: vốn từ tích cực và vốn từ thụ động. Vốn từ tích cực là những từ được con người nắm vững, có tần số sử dụng cao trong cuộc sống hằng ngày. Vốn từ thụ động: gồm những từ ít hoặc không được sử dụng. Đó là những từ không còn phù hợp với cuộc sống hiện tại (bao cấp, tem phiếu...) hoặc mang nghĩa riêng, chưa được sử dụng rộng rãi. Đối với trẻ mầm non, vốn từ tích cực là những từ trẻ hiểu được và biết vận dụng trong các tình huống giao tiếp. Còn vốn từ thụ động là những từ trẻ chưa hiểu ý nghĩa hoặc có hiểu nhưng không biết vận dụng trong giao tiếp (không nói ra được). Như vậy nghiên cứu phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là mở rộng vốn từ, làm giàu vốn từ về mặt số lượng mà phải tích cực hoá vốn từ trong giao tiếp. 1.1.3. Vấn đề mở rộng vốn từ Phát triển vốn từ cho trẻ là cơ sở của công tác phát triển ngôn ngữ. Bởi vì từ là đơn vị có nghĩa của lời nói, có thể dùng độc lập, bao gồm đầy đủ cả hai mặt: âm thanh và ý nghĩa. Trong từ phản ánh những sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh cũng như các đặc điểm của nó. Việc phát triển vốn từ cho trẻ phải được tiến hành cùng với việc mở rộng và nâng cao nhận thức của trẻ về thế giới xung quanh. Đây là hai mặt có quan hệ hữu cơ và không thể tách rời nhau. Trường mầm non có nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ cả về số lượng và chất lượng. Dạy trẻ không chỉ biết nhiều từ, mà còn phải hiểu từ, sử dụng từ đúng, loại ra những từ không đẹp trong lời nói của trẻ, dạy trẻ biết cách sử dụng một số biện pháp tu từ đơn giản trong giao tiếp hàng ngày. Phát triển vốn từ được hiểu như là một quá trình lâu dài trẻ tích lũy vốn từ, hiểu nghĩa của từ và hình thành cách sử dụng từ trong các tình huống 8 giao tiếp cụ thể. Trẻ chỉ lĩnh hội nghĩa của từ khi nào từ được sử dụng trong câu, trong lời nói. Vì vậy, công tác phát triển vốn từ cần được tiến hành chặt chẽ với việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở trẻ. Xem xét quá trình hình thành và phát triển vốn từ ở trẻ, ta có thể thấy được trẻ lĩnh hội nghĩa cụ thể của từ và nội dung khái niệm của từ, nó có liên quan đến quá trình nhận thức của trẻ; đồng thời, trẻ còn lĩnh hội vốn từ như là một yếu tố của lời nói như cách sử dụng từ, dùng từ thay thế, dùng từ có mức độ khác nhau, dùng từ trái nghĩa, đồng nghĩa…, cách sử dụng từ trong câu. Phát triển vốn từ có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Lĩnh hội vốn từ là điều kiện quan trọng để phát triển trí tuệ và để giải quyết nhiệm vụ tích lũy và chính xác hóa biểu tượng, hình thành khái niệm, phát triển tư duy. Vốn từ nghèo nàn ảnh hưởng đến giao tiếp của trẻ. Cùng với việc phát triển vốn từ, chúng ta thực hiện nhiệm vụ giáo dục đạo đức và thẩm mỹ. Do đó, công tác phát triển vốn từ là hoạt động giáo dục có chủ định, có kế hoạch nhằm giúp trẻ lĩnh hội vốn từ có hiệu quả. 1.2. Đặc điểm vốn từ của trẻ mầm non Ngôn ngữ là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập và vui chơi. Ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển của tâm lý trẻ em. Bên cạnh đo ngôn ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hoá. Trong đó vốn từ là nền móng để phát triển ngôn ngữ, mà ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển về trí tuệ của trẻ. Vốn từ được sử dụng trong lới nói được coi là một phương tiện tác động rất tinh tế trong hệ thống xây dựng môi trường sư phạm có định hướng, bởi trong ngôn ngữ nói không chỉ có thông tin mà còn có cả ý nghĩa tình cảm. 9 Ngôn ngữ lúc đầu của trẻ còn sơ khai xuất phát từ thế giới xung quanh. Các câu nói của trẻ chưa hoàn thiện mà phải trải qua quá trình trao đổi, tiếp xúc với nhiều người xung quanh mà vốn từ của trẻ được tăng lên theo thời gian. Từ những quá trình học hỏi đó mà câu nói của trẻ dần hoàn thiện và nói được câu hoàn chỉnh. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ diễn ra nhanh nhất là từ 0-6 tuổi (độ tuổi mầm non). Bắt đầu từ khi sinh ra trẻ chưa có ngôn ngữ cho đến cuối 6 tuổi thì trẻ đã có thể sử dụng thành thạo ngôn ngữ trong các hoạt động vui chơi, sinh hoạt hàng ngày. Đó được gọi là giai đoạn phát cảm về ngôn ngữ. Nếu không có những điều kiện để phát triển ngôn ngữ trong giai đoạn này thì về sau khó có thể phát triển một các tốt nhất. 1.2.1. Vốn từ xét về mặt số lượng Ngôn ngữ của trẻ nhỏ phát triển theo mức độ tăng dần và ở mỗi mức độ lại có những đặc trưng không giống nhau. Trẻ sơ sinh thì chưa hiểu được ngôn ngữ của người lớn, mà ở độ tuổi này thì trẻ mới chỉ có thể cảm nhận được giọng điệu, giọng nói của mẹ. Bắt đầu từ tháng thứ 7 - 8, trẻ bắt đầu biết tên của mình. 10 - 11 tháng trẻ bắt đầu hiểu 1 số từ chỉ sự vật, người được thường xuyên tiếp xúc với mình. Từ tháng 12 trở đi bên cạnh các âm bập bẹ xuất hiện các từ chủ động đầu triên. Ở 18 tháng tuổi, số từ bình quân là 11 từ; cháu ít nhất là 0; nhiều nhất là 25 từ (trường hợp đặc biệt có đến 45 từ) trẻ bắt chước người lớn lặp lại một số từ đơn gần gũi: mẹ, bà, bố… Từ 19 đén 21 tháng, số lượng từ tăng nhanh. Đến 21 tháng trẻ đạt tới 220 từ. Giai đoạn 21 - 24 tháng, tốc độ chậm lại, chỉ đạt từ 234 vào tháng 24, sau đó lại tăng tốc: 30 tháng đạt từ 434 từ, 36 tháng đạt 486 từ. 10 Do nhu cầu được giao tiếp ngày càng cao nên khả năng ngôn ngữ của trẻ cũng được nâng cao dần theo độ tuổi. Một số nhà khoa học có đưa ra các số liệu như sau: N.D.LEVITOP: 3-5 tuổi 1000 từ YU.U.Pratuxevich: 4-5 tuổi 1900 – 2500 từ M. Becgiơrông: 3-5 tuổi 1222 từ Còn theo Nguyễn Xuân Khoa nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ em ở nội thành Hà Nội thì vốn từ của trẻ mầm non là: Trẻ 4 tuổi: 1900 - 2000 từ Trẻ 5 tuổi: 2500 - 2600 từ Trẻ 6 tuổi: 3000 - 4000 từ Theo thống kê của Đinh Hồng Thái, ở năm thứ 3 trẻ đã sử dụng được trên 500 từ, phần lớn là danh từ, động từ, tính từ và các loại khác rất ít danh từ chỉ đồ chơi, đồ dùng quen thuộc, các con vật gần gũi như: Mèo, chim…động từ chỉ hoạt động gần gũi của trẻ và những người xung quanh như: Ăn, uống, ngủ,… Trẻ 4 tuổi có thể nắm được xấp xỉ 700 từ. Ưu thế vẫn thuộc về danh từ và động từ. Hầu hết các loại từ đã xuất hiện trong vốn từ của trẻ. Từ 5 - 6 tuổi vốn từ của trẻ tăng bình quân đến 1033 từ, tính từ và các loại từ khác đã chiếm một tỉ lệ các hơn. Tốc độ tăng vốn từ ở các độ tuổi khác nhau, chậm dần theo độ tuổi: Cuối 3 tuổi so với đầu 3 tuổi vốn từ tăng 107%; cuối 4 tuổi so với đầu 4 tuổi vốn từ tăng 40,58%; cuối 5 tuổi so với đầu 5 tuổi vốn từ tăng 10,40%; cuối 6 tuổi so với đầu 6 tuổi vốn từ cũng chỉ tăng 10.01%. 11 Số lượng vốn từ của trẻ do các nhà khoa học nghiên cứu là khác nhau tuy nhiên đó là sự chênh lệch không lớn; bởi vì vốn từ của trẻ còn phụ thuộc vào các yếu tố khác nhau như sự tiếp xúc với những người xung quanh, trình độ của bố mẹ… 1.2.2.Vốn từ xét về mặt cơ cấu từ loại Cơ cấu vốn từ của từ loại trong vốn từ của trẻ là một tiêu chí để đánh giá chất lượng vốn từ. Số lượng từ loại càng nhiều bao nhiêu thì càng tạo điều kiện cho trẻ diễn dạt thuận lợi bấy nhiêu. Các loại từ xuất hiện dần dần trong vốn từ của trẻ. Ban đầu chủ yếu là danh từ sau đó đến động từ và tính từ; các loại từ khác xuất hiện muộn hơn. Theo nhà nghiên cứu Lưu Thị Lan Lứu tuổi Từ loại/ tỉ lệ (%) Danh từ Tính từ Trạng từ 3 tuổi 40,2% 7,8% 2,4% 5 tuổi 35,52% 8,64% 3,73% 6 tuổi 30,97% 30,97% Số lượng tính từ, trạng từ tăng lên ở độ tuổi mẫu giáo lớn và danh từ thì giảm đi so với lứa tuổi nhà trẻ. Theo Đinh Hồng Thái, trẻ 3 - 4 tuổi, về cơ bản trong vốn từ của trẻ đã có đủ các từ loại. Tuy nhiên tỷ lệ danh từ và tính từ cao hơn nhiều so với các từ loại khác: Danh từ chiếm 38%; động từ 32%; còn lại là tính từ 6,8%; đại từ 3,1%; phó từ 7,8%; tình thái từ 4,7%; quan hệ từ và số từ còn ít xuất hiện (số từ 2,5%; quan hệ từ 1,7%). Giai đoạn 5 - 6 cũng là giai đoạn hoàn thiện một bước cơ cấu từ loại trong vốn từ của trẻ. Tỉ lệ danh từ, động từ giảm đi (chỉ còn khoảng 50%) nhường chỗ cho tính từ và các loại từ khác tăng lên: Tính từ đạt tới 15%, quan hệ từ tăng lên đến 5,7 %; còn lại là các loại từ khác. 12 1.2.3. Khả năng hiểu nghĩa của từ của trẻ mầm non Khả năng hiểu nghĩa của từ là quá trình đi từ hình ảnh cảm giác đến sự khái ý nghĩa. Theo Fedorenko (Nga), ở trẻ em có 5 mức độ hiểu nghĩa khái quát của từ như: - Mức độ 0: Cuối tuổi lên 1, đầu tuổi lên 2, trẻ tương ứng tên gọi với một người cụ thể, một đồ vật cụ thể (bà, Hùng, bàn, bát…) để chỉ một vật cụ thể, riêng biệt (nghĩa biểu danh). - Mức độ thứ nhất của sự khái quát: Cuối tuổi lên hai, trẻ nắm được mức độ thứ nhất của sự khái quát, tức là tên gọi chung của đối tượng cùng loại (đồ vật, hành động, tính chất): “Bóng” chỉ một quả bóng bất kỳ, “búp bê” chỉ một con búp bê bất kỳ nào… (nghĩa biểu niệm ở mức độ thấp). - Mức độ thứ hai của sự khái quát: Trẻ nắm được mức độ thứ hai của sự khái quát, tức là tên gọi chung của những sự vật không cùng loại: “Quả” có thể chỉ bất kỳ loại quả nào (Quả cam, đu đủ, chuối…). “Xe” có thể chỉ bất kỳ loại xe nào (ô tô, xích lô…). + Cam, chuối, đu đủ: Mức độ thứ nhất của sự khái quát. + Quả: mức độ thứ hai của sự khái quát. - Mức độ thứ ba của sự khái quát: Trẻ khoảng 5-6 tuổi có thể nắm được mức độ thứ ba của sự khái quát: “đồ vật” có thể chỉ đồ chơi (búp bê, ôtô, máy bay…), đồ gỗ (giường, tủ, bàn ghế…), đồ nấu bếp (nồi, bát, chảo…). + Búp bê: Mức độ thứ nhất của sự khái quát. + Đồ chơi: Mức độ thứ hai của sự khái quát. + Đồ vật: Mức độ thứ ba của sự khái quát. - Mức độ thứ tư của sự khái quát: Là những biểu thị sự khái quát tối đa như: Vật chất, hành động, trạng thái, chất lượng, số lượng, quan hệ, khái niệm… Khả năng nắm được mức độ thứ tư của sự khái quát xuất hiện vào 13 tuổi thiếu niên. Trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi cũng có thể hiểu được một số khái niệm mang tính khái quát ở mức độ 4 nhưng phải thường xuyên được làm quen, hiểu được nghĩa của từ, được thực hành với những từ ngữ đó và gắn với những tình huống cụ thể (từ hạnh phúc...). 1.2.4. Đặc điểm vốn từ của trẻ 4-5 tuổi Sự phát triển ngôn ngữ gắn liền với sự mở rộng giao lưu của trẻ đối với thế giới xung quanh, với con người, với đồ vật và thiên nhiên. Việc mở rộng phạm vi tiếp xúc và các mối quan hệ xã hội giúp cho khả năng tri giác của trẻ nhanh nhạy hơn. Khả năng nhận thức và ngôn ngữ của trẻ ở giai đoạn 4- 5 tuổi này có những bước tiến mới đáng kể. Ở thời kì này, trẻ hoàn thiện dần về mặt ngữ âm, các phụ âm đầu, âm cuối, âm đệm, thanh điệu dần được định vị. Trẻ từ 4 - 5, tuổi khả năng nhận thức vốn từ tăng lên một cách đáng kể. Theo nghiên cứu của Y.Pratuxevich: 4 tuổi trẻ có 1900 từ và 5 tuổi là 2500 từ. Với sự nghiên cứu của Nguyễn Xuân Khoa về ngôn ngữ của trẻ nội thành thì vốn từ của trẻ là: 4 tuổi từ 1900 từ đến 2000 từ và 5 tuổi trẻ có từ 2500 từ đến 2600 từ. Trẻ học từ mới nhanh hơn, phát âm các từ tốt hơn so với các giai đoạn lứa tuổi trước. Chính vì lẽ đó mà vốn từ của trẻ ở giai đoạn này phong phú, bao gồm nhiều từ loại. Số lượng các từ loại: Danh từ, tính từ, đại từ, trạng từ được tăng lên một cách đáng kể, trẻ hiểu được ý nghĩa của nhiều từ loại khác nhau và biết sử dụng chúng để thể hiện mối liên hệ đa dạng giữa các sự vật và hiện tượng về thơi gian, định hướng không gian, số lượng, nguyên nhân và kết quả. Theo Nguyễn Minh Loan, Tìm hiểu vốn từ của trẻ mẫu giáo 5 tuổi, khóa luận tốt nghiệp khoa Mầm non, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 1993, các từ loại trong lời nói của trẻ 5 tuổi. 14 Bảng 1.2. Các từ loại trong lời nói của trẻ 5 tuổi Từ loại Số lƣợng Tỉ lệ( so với vốn từ) đã thống kê Thực từ 291 40% Động từ 230 30% Tính từ 58 7,3% Đại từ 25 2,7% Số từ 17 1,8% Phó từ 62 7,5% Ngữ thái từ 38 4,6% Quan hệ từ Hư từ Danh từ 16 1,5% Trẻ chủ động giao tiếp ngôn ngữ với những người xung quanh và hay đặt các câu hỏi như: “Như thế nào?”; “Làm gì?”; “Bao giờ?”; “Tại sao?”… Những câu hỏi, câu trả lời hay những câu nói của trẻ ngày càng được hoàn thiện hơn. Sử dụng những kĩ năng đó để hoạt động, di chuyển. Trẻ biết sử dụng vốn ngôn ngữ của mình để tham gia vào các trò chơi cùng bạn bè, cô giáo một cách say sưa, nhiệt tình và giao tiếp khéo léo hơn. Trẻ có thể diễn tả những hành động phức tạp và hăng hái kể về những điều xảy ra với nó. Khả năng tiếp thu và sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp hằng ngày của trẻ ngày càng tốt hơn. 1.3. Vai trò của hoạt động đọc thơ 1.3.1. Vai trò của thơ ca đối với trẻ mầm non 1.3.1.1. Thơ ca giúp trẻ cảm nhận cái hay cái đẹp trong tiếng nói dân tộc Ngay từ khi lọt lòng trẻ được nghe tiếng hát ru của mẹ cũng là lần đầu tiên trẻ được nghe giọng nói của con người - tiếng mẹ đẻ. Tuy đứa trẻ 15 chưa thể hiểu được những nội dung câu thơ mẹ hát nhưng lại dễ tiếp nhận nhạc điệu, vần điệu của nó. Thật tuyệt khi một đứa trẻ bắt đầu học nói lại được tiếp xúc với thơ ca, ngày qua ngày âm hưởng của nó cứ thấm dần vào tâm hồn của trẻ. Lời hay ý đẹp của thơ ca sẽ giúp các cháu biết nói đúng, nói hay, được miễn dịch khỏi thói ăn nói bừa bãi, thô lỗ, thói nói tục chửi bậy, giúp trẻ gần hơn tới cái đẹp của tiếng mẹ đẻ. 1.3.1.2. Thơ ca làm giàu thế giới cảm xúc của trẻ Thơ ca thể hiện thế giới nội tâm ở nhiều sắc thái, cung bậc khác nhau. Có những câu thơ đọc lên nghe thật vui tai, thật sảng khoái. Ngược lại có những câu thơ nghe sao mà da diết, day dứt lòng người. Những sắc thái tình cảm đó đã khơi dậy ở trẻ những cảm xúc phong phú về con người, hun đúc ở trẻ một tâm hồn nhạy cảm và giàu lòng nhân ái. Thơ ca giúp nuôi dưỡng và phát huy những đặc tính vốn có của trẻ như dễ xúc động, dễ đồng cảm khi tiếp xúc với con người và cảnh vật thế giới xung quanh. Đó là cái vốn quý giá để sống và làm viếc cần cho mọi người. Nhiều công trình nghiên cứu gần đây chứng minh rằng để có chất lượng cuộc sống cao và để thành đạt, người ta không chỉ cần có chỉ số trí tuệ ( IQ) cao mà rất cần có hệ số cảm xúc ( EQ) cao. Một tâm hồn giàu cảm xúc, giàu lòng yêu thương đó là tâm hồn của người biết hướng thiện, biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với mọi người. Thơ ca là nguồn năng lượng dồi dào bồi bổ cho thế giới cảm xúc của trẻ khi lớn lên trẻ luôn có được những trạng thái tinh thần lành mạnh, cân bằng giúp thành đạt trong cuộc sống. 1.3.1.3. Thơ ca phát triển mạnh trí tưởng tượng của trẻ Sự phản ánh hiện thực của thơ ca vừa thực lại vừa hư điều đó giúp trẻ phát triển mạnh trí tưởng tưởng. Hơn nữa nghệ thuật nhân cách hóa trong thơ là sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu thương với trí tưởng tượng và đó chính là đặc điểm tâm lý nổi bật của trẻ nhỏ. Sự vật xung quanh trong con mắt của 16 trẻ thơ bao giờ cũng có hồn, nhuộm màu xúc cảm và bay bổng đến kỳ diệu. Bằng sức tưởng tượng thơ ca còn giúp trẻ có một tâm hồn giàu ước mơ sớm hình thành những tiền đề của hoạt động sáng tạo, hình dung ra những cái sẽ có và mong muốn làm nên những điều tốt lành. 1.3.1.4 Thơ ca giúp trẻ khám phá những điều mới lạ trong thế giớ xung quanh Ngôn ngữ trong lòng thơ ca rất giàu hình ảnh. Trong thơ ca những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với nhau, những thái độ thân thiết giữa con người với thiên nhiên đều là nội dung phong phú bồi bổ cho đời sống tinh thần của các cháu nhỏ. Đọc thơ còn giúp trẻ khám phá những “quy luật đối nhân xử thế”, những vẻ đẹp trong thiên nhiên và trong cuộc sống của con người, giúp trẻ có cách nhìn cách nghĩ, cách cảm hồn nhiên trong sáng đối với thế giới xung quanh, nhạy cảm trước cái đẹp do đó dễ tiếp nhận điều hay lẽ phải. 1.3.2. Vai trò của hoạt động đọc thơ đối với trẻ mầm non Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn, vì thế thơ rất dễ đi vào lòng người. Ngay từ thủa lọt lòng, qua lời ru ngọt ngào của mẹ, dù chưa biết thưởng thức những nhịp điệu êm dịu lúc lên bổng, lúc xuống trầm, lúc ngâm nga của lời thơ đã góp phần tạo nên một thế giới tình cảm của bé. Thậm chí khi đã về già, ông, bà, cha, mẹ vẫn còn nhớ một cách sâu sắc những cảm giác của buổi ban đầu khi được nghe tiếng ru hời ru hỡi. Đó là những ký ức đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách mỗi con người. Trẻ thơ có một tâm hồn rất nhạy cảm với cái đẹp. Đây là lứa tuổi bắt đầu của sự nhận thức và những tình cảm mãnh liệt, các em yêu thơ, thích thơ và có nhu cầu đọc thơ. Trẻ em đến với thơ ca bằng những rung động đầu tiên ngọt ngào nhất, say mê nhất, những suy nghĩ phóng túng nhất. Chính vì vậy, thơ ca có vai trò quan trọng góp phần hình thành và phát triển nhân cách trẻ. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất